Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 72

Tổng truy cập: 1348055

LỜI TIÊN TRI ỨNG NGHIỆM

LỜI TIÊN TRI ỨNG NGHIỆM (*)- Chú giải của Noel Quession

 

Thưa ngài Thê-ô-phi-lô đáng kính, có nhiều người đã ra công soạn bản tường thuật những sự việc đã được thực hiện giữa chúng ta

Luca khi viết Tin Mừng đã có những người đi trước ngoài. Lúc đó Máccô đã viết Tin Mừng của mình và Luca đã có biết bởi vì ngài đã sử dụng và đôi khi theo khá sát Tin Mừng của Máccô.

Nhưng rõ ràng là có nhiều cách để soạn thảo về cùng một đề tài. Vả lại, không phê phán những người đã viết trước mình, Luca đề ra cho mình cách viết khác, theo phương thức và với những điểm nhấn mạnh của riêng ngài.

Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta

Do đó, như chúng ta, Luca thú nhận mình là một người đã không “thấy” Đức Giêsu: Ngài là một Kitô hữu thuộc “thế hệ thứ hai”. Nhưng vì sống rất gần với các biến cố của Đức Giêsu nên ngài đã điều tra… và nhận trách nhiệm truyền đạt lại (đó là Truyền thống) những gì chính ngài đã nhận được. Phần tôi, có phải tôi cũng là một mắt xích truyền đạt Đức Giêsu từ thời này qua thời khác không?

Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc

Luca thừa nhận ý định dạy giáo lý của mình một cách rõ ràng: Người muốn làm cho đức tin của người đọc được vững chắc. Tin Mừng không phải là một điều hư cấu, một huyền thoại. Tin Mừng rất nghiêm túc. Theo gương của Thánh Phaolô, thầy mình, và nhắm đến dân ngoại cải giáo (không phải là người Do Thái), Luca sẽ đề cao một số khía cạnh và giảm nhẹ một số khía cạnh đặc thù của người Do Thái. Tác phẩm của ngài được linh hứng. Nhưng sự Linh hứng của Thiên Chúa không loại trừ vai trò bình thường của các khả năng con người, của các tài năng, của việc tìm tòi của tác giả. Tin Mừng của Thánh Luca là một Tin Mừng độc đáo. Chúng ta hãy tiếp nhận nó như thế.

Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giêsu trở về miền Galilê, và tiếng tăm Người đồn ra khắp vùng lân cận

Suối nguồn nội tâm của Đức Giêsu chính là Chúa Thánh Thần. Luca sẽ không ngừng lặp lại điều đó: Được thụ thai bởi Chúa Thánh ‘Thần (Lc 1,35)… mặc lấy Thần Khí của phép rửa tội (Lc 3,22)… được Thần khí dẫn đưa (Lc 4,l-4,14-4,18)… Nói theo cách của con người, người ta có thể tưởng tượng Đức Giêsu trong sự kết hiệp không ngừng với Đấng vô hình bằng một thứ cầu nguyện liên tục: Người không làm điều gì bởi chính Người. Người sẽ nói như thế (Ga 8,28). Trong Người, về một Hơi Thở là hơi thở của chính Chúa Cha. Trong Người, có một “người nhắc” nói với Người mọi việc Người làm trong sự tự do tuyệt đối. Tôi cũng thế, tôi hãy để cho Thần Khí dần đưa tôi.

Người giảng dạy trong các hội đường, và được mọi người tôn vinh

Hơn các thánh sử khác, Luca thường cho biết rằng Đức Giêsu “giảng dạy trong các hội đường” (Lc 4,15; 16,31; 6,6; 13,10) hoặc trong Đền thờ (Lc 19,47; 20,l; 2l,37). Giảng dạy trong hội trường trước hết có nghĩa là chú giải Cựu Ước. Đôi khi chúng ta tự hỏi nội dung các bài giảng của Đức Giêsu là gì. Người mở rộng, đi vào chi tiết, chú giải Kinh Thánh. Tin Mừng của Đức Giêsu, trong sự mới mẻ của Người, dựa vào các lời hứa: của Kinh Thánh một cách sâu xa. Việc Công Đồng đưa Cựu ước vào bài đọc thứ nhất mỗi chủ nhật là một sự đổi mới tìm về một truyền thống cổ xưa! Nhờ có Công Đồng, chúng ta thực hiện lại điều Đức Giêsu đã làm.

