Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 56

Tổng truy cập: 1356432

THÀNH KIẾN LÀM CẢN TRỞ ĐỨC TIN

THÀNH KIẾN LÀM CẢN TRỞ ĐỨC TIN

Trong thời Cựu ước, Thiên Chúa phán với loài người qua các ngôn sứ và các tổ phụ. Các ngôn sứ được Chúa sai đến thường bị bạc đãi và tẩy chay như ngôn sứ Êdêkien được: Sai đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại (Ed 2:3) Thiên Chúa. Cuối cùng Thiên Chúa sai chính Con Một Người đến mạc khải trực tiếp cho nhân loại về tình yêu và đường lối của Người

Thánh Phaolô cũng chịu chung một số phận như các ngôn sứ: Bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô (2Cr 12:10). Khi Đức Giêsu về thăm quê nhà như Phúc âm hôm nay thuật lại, Người gặp thái độ nghi ngờ và tẩy chay của người đồng hương. Dân chúng không phàn nàn vì lời Người giảng dạy có tính cách nông cạn. Trái lại họ phải sửng sốt về những lời giảng dạy sâu sắc của Người. Dân chúng cho rằng họ biết tất cả về gia cảnh, thân thế và sự nghiệp của Người. Họ biết Người là con bà Maria nội trợ, con nuôi ông thợ mộc Giuse, không được đi học trường đạo tạo giáo sĩ hay kinh sư. Thế thì tại sao Người lại có thể biết nhiều về Kinh thánh như vậy? Vì thế họ không chấp nhận Người.

Những thành kiến của họ có tính cách cố định. Thành kiến đã làm trở ngại cho những cuộc tiếp xúc giữa Đức Giêsu và người đồng hương. Chính những thành kiến đó làm cản trở ơn thánh đến với họ. Họ nuôi quan niệm sai lầm về Đấng Cứu thế. Theo họ thì vị thiên sai phải là một nhà lãnh đạo chính trị lỗi lạc, một nhà cải cách xã hội tài ba, một vị tướng lãnh tài giỏi, bách chiến bách thắng, có thể đưa dân tộc họ lên hàng bá chủ hoàn cầu. Khi họ nhận ra Đức Giêsu không thích hợp với với quan niệm họ sẵn có về Đấng cứu thế, thì họ từ khước Người. Vì thế đối với họ, Đức Giêsu không thể là Đấng cứu thế. Thành kiến của họ đã làm cản trở cho đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng của Chúa như Chúa muốn họ tin tuởng. Do đó Đức Giêsu nói với họ: Ngôn sứ có bị coi rẻ thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình (Mc 6:4). Phúc âm hôm nay ghi lại: Người đã không thể làm phép lạ nào tại đó, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân (Mc 6:5). Sở dĩ Đức Giêsu không làm phép lạ nào được vì như lời Phúc âm ghi lại họ cứng lòng tin (Mc 6:6).

Ta có thể thầm trách đám đông trong Phúc âm hôm nay đã tẩy chay Chúa. Tuy nhiên ta có thể mang tội giống như người trong Phúc âm hôm nay. Nếu ta chỉ đi tìm Chúa nơi những người quyền cao chức trọng, hay ở những nơi huy nga tráng lệ mà thôi, ta sẽ khó tìm thấy Chúa. Thiên Chúa còn hiện diện nơi những người bình thường mà ta thường gặp, cũng như những sự việc xẩy ra thường ngày. Ta khó nhận ra những dấu vết của Chúa nơi người khác cũng như sự việc ta gặp hằng ngày nếu ta để cho thái độ quen quá hoá nhàm xâm chiếm đời sống tư tưởng của ta.

Thiên Chúa không những hiện diện ở những nơi tầm thường như phố nhỏ Nadarét, mà còn ở nơi dơ bẩn, hôi hám như trong máng cỏ Bêlem. Ta có thể tìm thấy Chúa nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ và tù đầy. Đó là điều Chúa nói trong Phúc âm thánh Mát-thêu: Khi Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn (Mt 25:35). Để có thể tin, người ta phải giữ tâm hồn rộng mở. Nếu ta để cho thành kiến về đạo giáo làm mù quáng, thì những thành kiến có thể làm cản lối Chúa vào nhà tâm hồn. Nếu ta vịn cớ nọ cớ kia để đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng chịu, không vào được, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do và Chúa tôn trọng tự do của loài người. Ân huệ và quyền năng của Chúa tuỳ thuộc vào việc mở rộng tâm hồn của mỗi người. Chúa không ép buộc ai theo Chúa và sống theo đường lối đức tin. Chúa chỉ mời gọi. Việc chấp nhận hay không là tuỳ thuộc vào mỗi người.

