Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 47

Tổng truy cập: 1348004

SỨ MẠNG GIAN KHỔ CỦA CÁC NGÔN SỨ

SỨ MẠNG GIAN KHỔ CỦA CÁC NGÔN SỨ (*)-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Chúa Chúa Nhật IV Thường Niên Năm C mời gọi chúng ta suy gẫm sứ mạng gian khổ mà các ngôn sứ đã kinh qua. Các ngài đã công bố những ý định của Thiên Chúa ngược lại với kỳ vọng của con người. Vì thế, để chu toàn sứ mạng của mình giữa những chống đối, các ngài phải cậy dựa vào Thiên Chúa.

Gr 1: 4-5, 17-19

Vốn bản tính là một người hiền lành, nhút nhát có một tâm hồn nhạy cảm, không muốn làm phiền lòng ai, tư tế Giê-rê-mi-a được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ của Ngài để loan báo án phạt sắp đến của Thiên Chúa cho một dân bất tín, vì thế ông bị mọi người căm ghét và tìm cách hãm hại.

1Cr 12: 31-13: 13

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô chứa đựng một bài thánh thi nổi tiếng ca ngợi “đức mến” cao trọng trên tất cả.

Lc 4: 21-30

Tin Mừng tiếp tục thuật lại phần thứ hai của câu chuyện Đức Giê-su về thăm Na-da-rét ở đó Ngài gặp phải thái độ tiêu cực từ phía đồng hương của Ngài, họ không hiểu và tìm cách hãm hại Ngài.

BÀI ĐỌC I (Gr 1: 4-5, 17-19)

Trong lịch sử của trào lưu ngôn sứ, ngôn sứ Giê-rê-mi-a chiếm lấy một chỗ đặc thù. Tác phẩm của ông chứa đựng, hơn bất kỳ tác phẩm nào khác, những lời trần tình bộc lộ cách tự nhiên đời sống nội tâm sâu xa của vị ngôn sứ. Trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, những lời phàn nàn của ông Gióp là tưởng tượng. Trái lại, trong cuộc đối thoại thường hằng với Thiên Chúa, những lời phàn nàn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a phản ảnh đúng những gì vị ngôn sứ đã thực sự kinh qua.

Vốn là một con người hiền lành, nhút nhát có tâm hồn nhạy cảm, ngôn sứ Giê-rê-mi-a lãnh nhận một sứ mạng hết sức khó khăn. Ngay đầu tác phẩm của mình, ngôn sứ Giê-rê-mi-a thuật lại ơn gọi ngôn sứ của ông “từ năm thứ mười ba triều vua Giô-si-gia-hu”, tức là năm 626 t.Cn. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a xuất thân từ một gia đình tư tế ở A-na-thốt, nơi có một thánh địa thời xưa, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 5 cây số.

1/.Thiên Chúa gọi tư tế Giê-rê-mi-a làm ngôn sứ của Ngài:

Thiên Chúa đích thân kêu gọi tư tế Giê-rê-mi-a làm ngôn sứ cho Ngài khi xưng mình là Ta:

“Trước khi cho ngươi thành hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi;

trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh hóa ngươi,

Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho chư dân” (1: 5).

Đây là biểu thức quen thuộc trong các sấm ngôn, biểu thức này bày tỏ mối quan hệ mật thiết đặc biệt giữa Thiên Chúa và vị ngôn sứ của Ngài. Người ta cũng có thể nghĩ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa vang lên trong lòng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a.

Sáng kiến của Thiên Chúa là ưu tiên và vô điều kiện. Thiên Chúa chọn những ai phục vụ những ý định của Ngài đều là như thế. Đức Giê-su gọi các môn đệ của Ngài cũng theo cùng một cách như vậy: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em” (Ga 15: 16).

Thiên Chúa đã gọi ngôn sứ Giê-rê-mi-a ngay từ trong lòng mẹ. Trong Kinh Thánh cho đến lúc đó, kiểu nói này chỉ được dành cho ông Sam-son (Tl 13: 5). Ngôn sứ I-sai-a sẽ lấy lại và áp dụng cho “người tôi trung” mầu nhiệm:

“Đức Chúa đã gọi tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ,

lúc tôi chưa chào đời, Người đã nhắc đến tôi” (Is 49: 1).

Thánh Phao-lô cũng sẽ định nghĩa ơn gọi của ngài như vậy: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong bụng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người” (Gl 1: 15). Thánh Lu-ca cũng sẽ nói về Gioan Tẩy Giả (Lc 1: 15) cũng như về Chúa Giê-su như vậy trong câu chuyện Truyền Tin.