Rồi Đức Giêsu đến Nagiarét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ Isaia. Người mở ra gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi

Là Đấng Mêsia của những người nghèo khó, Đức Giêsu không lập dị. Người đến rao giảng không phải ở Giêrusalem, thành phố của các vua và các Thượng Tế; nhưng trong một tỉnh xa xôi và bị coi thường “vùng Galilê của dân ngoại” (Mt 4,15), vùng đất của những người phận nhỏ và nghèo khó. Là Đấng Mêsia và là tư tế, Đức Giêsu không lên Đền Thánh để cử hành các nghi thức thờ phượng, các hy tế, nhưng Người vào trong một Hội đường ở làng quê, nơi khiêm tốn để cầu nguyện và lắng nghe lời Chúa, mà tất cả lời Chúa đều tập trung trên sách thánh. Như thế, Người biểu lộ chức tư tế của Người trước hết thuộc bình diện ngôn sứ. Ngày nay cũng thế, trước tiên chúng ta hiệp thông với Đức Giêsu trong phần đầu tiên này của thánh lễ mà người ta gọi là “phụng vụ Lời Chúa”. Đó không phải là một phần nhập đề phụ thuộc và tùy thích. Thánh lễ đã bắt đầu. Đức Giêsu đã “thánh hiến” một lần duy nhất trong cuộc đời Người vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Nhưng Người đã dùng lời” nhiều lần: “Đó là chức tư tế của Người. Thánh Phaolô đã hiểu rõ điều ấy khi ngài được Đức Giêsu Kitô ban ân sủng làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa (Rm 15,16). Cuốn sách mà Đức Giêsu, ngày hôm đó mang theo, mở ra và đọc luôn trường tồn. Tôi có cuốn sách ấy trong nhà tôi không? Tôi có dành thời gian để đọc không? Kinh Thánh có là một phẩm đặc biệt trong việc đọc sách của tôi không? Gặp đoạn chép rằng: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Vì thế Đức Giêsu đã xác định sứ mạng của Người là một sứ mạng của ngôn sứ. Trong ngôn ngữ của Israel, những lời ấy có nghĩa: Tôi là ngôn sứ, tôi được Thiên Chúa gọi đến để nói nhân danh Người, để nói sứ điệp của Người. Và Đức Giêsu đặt mình dưới sự bảo trợ của ngôn sứ lớn nhất Isaia. Qua thủ bản Qumram, người ta biết được rằng ngôn sứ Isaia là một ngôn sứ được sử dụng nhiều nhất vào thời. Đức Giêsu: Thủ bản cổ thất thế giới rõ ràng là các cuộn da, đã được tìm thấy trong một: hang động cách nay vài năm và được bảo quản trong Viện Bảo Tàng Kinh Thánh, ở Gìêrusalem, và trên đó là toàn bộ bản viết tay sách Isaia. Như một sự tình cờ, một tài liệu duy nhất thuộc loại này trong toàn bộ văn chương thế giới đến được với chúng ta vào giữa thời kỳ hiện đại. Phải chăng chỉ do sự tình cờ? Chúng ta xúc động nhận rằng Đức Giêsu đọc sách Isaia đó.

Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi

Chúng ta hãy nhận xét thêm một lần nữa từ “xức dầu” được gọi là “chrisma” trong tiếng Hy Lạp, và Đấng được xức dầu được gọi là “christos” do đó mới có danh hiệu Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu là Đấng được Thần Khí: Thiên Chúa xức dầu, thâm nhập và thấm nhuần như dầu thấm vào cơ thể. Nơi người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện một cách cụ thể (Côlôsê 2,9).

Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.

Những từ “loan báo Tin Mừng” dịch từ một động từ Hy Lạp: euaggehsasthai có nghĩa là “truyền bá phúc âm”. Isaia đã viết ra từ ấy, mang đến niềm hy – vọng bao la gởi cho những. người bị lưu đầy ở Babylon để loan báo Tin Mừng họ được giải phóng (Is 52,7-61,1). Tin Mừng chính là sự’ “giải phóng”… và sự “phục hưng” Giêrusalem. Nhưng một thất vọng to lớn sẽ tiếp nối những loan báo mang tính ngôn sứ của Isaia. Những người “nghèo hèn” tiếp tục bị đàn áp, và bất hạnh. Dần dần, từ “nghèo hèn” trong Kinh Thánh bắt đầu gợi ra không chỉ một điều kiện khó khăn về kinh tế hoặc xã hội, những còn là thái độ nội tâm của người nào còn tìm được chỗ dựa nơi con người khi đối diện với những kẻ quyền thế của thế gian nên phải quay về Thiên Chúa. Luca đặc biệt thích nhấn mạnh đến chủ đề này: Thiên Chúa đã đặc biệt thi ái “những kẻ nghèo hèn “…

Còn bạn là anh chị em tôi, bạn cảm thấy mình bị loại khỏi hạnh phúc theo kiểu của thế gian, bạn là người mà Lời Đức Giêsu nhắm đến trước tiên. Có một hạnh phúc khả dĩ dành cho bạn: Bạn hãy tìm hạnh phúc đó bên cạnh Thiên Chúa.

Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa

Tùy theo tính khí, người ta sẽ còn tiếp tục giải thích bản văn này theo hai hướng trái ngược nhau, nếu như người ta không chịu chấp nhận cả hai: Vấn đề là sự giải phóng vật chất, chính trị và nhân bản… kẻ bị giậm cầm, người mù và người bị áp bức?… hay vấn đề là một sự giải phóng tâm linh hơn?

Chắc chắn rằng Đức Giêsu đã không mở cửa tất cả các nhà tù, không chữa lành mọi người mù và bệnh tật, đã không từ bỏ mọi áp bức khỏi hành tinh chúng ta. Hỡi ôi như thế chẳng hóa ra là một lời hứa vô ích, lừa phỉnh sao? Tuy nhiên trước hết người nghèo hèn động ở hàng đầu tiên để chờ đợi sự giải phóng về vật chất cho họ. Có lẽ chính chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu sẽ có tội nếu chúng ta không “thực hiện” lời tiên tri ấy. Chúng ta phải làm gì để giải phóng anh em chúng ta? Để làm giảm nhẹ những người bệnh tật? Nhưng cũng chắc chắn rằng sự áp bức tệ hại nhất là sự nô lệ nội tâm mà tội lỗi tạo ra trong chúng ta. Từ được dịch ra ở đây bằng từ “giải phóng” hay trả lại tự do chính là từ “aphésis” cũng có nghĩa là “tha thứ” (Lc 1,77-3,3-24,47; Cv 2,38,5,31 v.v…) Vâng, lạy Chúa, xin giải phóng chúng con xin tha thứ chúng con! ôi! trong tầm hồn con, có sự nô lệ khủng khiếp đó, khi con trở nên tù nhân của xác thịt con, của thù hận, tiền bạc, tiện nghi, khoái cảm! Sự giải phóng mà Đức Giêsu đã hứa cũng dành cho chính con.

Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe.”