Nếu ta để cho thành kiến và tính ganh tị lấn át, ta sẽ không nhìn thấy những ưu điểm và khả thể nơi tha nhân. Nếu ta phán đoán lời nói hay việc làm của người khác chỉ dựa trên bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền và gia cảnh của họ là ta để cho thành kiến len lỏi vào óc phán đoán của ta. Lời nói hay việc làm có giá trị thường mang tính chất khách quan chứ không tuỳ thuộc vào bằng cấp, sự nghiệp, chức quyền hay gia cảnh của người nói hay làm. Nghe những lời nói hay việc làm mang khuyết điểm của người khác mà đóng cửa lòng lại, không tìm đến với họ, không cho họ cơ hội để bầy tỏ lí do, thì có phải là quan niệm hẹp hòi chăng? Gặp người khác lướt qua một vài lần, nói mấy lời xã giao mà đã kết luận người đó tốt xấu, thì không phải là nhận xét nông cạn sao? Bỏ việc thờ phượng hay nghe lời giảng dậy ngày Chúa nhật chỉ vì thắc mắc về khả năng hoạt bát và trình độ học vấn của linh mục cử hành thánh lễ và rao giảng thì có phải là một quyết định không dựa trên đức tin chăng? Buồn giận một linh mục nào đó mà không tìm đến thờ phượng ở bất cứ nhà thờ công giáo nào khác thuận lợi, thì có phải là hành động giận cá băm thớt không?

Hôm nay mỗi người cần cảm tạ Thiên Chúa đã ban cho ta được ơn nhận lãnh đức tin. Ta cần cảm tạ Chúa cho cha mẹ và người đỡ đầu, đã gieo vãi hạt giống đức tin vào tâm hồn ta khi đưa ta đến giếng nước rửa tội. Ta cần cảm tạ Chúa cho những người đã nuôi dưỡng và nâng đỡ đời sống đức tin của ta để hôm nay ta có thể bầy tỏ đức tin vào Chúa, vào lời Chúa và quyền năng Chúa. Ta cũng xin Chúa ban cho mình biết mở rộng trí óc và tâm hồn đón nhận lời Chúa.

Lời cầu nguyện xin cho được mở rộng tâm hồn: Lậy Đức Giêsu, con xin tạ ơn Chúa đã ban cho con được ơn nhận lãnh đức tin qua bí tích Rửa tội. Xin tha thứ những lần con để cho thành kiến vể đạo và người giảng đạo, làm cản trở đức tin vào Chúa. Xin cho con biết loại bỏ thành kiến sai lầm và ban cho con một tâm hồn rộng mở để con biết nhìn người và sự vật trong nét trung thực, dưới ánh sáng chân lí soi dẫn. Amen.

 

50.Chúa Nhật 14 Thường Niên

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

ĐỨC GIÊSU KHÔNG THỂ LÀM PHÉP LẠ

Nước Ethiopia Kitô giáo đã bị cắt đứt liên lạc với Kitô giáo Châu Âu do sa mạc, vị trí xa xôi và Hồi giáo. Chỉ tới giữa thế kỷ 15, Châu Âu mới biết được thật sự về nước này. Năm 1441, do kết quả đàm phán của Giáo Hoàng với Thượng phụ Copte ở Alexandria và cộng đồng người Ethiopia ở Giêrusalem, mà một phái đoàn Ethiopia được gửi đi tham dự công đồng Florence. Đầu thế kỷ 16, một nhóm thừa sai dòng Phan sinh được gởi từ Giêrusalem đi Ethiopia nhưng không thành công được bao nhiêu, khi mà Châu Âu đang trong thời kỳ Cải Cách đau đớn.

Đến thập niên đầu tiên của thế kỷ tiếp theo, mới có một tu sỹ Dòng Tên được gửi đến Ethiopia trong một phái đoàn, và đó là Pedro Paez. Ông đến vào năm 1607. Nhà thừa sai Tây ban nha này hết sức khoan dung đối với văn hóa Kitô giáo Ethiopia. Ông chấp nhận phụng vụ Ethiopia và đã thuyết phục thành công người Negus tuyên xưng hai bản tính của Đức Kitô, đồng thời hợp thức hóa sự hiệp nhất Giáo hội Ethiopia với Rôma. Ngày Sabát của người Dothái cũng bị bãi bỏ và hàng ngàn người Ethiopia chịu phép rửa, xưng tội và rước lễ từ tay các thừa sai.