Kiểu nói: “Ta đã biết ngươi” nói lên một sự hiểu biết chan chứa yêu thương, được ẩn chứa trong động từ “biết” của ngôn ngữ Híp-ri, nghĩa là Thiên Chúa dành sự ưu ái của Ngài cho người mà Ngài chọn. Kiểu nói: “Ta đã thánh hóa ngươi” hàm chứa một sự tấn phong về phương diện thiêng liêng theo cùng một cách thức như các ngôn sứ khác.

Khi nghe tiếng gọi của Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a còn quá trẻ: “Ôi! Lạy Đức Chúa là Chúa Thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói!”. Chúng ta không biết tuổi đời của ông vào lúc đó, có thể khoảng chừng ngoài hai mươi tuổi. Ông tự coi mình còn trẻ người non dạ, chưa có đủ bề dày kinh nghiệm trước một sứ mạng cao trọng này.

2/.Sứ mạng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:

Chính vị tư tế còn trẻ người non dạ này mà Thiên Chúa truyền lệnh:

“Hãy chỗi dậy! hãy nói với chúng

tất cả những gì Ta sẽ truyền cho ngươi.

Trước mặt chúng, ngươi đừng run sợ;

nếu không, trước mặt chúng,

chính Ta sẽ làm cho ngươi run sợ luôn” (1: 17).

Sứ mạng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a là kêu gọi toàn dân hoán cải và loan báo án phạt sắp tới: Thiên Chúa sẽ hủy diệt vương quốc, tàn phá Giê-ru-sa-lem, phá hủy Đền Thờ. Với tâm hồn nhạy bén, ông sẽ khóc than về nỗi bất hạnh giáng xuống trên dân tộc của ông, nhưng với tư cách là ngôn sứ, ông sẽ kiên vững trong sứ mạng của mình cách sáng suốt đến kinh ngạc và nuôi dưỡng niềm hy vọng không lay chuyển của mình vào một “Giao Ước Mới”.

3/.Ơn phù trợ của Thiên Chúa:

Vì loan báo những tai họa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị bách hại, bị chế nhạo. Ông sẽ cho thấy lòng can đảm khôn sánh trong những gian nan thử thách. Đức Chúa hứa với ông:

 “Này, hôm nay, chính Ta làm cho ngươi nên thành trì kiên cố,

nên cột sắt tường đồng chống lại cả xứ:

từ các vua Giu-đa đến các thủ lãnh,

các tư tế và toàn dân trong xứ” (1: 18).

Trong các ngôn sứ, ngôn sứ Giê-rê-mi-a có vận mệnh gần giống với vận mệnh của Chúa Ki-tô hơn cả.

BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 31: 13: 13)

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô chứa đựng một bản văn nổi tiếng được gọi là “bài ca đức mến”. Bài ca đức mến này hấp dẫn chúng ta vì nhiệp điệu của nó, những từ chủ yếu được láy đi láy lại, câu kết luận gây ấn tượng trên chúng ta: “Hiện nay đức tin, đức cậy và đức mến, cả ba điều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (13: 13).

1/.Chủ nghĩa cá nhân:

Thánh Phao-lô vừa gợi lên sự giàu có của những ân huệ mà Thánh Thần ban cách quảng đại cho cộng đoàn tín hữu Cô-rin-tô. Tuy nhiên, những ân ban này gây nên những xáo trộn, những ghen tuông. Thánh Phao-lô đã nhận thức rất rõ một trong những khuyết điểm cốt yếu của các tín hữu này là “chủ nghĩa cá nhân”. Vì thế, thánh nhân thường hằng cầu xin cho họ ý thức rằng họ là một phần của một thân thể duy nhất, thân thể của Đức Ki-tô.

Phương thuốc thật sự chữa trị chủ nghĩa cá nhân là “Mến Chúa và yêu người”. Đây là một ân huệ vượt trên mọi ân huệ. Mọi người trong cộng đoàn muốn được ơn nói tiên tri, được ơn nói tiếng lạ, được biết mọi điều bí nhiệm, thánh Phao-lô đáp lại: “Giả như tôi có được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chăng là gì” (13: 1-2).

Thánh Phao-lô không nghi ngờ đức tin của tín hữu Cô-rin-tô, thậm chí “chuyển núi dời non”; thánh nhân không nghi ngờ đức mến của họ, thậm chí đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí; thánh nhân không nghi ngờ đức cậy của họ, thậm chí sẵn sàng chết vì đức tin của mình. Điều quan trọng mà thánh nhân muốn nhắn gởi đến họ chính là nếu họ “không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì” (13: 3).