Ngày nay ở thế kỷ 21, điều đó có liên quan gì với tôi? Thánh Luca sử dụng mười hai lần tiếng “hôm nay” mầu nhiệm và trang nghiêm ấy, trong Tin Mừng của Ngài; từ “Hôm nay” đã sinh ra cho anh em một “Cứu Chúa” cho đến “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” lúc Người bị treo trên thập giá. (Lc 2,11; 3,22; 4,21; 5,26; 12,28; 13,32; 13,33; 19,5; 19,9; 22,34; 22,61; 23,43).

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT III THƯỜNG NIÊN- C

“ỨNG NGHIỆM LỜI KINH THÁNH QUÝ VỊ VỪA NGHE” – Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1/.Trang minh họa dự tính của Luca

Vì là người ngoại đến với đức tin Kitô giáo, Luca đã không được biết Đức Giêsu nhiều. Bởi vậy, trước khi viết về Đức Giêsu, Luca đã muốn “cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự” và cố gắng căn cứ vào những nguồn tài liệu có giá trị, để cho tác phẩm của mình hữu ích và có nét độc đáo đối với phần đông độc giả là những người cũng từ ngoại giáo trở lại như ngài, mà điển hình là “ngài Thêôphilê đáng kính “.

Nếu Luca có ý “tuần tự viết ra câu chuyện” thì không phải là viết theo cách thức những nhà nghiên cứu lịch sử ngày nay vốn quan niệm, mà chỉ là để phục vụ và hỗ trợ cho một suy tư thần học mà thôi, như ngài sẽ nói lên điều đó trong các phẩm thứ hai của mình. Dự tính của Luca là chỉ muốn kể lại việc Thiên Chúa mở cửa cho các dân ngoại đón nhận đức tin như thế nào” (Cv. 14,27). Vì thế tác phầm của Luca gồm hai cuốn sách trình bày chương trình cứu độ về mặt lịch sử và cũng cả về mặt địa lý nữa.

– Chương trình cứu độ xét về mặt lịch sử:

+ Sau thời kỳ LỜI HỨA

+ thì đến thời kỳ THỰC HIỆN

Với thời Chúa Giêsu, Thần Khí xưa đã tác động các ngôn sứ, thì nay càng tỏ hiện tràn đầy trông ngôn ngữ và hành động của Đức Giêsu.

Với thời của Giáo hội, thời của Thần Khí được thông ban tràn đầy qua Đức Kitô phục sinh.

– Chương trình cứu độ về mặt địa lý được diễn ra chung quanh Giêrusalem.

+ Giêrusalem, nơi mọi sự bắt đầu với lời Sứ thần báo tin cho ông Dacaria ở trong Đền thờ, sẽ là thành đô cho Đức Giêsu lên đó để sống trang sử “xuất Hành ” của Người và cũng là nơi, như cuối Phúc âm Luca có ghi, để các Tông đồ ngày ngày sẽ lên Đền thờ mà chúc tụng Đức Giêsu như là Đức Chúa phục sinh (Phúc âm theo thánh Luca). Sách Tin Mừng của Luca mở đầu từ trong Đền thờ thì cũng kết thúc ở đây.

+ Giêrusalem, nơi mọi sự bắt đầu với biến cố Thăng thiên, cũng sẽ là thành đô để từ đó các người phục vụ Lời Chúa sẽ bung ra trên mọi nẻo đường nhân loại để mang Tin Mừng “cho đến tận cùng trái đất ” (Sách Công vụ Tông đồ).

2/. Buổi hội họp ở hội đường

“Được đầy Thánh Thần” khi chịu phép rửa ở sông Giođan, và được Thánh Thần dẫn vào hoang địa để đối đầu quyết liệt với ma quỷ và Người đã chiến thắng, giờ đây Đức Giêsu đã trở về Galilê và đến Nadarét là “nơi Người mới sinh trưởng”. Như một người Do thái đạo đức, Người vào hội đường “như Người vẫn quen làm trong ngày sabát”.