Tất cả những thành tựu của Paez đã bị thiêu rụi bởi người kế nhiệm ông, thượng phụ Dòng Tên Bồ đào nha tên là Mendez. Ông này đến đây năm 1625 với tám thừa sai khác. Mendez là một người chủ trương Latinh-hóa không khoan nhượng. Ông không chỉ nhấn mạnh đến tiếng Latinh, mà cả lịch La-mã và chủ trương chỉ một lối hiệp thông Kytô hữu thôi. Thêm vào đó, ông còn ra lệnh rửa tội lại tất cả các tín hữu Ethiôpia, phong chức lại cho các linh mục, rửa lại các bàn thờ và đưa ra khỏi các nhà thờ thánh tích của các thánh Ethiôpia.

Kết quả của sự xúc phạm không thể tin được đối với văn hóa cổ xưa và nghi lễ của Giáo hội Ethiopia này, là họ lập tức quay lại với ly giáo và khôi phục lòng thù ghét cực độ đối với Rôma và tất cả những gì mà Rôma bảo vệ. Tiếp đó, các thừa sai Latinh bị thảm sát, và chỉ đến thế kỷ 19 các nhà thừa sai Công giáo mới nhận lại nghi tiết Ethiôpia và sau đó tiến hành truyền chức linh mục và giám mục. (Hoành Sơn, QM và DS, Ayward Shorter, Ba cuộc Hội Nhập Văn Hóa thất bại trong lịch sử)

Sự hẹp hòi, thiển cận, bất bao dung đã làm Đạo Công Giáo ở Ethiopia bị khủng hoảng hơn hai thế kỷ, chỉ vì thất bại hội nhập văn hóa. Trong Tin Mừng Chúa Nhật 14 thường niên hôm nay, thánh sử Máccô thuật lại thất bại của Đức Giêsu, khi trở về quê hương Nazareth. Người đành chịu thúc thủ, không thể làm được phép lạ trước thái độ hẹp hòi, kiêu ngạo và đố kỵ của người đồng hương.

Thiếu niềm Tin

Dù biết rằng, Đức Giêsu đã rao giảng và làm phép lạ nhiều nơi, nhưng người đồng hương Nazareth vẫn thiếu niềm tin vào Người. Vẫn cố chấp, thành kiến, nông cạn, chỉ vì “Ông ta không phải là bác thợ, con bà Maria và là anh em của các ông Gia cô bê, Giôxét, Giuđa và Simon sao?”chỉ vì thân thế quá đỗi tầm thường, xuất thân từ gia đình lao động nghèo khó, chẳng có vai vế, đẳng cấp nào trong xã hội.

Thành kiến đóng khuôn người khác vào trong chuẩn mực thô thiển, bất di bất dịch, vào trong thân phận nhất định, bất biến và hạn hẹp. Trong khi bất cứ ai cũng đều dễ thay đổi, từ hình hài thân xác đến tâm hồn, từ trẻ dại đến trưởng thành và già đi, từ tâm hồn ngây thơ, biết suy nghĩ, chín chắn tốt lành, hay suy đồi, gian ác, biến đổi tốt xấu tùy môi trường, tùy nhận thức, tùy bản lĩnh và tùy theo xu hướng thế gian. Người thành kiến thì luôn cố chấp, luôn phủ nhận khía cạnh tích cực, phát triển hay tiến bộ của ai đó, chính vì thiếu niềm tin vào người đó.

Người đồng hương Nazareth không thể nhận ra Đức Giêsu là Đấng Messia, Đấng Thiên Chúa - Ở - Cùng, chỉ vì không tin Người, dù đã nghe vang dội danh tiếng rao giảng và làm phép lạ. Vì trở về quê hương, Người vẫn tiếp tục ẩn mình dưới thân phận bình dân, hem hễ, lam lũ và tầm thường vốn như trước đây, không hề ầm ĩ vinh quy kèn trống, chẳng quyền cao, chức trọng.