2/.Cao trọng hơn cả là đức mến:

Nếu phần bút chiến chiếm một chỗ lớn trong lời khuyên bảo cháy bỏng của thánh Phao-lô, điều này không là tất cả. Những phẩm chất của “đức mến” mà thánh nhân kể ra không dứt và cuối cùng thánh nhân quả quyết: “Đức mến không bao giờ mất được”. Viễn cảnh đều hướng đến yêu thương người thân cận, nhưng mến Chúa cũng được hàm chứa ở đây. Trong tất cả các thư của mình, thánh Phao-lô không ngừng lập đi lập lại lòng mến đối với Thiên Chúa đang hoạt động trong chúng ta để sinh hoa kết trái, đó là những hoa trái của đức ái huynh đệ. Thánh Phao-lô chỉ cho thấy dù làm bất kỳ công việc nào, ngay cả hiến thân mình cho đến chết, mà không có đức mến thì chưa đủ. Chính đức tin gợi lên đức mến; chính đức cậy nâng đỡ đức mến. Tự bản chất, ba nhân đức này đều là thánh thiện, nhưng “cao trọng hơn cả là đức mến”.

TIN MỪNG (Lc 4: 21-30)

Vào Chúa Nhật hôm nay, chúng ta tiếp tục suy gẫm câu chuyện Đức Giê-su về thăm đồng hương Na-da-rét của Ngài theo thánh Lu-ca. Trong phần thứ nhất mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật trước, Đức Giê-su đã được mọi người đồng hương hoan hỷ chào đón và ngưỡng mộ, vì họ hãnh diện về danh tiếng của một người trong họ và thán phục về cách thức giải thích Kinh Thánh của Ngài. Trái lại, phần thứ hai mà chúng ta đọc trong Tin Mừng hôm nay là một thất bại và gây nên làn sóng giận dữ từ phía những người đồng hương Na-da-rét. Câu chuyện này biểu tượng cho hai thái độ tương phản của dân Ít-ra-en: trước hết hoan hỷ tiếp đón Đức Giê-su, sau đó tìm cách loại bỏ và giết chết Người. Đồng thời, Đức Giê-su loan báo sứ mạng phổ quát của Người.

1/.Thái độ của người đồng hương Na-da-rét từ thiện cảm sang ác cảm (4: 22):

Từ thái độ thiện cảm: “Mọi người đều tán thưởng và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Đức Giê-su”, những người đồng hương Na-da-rét chuyển sang thái độ ác cảm với Ngài chỉ vì Ngài xuất thân từ một gia đình tầm thường: “Ông này không phải là con ông Giu-se đó sao?”. Gia thế tầm thường của Ngài đã che khuất tầm nhìn của họ khiến không thể nhận ra Đức Giê-su là Đấng được sai đến để thực hiện “lòng Chúa xót thương” trải rộng cho tất cả mọi người, nhất là những người bất hạnh, nghèo hèn, cùng khốn, bị áp bức trong xã hội, mà  ngôn sứ I-sai-a đã báo trước.

2/.Câu trả lời của Đức Giê-su (4: 23-27):

Đức Giê-su vạch trần những ý nghĩ thầm kín trong lòng họ khi trích dẫn câu tục ngữ: “Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình”. Câu tục ngữ này tiên báo thật hoàn hảo về những lời thách đố được lập lại đến ba lần ở dưới chân thập giá: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn” (23: 35, 37, 39).

Với niềm kiêu hãnh hẹp hòi và với cái nhìn nông cạn, họ cảm thấy bị chạm tự ái vì Đức Giê-su, người đồng hương của họ, đã không làm những điều kỳ diệu ở tại Na-da-rét như Ngài đã làm tại Ca-phác-na-um. Họ cho rằng mình có quyền chính đáng đòi hỏi Ngài thực hiện những phép lạ cốt để thỏa mãn tính tự phụ của họ, chứ không nhằm thay đổi lòng dạ của họ. Vì thế, Đức Giê-su trích dẫn câu tục ngữ thứ hai: “Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương của mình”. Qua câu tục ngữ thứ hai này, Đức Giê-su phác họa số phận chung của các ngôn sứ thời xưa, các ngài đã không được hiểu và bị bách hại bởi chính những người đồng hương của mình, tiêu biểu là số phận của ngôn sứ Giê-rê-mi-a, đồng thời tiên báo số phận của chính Ngài.

