Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 40

Tổng truy cập: 1347940

CỘNG ĐỒNG

CỘNG ĐỒNG- Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Sách của Nơkhemia diễn tả cuộc lưu đày của dân Dothái từ Babylon trở về xây lại tường thành Giêrusalem. Khi vua nước Babylon chiếm hữu thành Giêrusalem và đánh đổ nước Giuđa, đã bắt dân Dothái cư ngụ ở Palestine đi làm tôi đòi nô lệ tại Babylon. Sau khi các vua nước Medes và Persians đánh thắng dân thành Babylon vào năm 538 BC, vua Cyrus đã cho phép dân Dothái trở về quê hương. Đúng ra, có 3 nhóm trở về vào 3 thời kỳ khác nhau. Nhóm thứ nhất dưới sự hướng dẫn của Zerubbabel vào năm 536 BC. Nhóm thứ hai được dẫn dắt bởi Ezra vào năm 458 BC và nhóm sau cùng được Nehemia dẫn về quê hương vào năm 445 BC. Sách của Nehemiah được viết vào trong khoảng thời gian (465-423 BC).

Sách Nơkhemia diễn tả việc ông thư ký Ezra đã quy tụ dân chúng đến lắng nghe sách lề luật của Chúa: “Ông đứng ở quảng trường phía trước cửa Nước, đọc sách Luật trước mặt đàn ông, đàn bà và tất cả các trẻ em đã tới tuổi khôn. Ông đọc từ sáng sớm tới trưa, và toàn dân lắng tai nghe sách Luật.” (Nkm 8,3) Chúng ta biết Sách Luật đã được ghi chép trên các tấm da thuộc hoặc viết trên cuộn giấy Papyrus. Khắc ghi những lề luật và huấn lệnh được truyền tụng qua nhiều đời. Các luật lệ bắt nguồn từ Mười Điều Răn mà Chúa đã truyền cho ông Môisen trên núi Sinai. Dân chúng chăm chú lắng nghe sách Luật từ sớm tới trưa và họ đã vui mừng hân hoan: Bấy giờ ông Ezra chúc tụng Thiên Chúa là Thiên Chúa vĩ đại, và toàn dân giơ tay lên đáp rằng: “Amen! Amen! Rồi họ sấp mặt sát đất mà thờ lạy Thiên Chúa.” (Nkm 8,6). Dân Dothái là dân được tuyển chọn. Họ được Thiên Chúa dẫn dắt qua sự hướng dẫn của các tiên tri và các vị tư tế cùng các bô lão. Họ sống liên kết thành cộng đồng tin thờ Thiên Chúa duy nhất.

Từ xa xưa, dưới thời vua Salômon, dân Dothái đã xây dựng đền thánh để tôn thờ Thiên Chúa. Họ đã có tổ chức xã hội về mọi mặt. Hàng tư tế đã có những nghi thức thánh hiến và dâng lễ toàn thiêu đền tội. Đền thờ là nơi mọi người dân tụ lại làm nên một cộng đồng dân Chúa. Đền thờ là trung tâm của cuộc sống đạo và là trái tim của mọi sinh hoạt. Dân chúng xum họp tại đền thờ để lắng nghe Lời Chúa, giải thích Kinh Thánh và dâng tiến lễ vật đền tạ. Niềm tin vào Thiên Chúa độc nhất được hun đúc và phát triển qua đời sống cộng đồng. Trải qua lịch sử ngàn năm, đạo Dothái vẫn luôn trung thành với các nghi lễ, giờ cầu nguyện, giữ ngày sabát, tuân giữ các giới răn và huấn lệnh. Ngoài trung tâm đền thờ chính, nhiều nhóm tại địa phương đã xây dựng nhiều Hội đường để cùng tụ họp nghe giảng và học hỏi Kinh Thánh.

Khi ra giảng đạo, Chúa đã đi cùng khắp mọi miền. Có khi Chúa giảng ngoài bãi biển, nơi chân đồi, ngoài cánh đồng, trong tư gia, ngoài đường phố và hôm nay Chúa đã vào Hội đường: “Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh.” (Lc 4,15) Nhiều người đi theo Chúa và chăm chú lắng nghe. Chúa giảng với uy quyền và lời Chúa có sức biến đổi tận tâm can. Khi vào Hội đường, Chúa Giêsu đã đứng lên đọc sách Tiên tri Isaia với đoạn này: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa.” (Lc 4,18-19) Đây là đoạn sách quan trọng nhất nói về Đấng Thiên Sai đã được chính Chúa Giêsu xác nhận: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.” (Lc 4, 21). Trong 3 năm giảng dạy, Chúa đã hoàn thành mọi lời tiên tri đã loan báo về Ngài.