Thiếu lòng Cậy

Không chỉ thiếu niềm tin, họ còn thiếu cả lòng trông cậy vào Đức Giêsu, dù biết Người đã nổi danh như cồn khắp nơi. Khi chê bôi, dè bỉu, dèm pha, khinh miệt, rẻ rúng Đức Giêsu, họ vô tình phô ra tính kiêu ngạo, lòng tự cao tự đại. “Chị em của ông không phải là lối xóm với chúng ta sao?” Chỉ vì thói kiêu ngạo, họ trâng tráo thốt lên những lời bất nhã, khiến họ trở nên mù lòa, không thế nhận ra vị Ngôn Sứ vĩ đại, Đấng Cứu Chuộc duy nhất đến thế gian.

Thiếu lửa mến

Thay vì vui mừng nghênh tiếp, trọng thể đón rước Đức Giêsu về lại quê nhà, thì người đồng hương lại tỏ ra đố kỵ, ganh ghét, tỵ hiềm Người.“Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” Những thắc mắc, những nghi vấn đó hoàn toàn hợp lý, nhưng không phản ảnh lòng ái mộ, khâm phục, mà chỉ phản ảnh sự ghen tương, nghi kỵ, khi thấy Người tài năng hơn họ. Chỉ vì thiếu hẳn lửa mến, họ chẳng chút gì mến yêu, phục tùng, thiện cảm với Đấng Ban Lời Hằng Sống.

“Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau quả bồ hòn cũng vuông.“ Con tim, tình cảm luôn gây ảnh hưởng lý trí, ứng xử, xã giao. Ganh ghét ai, thì làm sao nhận ra cái hay, cái tốt của người ấy, nếu có cũng bị xuyên tạc, đổi trắng ra đen. Người đồng hương Nazareth như thế hoàn toàn đố kỵ với Người, chẳng mến, chẳng cậy, cũng chẳng tin, khiến “Người đã không thể làm được phép lạ nào ở đó.”

“Mỗi ngày con phải bớt tự ái, mà thêm bác ái. Mỗi ngày con bớt tự tin, mà tin thêm Chúa.” (Đường Hy Vọng, số 56)

Lạy Chúa Giêsu, chúng con thiếu đức tin để nhìn thấy Chúa ở trong anh em, thiếu đức cậy để phó thác vào Chúa, thiếu đức mến để yêu Chúa thương người. Xin Chúa ban đổ tràn đầy ơn Tin Cậy Mến cho chúng con, để Chúa có thể làm phép lạ nơi chúng con, cảm hóa chúng con thay đổi nếp sống cũ, tái sinh trong ơn Cứu Độ của Chúa luôn.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu chúng con sống khiêm nhường, nhân ái, bao dung, để tìm thấy Chúa đang ẩn náu nơi tha nhân, mà yêu thương, bác ái và phục vụ mọi người. Amen.

 

51.Bụt nhà vẫn thiêng

(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

Claude Monet là học sĩ bậc thầy, cha đẻ của trường phái Ấn tượng, hiện vẫn là họa sĩ Pháp được thế giới biết đến nhiều nhất. Cảnh trí thiên nhiên trong các bức tranh của ông có sức ám ảnh, mê hoặc lạ. Nó được thể hiện, phản chiếu bởi một thứ màu sắc, ánh sáng đặc biệt bắt mắt. Danh họa Paul Cézanne không hề quá lời khi nhận xét: "Người ta không thể chỉ xem tranh của Monet bằng hai mắt vì Monet còn nhìn đời bằng một con mắt khác".

Tuy nhiên, trong khi vị thế của tranh Monet trên thị trường tranh quốc tế ngày một lên cao, thì tại chính quê hương ông, giới nghiên cứu mỹ thuật lại không mấy "mặn mà" với tác phẩm của Monet. Có lẽ, đó chính là lý do để Giám đốc Bảo tàng d’Orsay, ông Guy Cogeval, đứng ra tổ chức tại Paris một cuộc triển lãm lớn về Monet (bắt đầu từ ngày 22/9/2010 tới ngày 24/1/2011) nhằm góp phần điều chỉnh thái độ "bụt chùa nhà không thiêng" của những người yêu nghệ thuật ở "kinh đô ánh sáng."