Cuối cùng, Đức Giê-su dẫn chứng hai mẫu chuyện về ngôn sứ Ê-li-a và ngôn sứ Ê-li-sê được trích từ 1V 17 và 2V 5. Qua hai mẫu chuyện này, Đức Giê-su muốn ám chỉ đến sứ mạng phổ quát của Ngài. Ngài đến để thực hiện sấm ngôn Is 61: 1-2, nhưng không chỉ đóng khung cho những người đồng hương của Ngài: dân Na-da-rét hay toàn thể dân Ít-ra-en, mà còn mở rộng ra đến hết mọi dân mọi nước khác nữa. Việc Ngài chọn Ca-phác-na-um làm cứ điểm truyền giáo của mình theo cùng một ý nghĩa như vậy. Thành này, được gọi là “Ngã Tư của các dân tộc”, là nơi giao tiếp thường hằng của dân Do thái với những dân ngoại chung quanh. Chiều kích hoàn vũ của sứ điệp được phác họa rồi. Đó cũng là toàn bộ chương trình mà Giáo Hội, tiếp nối sứ mạng của Đức Giê-su, sẽ thực hiện như được miêu tả trong sách Công Vụ Tông Đồ, sách này cũng là công trình biên soạn của chính thánh Lu-ca. Chính vì sứ mạng này mà Đức Giê-su được Chúa Cha sai đến để thực hiện bằng cả mạng sống mình và cũng vì sứ mạng này mà Giáo Hội hiện diện giữa nhân loại cho đến ngày Đức Giê-su trở lại trong vinh quang.

3/.Tiên báo tương lai (4: 28-30):

Việc Đức Giêsu hủy bỏ đặc quyền đặc lợi của họ trong việc thi ân giáng phúc gây nên làn sóng giận dữ từ phía những người đồng hương Na-da-rét của Ngài. Sự phẩn nộ của họ: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ”, tiên báo sự phẫn nộ của những thành viên Thượng Hội Đồng sau này. Phản ứng dữ dội của họ: “Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành… kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực”,  tiên báo cuộc Khổ Nạn của Ngài. “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”: tiên báo cuộc Phục Sinh tương lai của Ngài. Hiện thời, chưa tới giờ của các đối thủ, Đức Giê-su vẫn tiếp tục con đường của mình, con đường ấy rốt cuộc sẽ dẫn Ngài lên Giê-ru-sa-lem, ở đó Ngài sẽ bị dẫn ra ngoài thành thánh đến tận đỉnh đồi và bị đóng đinh tại đó.

4/.Ý nghĩa của câu chuyện Tin Mừng hôm nay:

Theo thánh Lu-ca, câu chuyện Đức Giê-su viếng thăm Na-da-rét mang tính ngôn sứ: câu chuyện này quy tụ mọi yếu tố tiên báo tiến trình sứ mạng của Đức Giê-su. Để hiểu một cách xác đáng những tương hợp lịch sử giữa cuộc viếng thăm Na-da-rét của Đức Giê-su và cuộc đời cứu độ của Ngài, chúng ta nên đọc liên tục: lòng nhiệt thành của đám đông dân chúng; thái độ từ chối của dân Ít-ra-en; sứ điệp được hứa cho lương dân; viễn cảnh Tử Nạn; và cuối cùng, sự tự do tối thượng của Đức Giê-su, Đấng làm chủ cuộc sống và cái chết của Người: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18).

Câu chuyện của Tin Mừng hôm nay cũng tiên báo sứ mạng của Giáo Hội trong tương lai: việc loan báo về những đặc ân dành cho dân Ít-ra-en đã đến hồi kết thúc và thời kỳ Thiên Chúa đón nhận lương dân gây nên sự phẩn nộ từ phía người Do thái. Điều này dự báo những người Do thái ở An-ti-ô-khi-a chuyển dần từ thiện cảm sang “phẩn nộ” đối với thánh Phao-lô khi họ thấy dân ngoại “nghe lời của Thiên Chúa” (Cv 13: 44-45).

Câu chuyện của Tin Mừng hôm nay cũng có thể là câu chuyện của mỗi người chúng ta trong mối quan hệ với Lời Chúa. Những người đồng hương Na-da-rét đã có sẵn hình tượng về Đấng Cứu Độ. Vì thế, khi không thể đòi hỏi Đức Giê-su hành động theo đúng ý muốn của họ, họ từ chối Ngài và thậm chí tìm cách hãm hại Ngài. Trong cuộc sống, chúng ta cũng thường hay cư xử Lời Chúa theo cùng cách thức như thế. Chúng ta đọc và tìm cách uốn nắn lời Chúa sao cho phù hợp với sở thích, ước muốn của chúng ta, thay vì để cho lời Chúa thực sự chất vấn chúng ta. Chúng ta sử dụng Lời Chúa như phương tiện biện minh cho cách sống hiện nay của mình, thay vì để cho Lời Chúa thật sự là ngọn đèn soi đường dẫn lối cho chúng ta. Đó là lý do tại sao Lời Chúa không thể tác động vào cuộc sống của chúng ta, sinh hoa kết trái trong cuộc đời của chúng ta.