Khác với Matthêu và Maccô đặt biến cố này – thiết tưởng có vẻ đúng hơn vào cuối thời kỳ thi hành sứ vụ ở Galilê, còn Luca thì đã đặt vào đầu thời kỳ, để phục vụ tốt hơn cho dự tính của mình và đã kết cấu bài tường thuật của mình như một “biến cố điển hình” khai mở và tóm tắt trước những gì sắp xảy ra, tức là việc Đức Giêsu bị dân Người chối bỏ và công cuộc loan báo Tin Mừng cho các dân ngoại.

– Hôm đó là “ngày Sabát” là ngày để nghe đọc Sách Thánh, ngày kỷ niệm cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, ngày mà người có lòng tin trong khi chúc tụng Thiên Chúa giải thoát dân Người thì cũng phải nghĩ đến việc giải thoát chính mình và người khác khỏi ách nô lệ.

– Chúng ta đang “trong hội đường” và Luca đưa ra cho chúng ta một bức tranh quý giá về phụng vụ diễn ra vào mỗi ngày thứ bảy. Nếu như Luca bỏ qua phần nghi thức mở đầu (lời khái quát, kinh cầu nguyện lời chúc lành), cũng như không gợi lại bài đọc thứ nhất, thì ngài lại mô tả cách rất tỉ mỉ và gần như khoan thai, mọi cử chỉ và nghi thức mà Chúa Giêsu đã làm.

3/.…. lúc ấy Chúa Giêsu loan báo “Tin Mừng”

Theo tập tục để lại từ bao đời (cf. Công vụ Tông đồ 13,15 và tiếp theo: Phaolô và Banaba viếng thăm hội đường ở An-ti-ô-khi-a miền Pixidia), Đức Giêsu được cộng đồng tôn giáo Do thái tiếp đón, mời đứng lên đọc một đoạn sách thánh; sau đó Người ngồi xuống để giải thích đoạn sách Tiên tri vừa đọc.

Đoạn sách của buổi phụng vụ hôm đó đúng là Isaia 61, 1-2: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi”. Đây là một trong những lời sấm lớn, vốn nuôi dưỡng niềm hy vọng của dân tộc Do thái. Truyền thống của họ coi đây là lời loan báo về Đấng thiên sai đến; Người đầy tràn Thần Khí, Người đem đến “Tin Mừng”, là loan báo về thời đại mới bắt đầu khai mở, dân tộc Israel được giải phóng và khởi đầu triều đại của Thiên Chúa.

4/.về “hôm nay” ứng nghiệm lời Kinh Thánh.

Bây giờ là lúc Chúa Giêsu đã cuộn sách lại và trả cho người giúp việc hội đường Người ngồi xuống và bắt đầu giải thích những lời vừa đọc. Một bài giải thích mà Luca đã tóm tắt lại bằng một câu tuyệt vời: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe”. R. Meynet chú giải: “Kinh thánh tuy là những lời nằm chết trong sách, lại có được sức sống nhờ được đọc lên lúc này. Được nói lại từ một cửa miệng, Kinh Thánh lại trở thành lời mang ân sủng cho những ai nghe. Phép lạ của việc đọc sách thánh là làm cho những lời xưa của vị tiên tri đã chết rồi, trở thành lời sống động của Đấng được sai đến hôm nay. (“Phúc âm theo thánh Luca. Phân tích tu từ”, Cerf, tr. 62).

Cùng với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, tất cả những lời tiên tri loan báo đều ứng nghiệm: Người là Đấng Mêsia được sai đến (Is. 61) tràn đầy Thần Khí của Đức Chúa; bản thân và sứ điệp của Người là “Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo hèn”. Cùng với Người và trong người, thời đại mới của ân sủng, thời đại “công bố một năm hồng ân của Chúa” được khai trương. Cùng với Người và trong Người, Thiên Chúa ra tay hành động để giải thoát mọi người, “người bị giam cầm, người mù, người bị áp bức”, tất cả đều được Người ban ơn cứu độ và tha thứ. Cùng với Người và trong Người, “Hôm nay” hồng ân của Chúa ùa tràn vào dòng lịch sử của loài người.