Chúa Giêsu đã lập Giáo Hội, khởi đầu với một nhóm nhỏ các tông đồ, môn đệ và các thân hữu. Giáo Hội phát triển như hạt giống được gieo vào lòng đất, nẩy mầm, lớn lên và sinh nhiều bông hạt. Giáo Hội bao gồm những người cùng lãnh nhận một phép rửa, một đức tin, đức cậy, đức mến và một niềm hy vọng vào ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh của Chúa Cha đã trao và hoàn tất qua việc hiến thân mình chịu đau khổ, chịu chết và sống lại. Các tông đồ là những vị đầu tiên ra đi làm nhân chứng cho Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ trần gian. Các nhân chứng sống động được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần đã không ngừng rao giảng và thiết lập các giáo đoàn phụng vụ khắp nơi. Số tín hữu ngày thêm đông đảo và đa dạng. Giáo Hội mở cửa đón nhận mọi thành thành qua Bí tích Rửa Tội và lòng tin ao ước.

Giáo Hội khởi đi từ niềm tin yêu trong lòng người. Niềm tin qui tụ mọi dân, mọi nước, mọi chủng tộc, ngôn ngữ và văn hoá truyền thống. Thánh Phaolô Tông đồ đã dùng những hình ảnh rất cụ thể để diễn tả sự liên kết giữa các thành phần trong Giáo Hội: “Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy.” (1 Cr 12,12) Giáo Hội là một xã hội của loài người. Cần có các tổ chức phẩm trật, vai trò nghĩa vụ, mục vụ, phục vụ và cộng đồng tin yêu. Giáo Hội cần có sự hỗ tương trong tất cả các sinh hoạt đời sống. Giáo Hội mỗi ngày thêm đông số các thành viên nên phải kết hợp và gắn bó đoàn kết trong một nguồn sức sống. Kết hợp giống như các nhành nho được liên kết với cây nho là Chúa Giêsu Kitô. Thánh Phaolô tả hình ảnh bộ phận của thân thể: “Như thế, bộ phận tuy nhiều mà thân thể chỉ có một.” (1 Cr 12,20)

Chúng ta quan sát một cộng đoàn phụng vụ trong khi cử hành thánh lễ. Mỗi thành viên có trách nhiệm riêng theo chức vụ của mình. Trong tập thể bao gồm: cộng đoàn dân Chúa, các thừa tác viên thánh thể, đọc sách, các em giúp lễ, các vị tiếp tân, ban trật tự, xin tiền, dâng của lễ, ca đoàn và linh mục chủ tế. Mỗi người có một nhiệm vụ cần được chu toàn ăn khớp với nhau. Chúng ta biết rằng những bộ phận xem ra yếu đuối và có vẻ thụ động nhưng đây lại là bộ phận cần thiết nhất, đó là mọi tín hữu tham dự phụng vụ: “Hơn nữa, những bộ phận xem ra yếu đuối nhất thì lại là cần thiết nhất.” (1 Cr 12,22) Không có cộng đoàn dân Chúa, chúng ta sẽ không có các cuộc cử hành phụng vụ cách long trọng. Mỗi thành viên đều rất quan trọng tùy theo vai trò của mình, trong đó có các cụ ông cụ bà, các trẻ em và mọi thành phần dân Chúa.

Bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta nên một. Trong niềm tin yêu, chúng ta hỗ trợ và nâng đỡ nhau sống hoàn thiện. Chưa hẳn các linh mục chủ tế là những người đạo đức tốt lành hơn các thành viên khác. Chủ tế nên chu toàn các nghi thức và cử hành thánh lễ cách nghiêm trang và sốt sáng. Trước mặt Thiên Chúa, tất cả chúng ta chỉ là những đầy tớ vô dụng, không ai hơn ai. Điều quan trọng là trái tim yêu thương và sự gắn bó với thân thể mầu nhiệm của Chúa: “Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận.” (1 Cr 12,27) Các bộ phận trong cơ thể tuần hoàn phát sinh sự sống khoẻ mạnh và cường tráng. Các thành viên trong cộng đồng dân Chúa phải gắn kết yêu thương, đùm bọc và nâng đỡ nhau để chu toàn sứ vụ trong sự hài hoà và thuần thiện.