(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT IV THƯỜNG NIÊN- C

NGÔN SỨ BỊ TỪ CHỐI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

I/. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Tục ngữ có câu “Lời thật mất lòng”. Chúa Giêsu ưu tiên loan Tin Mừng cho những người đồng hương của Ngài ở Nadarét, thế mà họ lại xua đuổi Ngài. Thời bây giờ cũng vậy, nhiều người không muốn nghe những lời xây dựng chân thành, thậm chí còn ghét những người nói thẳng nói thật.

Hôm nay chúng ta hãy suy gẫm về thực tế chua chát ấy, và xin Chúa giúp chúng ta đừng rơi vào thói xấu ấy.

II/. Gợi ý sám hối

  • Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con bỏ ra ngoài tai những lời xây dựng chân thành của kẻ khác.
  • Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con có phản ứng không tốt với người khác chỉ vì họ đã nói thẳng nói thật.
  • Xin Chúa tha thứ cho những lần chúng con đối xử bất công: vui vẻ với người khen nịnh, và khó chịu với người chân thành góp ý.

III/. Lời Chúa

1/. Bài đọc I (Gr 1,4-5,17-19)

Giêrêmia tự thuật về việc Thiên Chúa gọi ông làm ngôn sứ: Thực ra Giêrêmia không muốn làm ngôn sứ chút nào cả vì ông biết mình không có khả năng, và ông cũng ý thức rằng ông sẽ gặp rất nhiều chống đối và đau khổ vì nhiệm vụ ấy. Nhưng vì tin tưởng vào sự trợ giúp của Chúa nên ông đã can đảm đáp lại lời Chúa gọi.

2/. Đáp ca (Tv 70)

Thánh vịnh 70 quãng diễn tâm tình của ngôn sứ Giêrêmia. Đó là tâm tình cậy trông và phó thác: “Con ẩn náu bên Ngài lạy Chúa, xin đừng để con phải tủi nhục bao giờ… Xin Ngài như núi đá cho con tru ẩn, như thành trì để cứu độ con”.

3/. Tin Mừng (Lc 4,21-30)

Đoạn Tin Mừng hôm nay nói về hoạt động của Chúa Giêsu ở Nadarét quê hương Ngài:

1/. Ngày Sabát, Ngài vào hội đường, dựa trên đoạn sách Isaia để công bố chương trình hành động của Ngài. Đó là mang Tin Mừng và ơn cứu độ cho những người nghèo khổ.

2/. Bài giảng đã gây hứng khởi trong lòng thính giả. Họ thầm mong rằng, vì tình đồng hương, Ngài sẽ ưu tiên làm phép lạ cho họ. Nhưng Ngài đã từ chối, bởi vì Ngài là Đấng cứu độ của mọi người chứ không của riêng ai.

3/. Thất vọng, dân Nadarét đã trục xuất Ngài khỏi thành và còn muốn giết Ngài.

4/. Bài đọc II (1 Cr 12,31–13,13) (Chủ đề phụ)

Sau khi giải thích cho tín hữu Côrintô về các đặc sủng nhằm phục vụ cộng đoàn (Chúa nhật trước), Thánh Phaolô nói đến ân sủng cao quý nhất trong mọi ân sủng, đó là Đức Mến.

  • Đức Mến làm cho các ơn khác có giá trị thực (“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng… mà không có đức mến thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chủm choẹ xoang xoảng”).
  • Đức Mến cao trọng hơn mọi nhân đức khác (“Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là Đức Mến”)

IV/. Gợi ý giảng

* 1. Cần có ngôn sứ

Mỗi thời kỳ lịch sử đều có ngôn sứ. Mỗi thời kỳ lịch sử đều cần ngôn sứ. Bởi vì “ngôn sứ” là sứ giả của Lời Chúa, nếu không có ngôn sứ thì có thể Lời Chúa sẽ bị yếu đi.

Thời Cựu Ước có các ngôn sứ Isaia, Giêrêmia, Êdêkiên v.v. Thời Tân Ước có Chúa Giêsu, có các tông đồ… Thế kỷ XIII có Phanxicô Assisi… Thế kỷ XVII có Vinh Sơn Phaolô… Thế kỷ XX có Têrêsa Calcutta v.v.

Thực ra con người ngôn sứ chẳng có gì khác lạ hơn người thường: dân làng Nadarét đã nhận định về Chúa Giêsu “Ông ta chẳng phải là con bác thợ mộc Giuse đó sao?” Ở một vài phương diện nào đó, ngôn sứ còn thua kém người khác nữa: Giêrêmia đã thành thật thưa với Chúa “Lạy Chúa, con không biết nói. Con chỉ là một đứa trẻ”.

Nhưng ngôn sứ hơn người là do Lời Chúa: ngôn sứ nghe được Lời Chúa, tin tưởng vào Lời Chúa, và nhiệt thành chuyển đạt Lời Chúa đến cho mọi người.