Trong hội đồng Nagiarét, Đức Giêsu khởi đầu sứ mệnh của Người “với quyền năng Thánh Thần” của phép rửa Người chịu. Sứ mệnh đó, Người sẽ theo đuổi xuyên suốt dòng lịch sử trong Giáo hội của Người, “với quyền năng Thánh Thần” của ngày Hiện Xuống.

Chúa nhật tuần tới, chúng ta sẽ chăm chú đọc nốt phần cuối của đoạn Phúc âm này.

BÀI ĐỌC THÊM

*1. Một bản tóm lược về sứ mệnh của Đức Giêsu. (H. Villliez, trong “Dieu si proche. Năm C”, DDB, trg 86)

“Hành động mở màn cho sứ vụ của Đức Giêsu đã diễn ra ở Nadarét… Trong hội đường, vào ngày sabát. Vì là một người ngoại giáo trở lại, nên Thánh sử Luca chủ tâm nêu bật hai điều này: sứ điệp trước tiên đã được gởi đến cho người Do thái, sau đó nhờ một khúc quanh lịch sử nhiệm mầu, sứ điệp ấy sẽ được loan báo cho dân ngoại. Câu chuyện này giống như một việc làm trước thời hạn, diễn tả những gì sẽ sảy ra. Đúng là một bản tóm lược về sứ mệnh của. Đức Giêsu. Câu chuyện vay mượn quá khứ tôn giáo của dân tộc Do thái và sách tiên tri Isaia thứ ba được viết từ năm thế kỷ trước, như để nhấn mạnh rằng cội nguồn không bị đứt đoạn và truyền thống cũng không bị mai một, có nghĩa là cội nguồn và truyền thống vẫn được tiếp nối và duy trì.

Ba từ ngữ mang âm thanh vang dội và làm đảo lộn trật tự sẵn có là: kẻ nghèo, giải phóng, năm hồng ân. Ngươi ta ngờ vực, cũng là điều dễ hiểu thôi. Các đồng bào và đồng hương Nadarét của Đức Giêsu sẽ chống đối quyết liệt. Làm sao mà chấp nhận được một Đấng Mêsia cổ vũ việc giải phóng người nghèo và tuyên bố: “Năm hồng ân là chính hôm nay”. Nếu “theo sách Isaia thứ ba”, Tin Mừng là lời loan báo cho những người lưu đầy được hồi cư, thì với Đức Giêsu, Tin Mừng lại chính là lời loan báo cho những người nghèo biết rằng họ là “những người được Thiên Chúa yêu thương đặc biệt”, rằng họ được giải phóng. Với Đức Giêsu, hôm nay chấm dứt mọi kiếp nô lệ lầm than. Tóm lại, nhờ Thần Khí và Tình yêu, hôm nay là cuộc giải phóng toàn diện, giải phóng mọi hình thức bất công và tội lỗi.

Sau cùng, loan báo Tin Mừng còn là loan báo “năm hồng ân”. Năm nay phải là năm đại xá, năm nợ nần sẽ được tha hết, nô lệ sẽ được giải phóng, là năm mà con người nhờ tuân theo luật Chúa sẽ lập lại được một trật tự trần gian ngày càng nên giống Nước Trời hơn.

*2.“Mầu nhiệm của Lời Chúa”. (J Thunus. “Dans vol ascemblées” tập 2. DDB. trg 395)

“Hôm nay, bạn có nghe tiếng Người chăng?” Câu nói trong Thánh vịnh 94 này đã là khởi điểm để bức thư gởi tín hữu Do thái triển khai rộng rãi về tính hôm nay của Lời Chúa (Dt. 3,7- 4,11). Bài giảng của Đức Giêsu ở hội đường Nagiarét càng làm cho tính cách “hôm nay” này mang ý nghĩa đặc biệt.

“Đức Giêsu cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Rồi người bắt đầu nói với họ: Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa nghe” (Lc. 4,20-21).