Điều này chẳng có gì đáng lạ, vì ngay từ 21 thế kỷ trước, Chúa Giêsu đã phán: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình, hay giữa đám bà con thân thuộc, và trong gia đình mình mà thôi!” (Mc 6, 4)

1- Rẻ rúng vì quen thuộc

Mặc dù Chúa Giêsu đã đi rao giảng, làm phép lạ cứu chữa bao người, danh tiếng nổi như cồn, nhưng khi về quê nhà Nazareth, thì bị người đồng hương khinh thường, như tâm lý dân gian muôn kiếp, bụt nhà không thiêng. Họ không chấp nhận, vì biết quá rõ lai lịch, gốc gác, nghề nghiệp, địa vị xã hội của gia đình ông thợ mộc Giuse quá bình dị, tầm thường và nghèo nàn. “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải bà Maria; an hem của ông không phải là các ông Gia cô bê, Giô xếp, Simon và Giu đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao?” (Mt 13, 55-56).

2- Rẻ rúng vì đố kỵ

Họ ganh tỵ vì thấy Người tài giỏi, danh tiếng qua việc giảng dạy và làm nhiều phép lạ. “Bởi đâu ông ta được như thế? Ông ta được khôn ngoan như vậy, nghĩa là làm sao? Ông ta làm được những phép lạ như thế, nghĩa là gì?” (Mc 5, 2) Cái tâm lý con gà ganh nhau tiếng gáy được dịp phát triển vô tội vạ. Cái tâm lý đố kỵ với người có tài hơn mình, bởi tánh kiêu ngạo, bởi mặc cảm thua kém, bởi lòng bất khoan dung, bởi thiếu trưởng thành trong nhân cách và tâm tư, bởi thói hùa theo bầy đàn.

3- Rẻ rúng vì cố chấp, hẹp hòi

Dù “mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người, “(Lc 4, 22), nhưng những người đồng hương Nazareth vẫn cố chấp, hẹp hòi, thành kiến và tỏ ra khinh thường, không chấp nhận Người. Giá như Người sênh sang áo gấm, vinh quy về làng, thì còn cơ may được chào đón. Đàng này, Người chẳng có đến cái gối, chẳng có nhà cửa, dinh thự, chẳng xe xua lụa là, tiền hô hậu ủng, chỉ có mấy môn đệ tầm thường tháp tùng, xuất thân thuyền chài khó nghèo. “Hẳn các ông muốn nói với tôi câu tục ngữ: Thầy lang ơi, hãy chữa lấy mình! Tất cả những gì chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Capharnaum, ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào? ( Lc, 4, 23)

Ngay như sau này, thánh nữ Tiến sĩ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thật thánh thiện đến thế, mả các nữ tu sống đồng thời, cùng dòng, cùng tu viện, cũng còn chẳng biết nói gì về ngài, vì chẳng thấy chi khác thường nơi ngài, khi được người ta phỏng vấn, tìm hiểu về sinh thời của thánh nữ.

Lạy Chúa Giêsu, con cũng đang bưng tai, nhắm mắt, không hề nhận ra Chúa hiện diện chung quanh, từ tha nhân, từ các Bí Tích, Thánh Thể và Lời Chúa. Xin Chúa thương tình luôn mở lòng trí con, để nhận biết và nghe theo tiếng Chúa mọi nơi, mọi lúc.

Lạy Mẹ Maria, xin mở lòng dạ con, để luôn cảm nhận có Chúa hiện diện trong từng giây phút đời sống con, để con có thể thánh hóa mọi sự, mọi biến cố trong đời theo Thánh ý Chúa. Amen.

 

52.Thiên kiến

Cổ học tinh hoa có thuật chuyện “Mất búa”, đại khái như sau: Một người thợ mộc làm việc trong vườn. Thằng bé con nhà hàng xóm sang ngồi xem. Mải làm, lúc cần đến búa, ông tìm mãi không thấy. Ông nghi thằng bé đã ăn cắp búa. Nhìn mặt nó đúng là mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói đúng là giọng điệu của thằng ăn cắp búa. Hỏi thì nó chối đúng là tâm địa gian manh. Được một lúc, ông lại thấy cái búa nằm khuất đâu đó. Nhìn lại mặt thằng bé thì thấy mặt mũi nó hiền lành dễ thương, khác với mặt thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói, đúng là con nhà gia giáo, khác với lời ăn tiếng nói của thằng ăn cắp búa. Hỏi nó thì nó thưa, đúng là con nhà lương thiện, khác hẳn với thằng ăn cắp búa.