Dù “hơn người”, nhưng không hẳn ngôn sứ được người quý mến, trái lại thường bị người chống đối và bách hại, bởi vì “Lời thật mất lòng”.

Tuy thường bị người ta đối xử tệ, nhưng ngôn sứ chính là kẻ làm ơn cho người. Nhờ ngôn sứ nhắc người ta sống đúng lời Chúa.

Sứ mạng ngôn sứ rất khó khăn và bạc bẽo. Nhưng ngôn sứ sẽ chu toàn sứ mạng nhờ cậy dựa vào sự trợ giúp của Chúa.

Qua bí tích Rửa Tội, mỗi kitô hữu chúng ta đều được Chúa trao sứ mạng là ngôn sứ của Ngài.

* 2. Kiên vững – Dịu hiền

Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại cùng nhau thề thốt. Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời. Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không, nhất quyết không chịu thề.

Thôi Trữ bảo Án Tử: “Ngươi nghe ta. Ta lấy được nước, thì ta cho một nửa. Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức”.

Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử. Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc, ung dung nói rằng:

“Lấy lợi nhử người ta, bảo người ta phản bội quân thượng là bất nhân; lấy binh khí hiếp người ta, làm người ta mất chí khí là bất dũng. Giết thì giết, ta đây không theo việc bất nhân của nhà ngươi đâu”.

Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử. Án Tử đứng dậy, ung dung bước ra.

*

Thôi Trữ quyền hành là thế, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm ông phải chùn bước. Thế mới biết sự thật có sức mạnh hơn bạo lực quyền uy.

Bài Tin Mừng hôm nay kể lại: “Mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành: Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi” (Lc 4,29-30). Chúa Giêsu chính là Sự Thật tuyệt đối, nên từ nơi Người toát ra sức mạnh phi thường, khiến đám người bạo động phải đứng như trời trồng để Người đi qua.

Những người đồng hương với Chúa Giêsu cảm thấy khó chịu, vì họ không thể tin rằng “Thần khí Chúa” lại ngự xuống trên con ông Giuse thợ mộc.

Họ cảm thấy nghi ngờ, vì họ không thể chấp nhận một con người nghèo khổ làng Nadarét lại là tiên tri, là Đấng Thiên sai.

Họ càng căm phẫn, khi con người ấy không chịu thực hiện những phép lạ mà họ yêu cầu. Thế là bạo động nảy sinh, họ muốn tiêu diệt Người cho khuất mắt. Đúng như lời Chúa Giêsu đã nói: “Không một tiên tri nào được đón tiếp nơi quê hương mình” (Lc 4,24).

Thế mới ứng nghiệm lời ông Simêon: “Trẻ này là dấu hiệu bị ngưới đời chống báng” (Lc 2,34). Lời tiên tri này còn theo Người suốt cả cuộc đời.

Nếu dân làng Nadarét ép Chúa Giêsu làm phép lạ để minh chứng Người là tiên tri, thì các đầu mục Do Thái cũng đòi Chúa Giêsu chứng minh giáo lý của Người là chính thống.

Nếu dân làng Nadarét tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn phạm thượng, thì các người Pharisêu cũng kết tội Người dựa vào thế giá cửa quỉ vương.

Nếu dân làng Nadarét cố tìm cách giết Chúa Giêsu, thì dân thành Gíêrusalem cũng quyết tâm đóng đinh Người trên thập giá.

Mỗi người tín hữu Kitô đều có thể hiểu được thế nào là bị xua đuổi, bị loại trừ, bị kỳ thị và bị bỏ rơi, vì “Nếu thế gian đãghen ghét các con, thì hãy nhớ rằng họ đã ghét Ta trước” (Ga 15,18), nhưng ít có ai cảm nhận được tâm trạng của Chúa Giêsu vào những lúc như thế này: Người có căm thù những kẻ ruồng rẫy Người không? Người có đầu hàng trước nghịch cảnh này chăng? Nói như Martin Luther King: “Tôi vui mừng vì Thiên Chúa chúng ta thờ là Thiên Chúa có tinh thần kiên vững và con tim dịu hiền”.

Vâng, nếu Thiên Chúa chỉ là Đấng có tinh thần kiên vững, thì Người sẽ là một Thiên Chúa xa cách, lạnh lùng, ngự trị tại một nơi nào đó trên chốn trời cao để ngắm nhìn thế sự thăng trầm. Nhưng nếu Người chỉ là Đấng có con tim dịu hiền, thì Người sẽ là một Thiên Chúa uỷ rnị nhu nhược, không thể hành động khi mọi sự đi lệch hướng.