Chúa Giêsu không đến để kêu gọi nhưng người công chính và thánh thiện, nhưng là những kẻ tội lỗi. Những thành phần yếu bệnh cả hồn lẫn xác cần được sự nâng đỡ chở che và chữa lành. Họ là những bộ phận cần được quan tâm nhất vì: “Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung.” (1 Cr 12,26) Chúng ta không thể lên thiên đàng một mình, cần có những anh chị em xung quanh cùng đồng hành dìu dắt và đỡ nâng. Mỗi người đều có bổn phận làm cho thân thể mầu nhiệm được triển nở và phát sinh kết quả đời này và đời sau.

Lạy Chúa, đừng để chúng con bị lạc xa đường lối Chúa. Xin cho chúng con biết lắng nghe các huấn lệnh, điều răn, chỉ thị và giáo huấn của Chúa và Giáo Hội, để chúng con tuân cứ luật pháp của Chúa đêm ngày. Ước mong tên của mỗi chúng con sẽ được ghi vào sổ hằng sống đời đời, vì: “Ai không có tên ghi trong Sổ Trường Sinh thì bị quăng vào hồ lửa.” (Kh 20,15).

 CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN-C

LỜI QUYỀN NĂNG LÀ THẦN TRÍ VÀ LÀ SỰ SỐNG-  Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Mở cuốn Thánh Kinh, chúng ta thấy ngay sức mạnh của Lời, đó là tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. “Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng.” Liền có ánh sáng…” (x.St 1). Thánh Gioan khởi đầu Tin Mừng bằng những dòng tuyên tín về tính siêu việt, sự tiền hữu cũng như quyền năng của Ngôi Lời: “ Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Ngôi Lời vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1,1-3).

Thành thật cám ơn anh em Tin Lành đã góp phần một cách nào đó để rồi trong Công Đồng Vatican II Giáo hội Công giáo mạnh mẽ khẳng định rằng Giáo hội luôn tôn kính Lời Chúa ngang hàng với Thánh Thể Chúa Kitô (x.MK số 21). Với các bài Thánh Kinh trích đọc trong Chúa Nhật III TN C này, cách riêng bài đọc thứ nhất, Thánh vịnh đáp ca và bài Tin mừng, khiến chúng ta dễ nhận ra chủ đề là Lời Chúa và hiệu năng của Lời.

Khi khẳng định mình luôn tôn kính Lời Chúa như Thánh Thể Chúa Kitô, thì Giáo hội tuyên tín rằng Lời Chúa không chỉ là những gì được Chúa phán dạy mà còn chính là một Hữu thể, một Ngôi vị siêu việt, có từ đời đời và đầy quyền năng. Và Lời quyền năng ấy cũng là Lời Tình Yêu. Chính vì thế hiệu quả của Lời được tuyên ban luôn là những sự tốt đẹp cả về sự hiện hữu lẫn cách thế hiện hữu (x. St 1). “Lạy Chúa, Lời Chúa là thần trí và là sự sống” (Đáp ca). Qua bài trích Tin Mừng thánh Luca của Chúa Nhật III TN C, chúng ta cùng xem xét một vài hiệu quả của Lời được tuyên ban vốn đã được Chúa Giêsu minh nhiên khẳng định “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 1,21).

Lấy lại lời Ngôn sứ Isaia, Chúa Giêsu minh định rằng Thánh Thần ngự trên Người, xức dầu tấn phong cho Người để Người loan báo Tin mừng cho kẻ nghèo hèn. Và những hiệu quả của Lời Người loan báo đó là: “công bố cho kẻ bị giam cầm được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19).

Công bố năm hồng ân của Thiên Chúa: Đây là năm toàn xá đã được Thiên Chúa thiết lập trong Cựu Ước. Cuối một chu kỳ bảy năm là năm Sabat, thì phải để cho đất đai được nghỉ ngơi, không canh tác. Các nô lệ cũng được trả tự do …(x.Xh 21,2; Lv 25,1-7). Cuối chu kỳ bảy lần bảy năm và bắt đầu ngày mồng mười tháng bảy năm thứ bốn mười chín thì khởi đầu một năm toàn xá (x.Lv 25,8-54). Trong năm này đặc biệt cần phải thực thi ân tình cách khoáng đạt với người nô lệ, người nghèo, khách ngụ cư…như tha nợ, trả tự do, trả lại đồ cầm cố… Những quy định của năm toàn xá không nguyên chỉ để tái lập sự công bằng theo nghĩa công bằng phân phối, vì “ai giàu ba họ, ai lại khó ba đời!”, mà còn nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người nghèo hèn, bé mọn, cô thân, yếu thế. Tự sức mình, những người này như bất lực để giải thoát mình khỏi cảnh bần hàn, túng khổ. Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể giải thoát họ.