Câu chuyện trên nói lên thiên kiến của con người. Thiên kiến là ý kiến mình có sẵn về một người hay một vấn đề. Người có thiên kiến xét người và vật theo suy nghĩ riêng chứ không dựa trên cơ sở khách quan trung thực. Thiên kiến là mắt kính mầu. Vì đeo kính mầu nên ta thấy mọi vật đều nhuộm mầu của kính. Đeo kính mầu xanh, ta thấy mọi vật đều xanh. Đeo kính mầu hồng ta thấy mọi vật đều hồng. Hồng, xanh là ở mắt kính chứ không ở sự vật. Vì thế phán đoán của người có thiên kiến thường không chính xác.

Thiên kiến có nguồn gốc ở sự thiếu học hỏi. Vì không được học nên hiểu biết giới hạn. Thiếu hiểu biết nên phán đoán thiếu chính xác.

Thiên kiến cũng do đầu óc thiển cận, hẹp hòi. Tục ngữ có câu: “Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung”. Con ếch ngồi dưới đáy giếng chỉ nhìn thấy một mảnh trời vừa bằng miệng giếng, cho rằng trời chỉ có thế. Người có đầu óc thiển cận hẹp hòi cũng tưởng mọi chân lý đều chứa trong đầu óc của mình cả.

Thiên kiến thường do sự thiếu khiêm tốn. Sự thật mênh mông. Chẳng ai dám tự hào mình biết tất cả sự thật. Người khiêm tốn là người thấy rõ giới hạn của mình, nên cố gắng đi tìm sự thật. Chỉ những người thiếu khiêm tốn mới hay huênh hoang tự đắc và chủ quan.

Thiên kiến thường dẫn đến những hậu quả tai hại. Vì thiên kiến, vua quan triều Nguyễn đã không chấp thuận những kiến nghị đổi mới của Nguyễn Trường Tộ. Nên đã để đất nước chìm trong lạc hậu. Nếu nghe theo chương trình đổi mới, có lẽ đất nước ta đã tiến nhanh hơn Nhật Bản. Vì Nguyễn Trường Tộ đã nhìn thấy vấn đề và đề nghị từ cuối thế kỷ 19, trong khi Nhật mới chỉ canh tân từ đầu thế kỷ 20.

Nếu trong đời sống xã hội thiên kiến đã đưa đến những hậu quả tai hại, thì trong đời sống thiêng liêng, thiên kiến cũng gây ra những thiệt hại không kém.

Người dân làng Nagiarét mang nặng thiên kiến về Đức Giêsu. Dưới mắt họ, Người chỉ là một anh thợ mộc tầm thường, nghèo nàn và chẳng có gì đặc biệt. Người xuất thân trong một gia đình nghèo hèn, không danh giá. Họ biết rõ cha mẹ, họ hàng của Người. Thấy Người làm được những việc kỳ lạ. Nghe miệng Người giảng những điều khôn ngoan. Họ ngạc nhiên, nhưng không tin. Đối với họ, Đấng Cứu Thế phải là một Đấng phi thường, không ai biết rõ nguồn gốc. Hơn nữa, Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc rồi lên ngôi vua trị vì thiên hạ. Đàng này, Đức Giêsu thì họ biết rõ nguồn gốc. Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Tướng mạo không giống như hình ảnh Đấng Cứu Thế mà họ nuôi trong đầu óc. Vì thế, họ không tin. Vì họ không tin, nên Đức Giêsu không thể làm phép lạ nào ở đó. Người bỏ họ mà đi. Không bao giờ Người trở lại Nagiarét nữa. Thật là thiệt hại cho làng quê Nagiarét. Họ đã để lỡ cơ hội đón tiếp Đấng Cứu Thế. Họ đã để lỡ cơ hội đón nhận ơn cứu chuộc. Đây là cơ hội ngàn năm một thuở. Chỉ đến một lần trong đời. Rồi thôi. Ai để lỡ sẽ không bao giờ có cơ hội chuộc lại. Thiên kiến đã làm hại họ.

Rất nhiều khi ta cũng mang nặng thiên kiến. Thiên kiến đối với anh em. Thiên kiến đối với Chúa. Hôm nay, rút kinh nghiệm của những người dân làng Nagiarét, ta hãy tránh thiên kiến bằng cách tìm học hỏi để biết Chúa, biết giáo lý của Chúa hơn. Nhất là có tâm hồn mở rộng và khiêm nhường để biết đón nhận Chúa, đón nhận thánh ý Chúa. Nếu ta khiêm tốn đón nhận, Chúa sẽ dạy dỗ ta những chân lý nước trời đem lại hạnh phúc cho ta.

 

home Mục lục Lưu trữ