Đứng trước cảnh bị ruồng rẫy hôm nay, con tim của Người không hề chai đá và tinh thần của Người không chút bạc nhược. Người có tinh thần đủ kiên vững để vượt trên thế giới, và có con tim đủ dịu hiền để ở giữa con người.

Nếu có một bài học nào được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay thì đó chính là: Thiên Chúa mạnh mẽ vô song, có thể “băng qua giữa họ mà đi”, nhưng Người cũng là Đấng giàu lòng thương xót. Khi chúng ta ngỗ nghịch xúc phạm đến Người, khi chúng ta muốn “xô Người xuống vực thẳm”, thì chúng ta cần biết rằng, chính lúc đó Người đang yêu thương chúng ta và sẵn sàng cho chúng ta một cơ hội để quay trở về.

Thiên Chúa là Đấng có tinh thần kiên vững trong phán quyết công minh, nhưng Người cũng là Đấng có tính dịu hiền trong tình thương và ân sủng.

Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ cho hết mọi người, chứ không chỉ dành riêng cho một số người được đặc ân.

Thiên Chúa ban ân sủng Cứu độ để chúng ta sinh ích cho mình và làm lợi cho anh em, chứ không phải để chúng ta khư khư giữ lấy cho riêng mình.

*

Lạy Chúa, Tiên Tri là ơn gọi và là sứ mạng của mỗi người tín hữu chúng con.

Xin cho chúng con luôn can đảm nói điều Chúa muôn nói, và nói nhân danh Chúa, cho dù có phải bị chống đối, phẫn nộ.

Xin cho chúng con luôn xác tín rằng: Chúa đầy quyền năng cả nhưng cũng rất giàu lòng xót thương, luôn dẫn dắt chúng con từ những hố sâu tăm tối đến những nẻo đường chan hoà ánh sáng, tràn đầy hy vọng, nhờ đó, cuộc đời chúng con được viên mãn. Amen (TP)

3/. Ưu tiên cho ai?

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với dân làng Nadarét ban đầu rất tốt đẹp: “Mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Ngài”. Nhưng sau đó là đổ vỡ hoàn toàn: “Mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy lôi Ngài ra khỏi thành…. Họ kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực”

Nguyên do gây đổ vỡ là quan niệm về ưu tiên. Dân làng Nadarét nghĩ rằng Chúa Giêsu phải ưu tiên cho họ, bởi vì họ là đồng hương của Ngài. Ngài đã từng làm phép lạ ở thành Capharnaum xa lạ thì Ngài phải làm nhiều phép lạ hơn nữa ở Nadarét này mới phải, vì đây chính là quê hương của Ngài kia mà: “Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào”. Phần Chúa Giêsu thì muốn dành ưu tiên cho những người nghèo khổ: “Thần khí Chúa ngự trên tôi… để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức…”

Nói cách khác, dân làng Nadarét muốn ưu tiên theo tình cảm, còn Chúa Giêsu thì chủ trương ưu tiên theo sứ mạng. Tình cảm thường hẹp hòi, sứ mạng thì bao la. Tình cảm thường mù quáng, sứ mạng mới sáng ngời.

Chúng ta thường bị tình cảm làm mù quáng và lệch lạc, ngay cả khi chúng ta làm việc bác ái và làm công tác tông đồ. Gương Chúa Giêsu nhắc ta phải luôn ý thức đến sứ mạng. Nếu có ưu tiên thì hãy ưu tiên cho những người nghèo nàn, khổ sở.

* 4. Trở lại quê hương

Sau nhiều năm xa cách ngôi làng Transkei là nơi ông đã sinh ra và lớn lên, Nelson Mandela có dịp trở lại đấy. Lúc bấy giờ ông đã là một luật sư có nhà cửa ở thủ đô Johannesburg. Ông đã ghi lại cảm tưởng như sau: “Trở lại một nơi chẳng có gì thay đổi để khám phá ra rằng mình đã đổi thay. Quê hương thì vẫn như xưa, chẳng có gì khác hơn hồi mình sinh ra và lớn lên ở đấy. Nhưng tôi nhận ra rằng suy nghĩ và cách nhìn của mình đã khác xưa rất nhiều”. Vì thế Nelson Mendela rất hạnh phúc khi trở về thăm lại quê cũ, nhưng ông không ở lại đó, vì nó đã trở thành quá chật hẹp đối với ông.

Có lẽ cảm nghĩ của Chúa Giêsu cũng giống như thế khi Ngài trở về Nadarét. Những người đồng hương của Ngài chẳng có gì thay đổi: họ vẫn mãi coi Ngài là con bác thợ mộc chứ không phải là Đấng Messia; họ vẫn quen lối suy nghĩ hẹp hòi cho rằng ơn cứu độ là đặc ân của người Do Thái, chứ không thể chấp nhận rằng mọi người đều được hưởng ơn cứu độ.