Mầu nhiệm sâu xa rõ ràng là nằm trong lời nói đó. Lời Chúa đã được ghi chép lại ở một thời điểm của lịch sử là Lời nói cho mọi thời và là lời hằng sống và thực tế cho người biết lắng nghe trong tâm tình thờ phượng. Sự sống của lời Chúa là sự sống của Thần Khí, Đấng sẽ “dẫn tới sự thật toàn vẹn” (Ga. 16,13)

*3. “Loan báo Tin Mừng: một trách vụ của mọi tín hữu”. (M. Dcgraeve, trong “Unité des chrétiens”. Tháng 10-l994) số 96, trg 23 và 24)

“Hiệp thông huynh đệ, sống trong cùng một mái nhà là một thực tại phải xây dựng không ngừng. Sự hiệp thông phải được thể hiện dần dần. Thực sự, sự hiệp thông đã có đó rồi. Rất nhiều khi chúng ta chỉ thấy được những mối chia rẽ giữa các tín hữu, giữa các Giáo hội cùng tin Đức Kitô, nhưng cũng thấy ngay trong nội bộ của mọi Giáo hội, cả trong nội bộ của các cộng đoàn của chúng ta nữa. Nhìn kỹ vào những mối bất hoà kia, ta có thể nghiệm thấy rằng nếu biết dùng những phương tiện của sự hiệp thông, chúng ta sẽ xây dựng được cuộc sống huynh đệ. Để được như vậy, chúng ta phải biết nhìn nhận nhau là những con người khác nhau, nhưng đã được quy tụ lại bởi cùng một Lời và cùng tự nhủ là phải ráo riết thể hiện nước Chúa bằng việc rao giảng Tin Mừng.

Ý muốn chối bỏ những khác biệt thường dẫn tới sự từ chối người khác. Dẫu sao, giữa các cộng đoàn và các Giáo hội của ta cũng như giữa các Giáo hội cùng tin Đức Kitô, tính khác biệt là một quy luật chung, không ai chối cãi được.. Phải tôn trọng tập thể khác đã đành, mà bản thân mỗi người cũng cần biết tôn trọng nhau nữa. Như thế, chúng ta mới có thể chia sẻ những đau khổ của nhau, giống như những phần mình của một thân thể cùng chung phần đau đớn với phần khác trong thân thể vậy: đó chính là giáo huấn bản của thánh Phaolô. Nhận biết điều này và tôn trọng nhau như vậy không gì phù hợp với lẽ phải hơn, bởi lẽ chỉ một Thánh Thần sống trong ta và một Đức Kitô là đầu mới có thể cho phép ta thực hiện được điều này mà thôi. Chính Đức Kitô, Lời nhập thể là sự thiện chung mà mọi người cùng hưởng. Lời Chúa quy tụ chúng ta lại, cách riêng vào mỗi ngày Chúa nhật, ngày mà chúng ta cùng nhau chúc tụng tôn vinh Đức Kitô phục sinh, nên các Giáo hội Kitô của chúng ta, dù khác biệt nhau thế nào, thì Lời này vẫn phải được chia sẻ, hiểu biết, để Lời mang lại hoa trái và hoa trái tồn tại.

Nếu chúng ta thực sự ý thức một cách đầy đủ tầm quan trọng của Lời này, thì ta sẽ càng có khả năng hơn để thực hiện được việc rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khổ, việc giải thoát cho những kẻ bị giam cầm, bị áp bức và đem ánh sáng đến cho kẻ mù lòa. Đây là trách vụ chung mọi người cùng phải gánh vác, dù các Giáo hội và cộng đoàn của ta có là gì chăng nữa. Nếu chúng ta muốn sống tình bác ái huynh đệ giữa các Kitô hữu với nhau, ta phải bắt lay xây dựng một thế giới chan hòa tình huynh đệ.

home Mục lục Lưu trữ