Khi công bố năm hồng ân của Thiên Chúa, Chúa Giêsu muốn nói đến tình yêu vô điều kiện của Cha trên trời, Đấng đã yêu thế gian đến nỗi ban chính Con Một để cho thế gian được sống và sống dồi dào (x.Ga 3,16). Sự kiện Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta là một hồng ân vô giá, vượt quá mọi công trạng của loài người. Đấng Siêu Việt mà xưa dân Chúa rất đổi kính sợ và cả kinh sợ, vì bất cứ ai thấy long nhan thảy đều phải chết, thì nay hiện diện giữa loài người và người ta có thể diện kiến, tiếp xúc, đụng chạm cách trực tiếp để được lãnh nhận ân phúc (x.1Ga 1,1).

Cho người mù được sáng mắt: Quả thật Chúa Giêsu đã dùng lời quyền năng của Người cho một vài người mù trong dân Israel thời bấy giờ được nhìn thấy ánh sáng. Tuy nhiên chắc chắn vẫn còn đó nhiều người về thể lý lúc bấy giờ chưa được lãnh nhận ân phúc. Như thế việc công bố lời ở đây không nhắm đến sự mù hay sáng của đôi mắt thể lý. Chúa đến để công bố lời giúp nhân loại nhìn thấy chân lý. Chân lý ấy chính là Người, Giêsu Kitô, cuộc sống, các hoạt động và những lời giảng dạy của Người. “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chúng cho sự thật” (Ga 18,37).

Chân lý nền tảng mà Chúa Giêsu đã từng long trọng khẳng định lại lời Kinh Thánh đó là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất là Đấng dựng nên mọi sự và là Cha chung của mọi người. Chúng ta phải tôn thờ, yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực. Yêu mến Chúa thì phải thực thi lời người phán dạy. Vì thế chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính bản thân mình, dù họ thương ta hay ghét ta, dù họ làm ơn cho chúng ta hay bách hại chúng ta (x.Mc 12,28-34; Mt 5,43-48). Chính khi bước đi trong ánh sáng chân lý thì chúng ta sẽ được tự do. Sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cảnh tình nô lệ.

Giải thoát, trả tự do cho người bị áp bức, kẻ bị giam cầm: Chúng ta chớ quên rằng khi Chúa Giêsu công bố những lời này và khẳng định chúng đang ứng nghiệm thì người anh em họ của Chúa là Gioan Tẩy giả đang ở trong ngục tù. Khi sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu rằng Người có phải là Đấng phải đến chăng, thì có lẽ Gioan Tẩy giả đang băn khoăn và ít nhiều cũng đang ở trong đêm tối của đức tin (x.Lc 7,18-23).

“Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do” (Ga 8,34-36). Những lời khẳng định trên của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rõ sứ mạng của Người. Người đến thế gian là để giải phóng chúng ta khỏi cảnh nô lệ thần dữ, khỏi cảnh ngục tù của tội lỗi. Các bức tường gỗ đá của chốn lao tù vẫn không thể cướp đi sự tự do của tâm hồn. Chính tội lỗi mới làm cho chúng ta thành người nô lệ, mặc dù chân vẫn thong dong ngoài đời.

Sau lời tuyên phán “Ta truyền cho anh: Hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà” đôi chân của người bất toại được giải phóng.

Nhưng rồi phải đến ngày đôi chân ấy lại bất động vì bệnh tật hay vì tuổi tác. Chính lời truyền phán: “ Tội lỗi anh được tha” mới là lời giải thoát người bất toại khỏi cảnh nô lệ, giam cầm. (x.Mc 2,1-12)

Vì yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã ban Ngôi Lời. Ngôi Lời là Ánh Sáng thế gian. Ánh sáng chân lý dẫn đưa con người thoát cảnh nô lệ tội lỗi đến cảnh đời tự do của phận người con được sống và sống mãi trong tình Cha trên trời. Hãy lắng nghe lời của Esdra: Đừng sầu thảm khóc lóc, nhưng hãy hân hoan vui mừng đón nhận Lời giải thoát, Lời yêu thương. Vậy hãy xét xem, bạn, tôi, chúng ta đã tham dự phần Phụng Vụ lời Chúa trong các Thánh Lễ, đặc biệt Thánh Lễ Chúa Nhật ra sao? Cũng hy vọng rằng các thừa tác viên của Lời trên giảng đài chớ quên rằng những chia sẻ của mình là một phần của Phụng Vụ Lời Chúa. Mong sao những lời ấy cũng có “quyền năng” vì là thần trí và là sự sống.

home Mục lục Lưu trữ