Chúa Giêsu trở về quê hương để mang cho đồng hương của Ngài một sự đổi mới. Tuy nhiên họ không chịu thay đổi. Vì thế nên Ngài không thể ở lại quê hương, Ngài đành ra đi, tiếp tục đến những nơi khác. (FM)

5/. Đức Mến

Có một sự liên kết thiết yếu giữa Đức Tin và Đức Mến. Câu chuyện sau đây cho thấy rõ điều ấy:

George Herbert là một Linh mục, một thi sĩ và một nhạc sĩ nghiệp dư. Một hôm khi ông đang trên đường đến tham dự một cuộc hòa nhạc thì gặp một người nghèo bị té ngựa. Ông đã dừng lại, cởi áo dòng, xắn tay áo để đỡ người ấy lên, đỡ con ngựa lên và giúp chất hành lý người ấy lên lưng ngựa. Xong xuôi mọi chuyện, ông mới tiếp tục đến phòng hòa nhạc.

Bình thường ông ăn mặc rất sạch sẽ. Nhưng hôm nay tay chân và quần áo của ông đều dính đầy bụi bẩn. Vì thế bạn bè rất ngạc nhiên. Khi ông kể lại chuyện mình đã làm dọc đường thì một trong các người bạn tỏ ra không đồng ý vì cho rằng việc đó không cần thiết và cũng không phải là trách nhiệm của ông. George Herbert đã trả lời như sau: “Tôi thường cầu nguyện cho những người nghèo khổ. Hôm nay tôi có dịp giúp đỡ người nghèo khổ. Nếu tôi không ra tay giúp thì tức là tôi không làm đúng như lời mình cầu nguyện. Cũng giống như cây đàn chưa lên dây đúng cung vậy.”

Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin mà không có việc làm là đức tin chết”. Những việc làm biểu lộ đức tin dễ thấy nhất là những việc bác ái.

Ngày nay, hai chữ được người ta nói nhiều nhất là “tình yêu”. Nhưng hình như cái mà người ta gọi là tình yêu trong các phim ảnh và bài hát thường chẳng phải là tình yêu gì cả. Đó chỉ là khát vọng, chiếm hữu và chế ngự. Nó ngược hẳn với tình yêu.

Một trong những lý do là ngày nay người ta đã hiểu rõ hơn về tính phức tạp – hay phức hợp – trong bản chất con người. Từ đó người ta làm gì cũng do bị thúc đẩy bởi nhiều động cơ. Đàng sau một việc xem ra bất vụ lợi thì cũng có động cơ vụ lợi.

Bởi thế, Thánh Phaolô khuyến cáo chúng ta coi chừng những động cơ đàng sau những việc tốt chúng ta làm. Ngài nói rằng Đức Mến đích thực thì “không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc”. Ngài còn nói “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”. (FM)

V/. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, hôm nay ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu những lời Kinh thánh chúng ta vừa nghe. Nhờ Người, chúng ta dâng lên Chúa Cha những lời nguyện xin tha thiết của chúng ta:

1/. Hội thánh được Chúa Giêsu thiết lập để đem Tin mừng đến cho muôn dân trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công cuộc rao giảng Tin mừng của Hội thánh / luôn đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.

2/. Khát vọng sâu xa nhất của con người ngày nay / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Chúa / ban hòa bình cho những vùng còn khói lửa chiến tranh.

3/. Hiện nay đức tin / đức cậy / đức mến / cả ba đều tồn tại / nhưng cao trọng hơn cả là đức mến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / luôn cố gắng sống trọn vẹn nhân đức quan trọng này.

4/. Nhờ bí tích Thánh Tẩy / người Kitô hữu trở nên anh em với nhau / vì có cùng một niềm tin và một Cha chung trên trời / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết dẹp bỏ mọi kỳ thị hẹp hòi / những chia rẽ bất hòa / để tất cả chúng ta nên một trong Chúa.

Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con luôn biết vâng nghe lời Người là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI/. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta đang ở trong ngôi Nhà Thờ này như những anh chị em ruột thịt sum họp trong mái ấm gia đình. Đúng vậy, vì chúng ta đều là con của cùng một Cha chung trên trời. Giờ đây chúng ta hãy nghĩ đến Cha chúng ta và hãy cùng nhau thưa chuyện với Ngài qua lời kinh Lạy Cha.

VII/. Giải tán

Do Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được chia xẻ sứ mạng ngôn sứ của Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta hãy can đảm thi hành sứ mạng vừa cao đẹp vừa khó khăn ấy. Nguyện xin ơn sủng Chúa luôn phù giúp anh chị em. Chúc anh chị em ra về bình an.

home Mục lục Lưu trữ