Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 56

Tổng truy cập: 1351245

Thiên Chúa không bỏ con người

  1. Thiên Chúa không bỏ con người – McCarthy

Suy Niệm 1. CHỊU ĐAU KHỔ VÌ CHÚA

Bài đọc từ sách Công Vụ Tông Đồ kể lại sự đối kháng mà các tông đồ đã gặp phải, từ phía những nhà lãnh đạo Do Thái. Các ông vẫn vượt qua điều này với lòng tin vĩ đại, đặc biệt là Phêrô. Thật khó mà tin rằng đây cũng chính là người mà chỉ một thời gian trước đây đã từng chối Chúa Giêsu đến ba lần. Thế mà hiện nay, ông đã giữ vững lập trường của mình, và can đảm làm chứng cho Đức Giêsu. Và ông đã phải chịu đau khổ vì quan điểm của mình: ông và các Tông đồ đồng môn của ông đều bị đánh đòn. Nhưng họ đều vui mừng được chịu đau khổ vì Đức Giêsu. Từ đâu mà Phêrô có được lòng can đảm mới mẻ đến thế? Ông có được lòng can đảm nhờ ở Chúa Thánh Thần, và nhờ sự nâng đỡ của các Tông đồ đồng môn của ông.

Thật may mắn là kể từ thời các Tông đồ, nhờ ơn Chúa, vẫn có những Kitô hữu có khả năng vượt qua được nỗi sợ hãi, và làm chứng cho Tin Mừng, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Tháng 3 năm 1983, Irina Ratushinskaya, một thi sĩ người Nga, đã bị kết án 7 năm lao động khổ sai, và 5 năm lưu đày biệt xứ. Bà bị kết tội là đã viết ra loại thơ ca mà nhà cầm quyền không tán thành. Ở trong tù, bà đã phải chịu đựng những cảnh bị đánh đập, ép ăn và bị giam hãm một mình trong những điều kiện băng giá lạnh buốt. Bà bị gia tăng chứng rối loạn tim, gan, thận, và viêm phổi. Ngay cả trong những tình trạng như vậy, bà vẫn tiếp tục lén viết ra những bài thơ trên những mẩu giấy, rồi gửi nhờ qua những người lính gác và khách đến thăm nào có thiện cảm với bà. Tháng 10 năm 1986, bà được phóng thích.

Lòng tin Kitô giáo của bà là yếu tố quan trọng đối với sự tồn tại của bà. Bà nói “Khi bạn lâm vào cảnh rắc rối, bị áp lực, thì dường như Thiên Chúa luôn luôn gần gũi với bạn hơn. Khi còn ở trong trại, Người luôn đặt tay lên vai, để nâng đỡ chúng tôi”.

Một yếu tố khác giúp cho Irina tồn tại được trong trại giam, đó là mối tương quan thân thiết đến độ khó tin mà bà đã có được, với 12 người phụ nữ tù nhân lương tâm khác ở trong trại. Cảnh hiểm nguy đã nối kết con người lại với nhau. Với tốc độ tiến triển và những sức ép của lối sống hiện đại, chúng ta phải tự mình thấm nhuần tư tưởng rằng chính qua tai nạn hoặc một cơn bệnh nào đó, mới dạy cho chúng ta một bài học rằng chúng ta lệ thuộc vào nhau nhiều đến thế nào.

Irina và các bạn đồng hành với bà thường xuyên đình công bằng cách nhịn đói, nếu một trong những người của họ bị ngược đãi. Bà nói “Tôi cảm thấy sung sướng vì tất cả chúng tôi đều sống sót”. Trong suốt thời gian tôi còn tại đó, có một phần ba người trong trại dành cho nam giới đã bị chết. Hiện nay, tất cả các phụ nữ sống trong trại đều là người Công giáo, mặc dù lúc đầu, họ chưa biết Chúa. Một người trong số họ đã trở thành nữ tu.

“Lòng tin của tôi cũng dạy cho tôi cách ngăn chặn, không để cho đời sống tâm lý bị tác hại do lòng hận thù và cay đắng. Kinh nghiệm đã dạy cho tôi rất nhiều về khả năng vĩ đại của tinh thần con người, để vẫn có thể sống hạnh phúc, bất chấp bất cứ hoàn cảnh nào”.

Những người giống như Irina và các bạn của bà là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Họ lan truyền những khả năng yêu thương và can đảm của con người. Thật dễ dàng tin tưởng nơi Thiên Chúa, khi bạn đang quỳ gối với đôi mắt nhắm, cũng như thật dễ dàng là một người Kitô hữu, khi bạn sống cách xa sự phản đối và những thử thách của thế giới con người. Nhưng quả thật là một tôn giáo nghèo nàn, khi tin tưởng rằng chỉ có thể tìm thấy Thiên Chúa tại những nơi ở cách xa thế giới. Không thể nào giam hãm Thiên Chúa theo cách đó được.

Chúng ta là những môn đệ của Đức Giêsu. Người tuỳ thuộc vào chúng ta, trong việc mang lời chứng cho Người đến với thế giới ngày nay. Chỉ có vài người trong chúng ta sẽ được kêu gọi chịu đựng những điều mà các Tông đồ, hoặc những người giống như Irina và các bạn của bà đã phải chịu đựng. Nhưng có thể chúng ta phải đương đầu với một điều gì đó cũng khá tồi tệ –thói vô cùng lãnh đạm của những người đồng hành với chúng ta.

Chúng ta không thể nói trước được là ơn gọi Kitô hữu sẽ dẫn đưa chúng ta đi đâu, hoặc sẽ đòi hỏi gì từ nơi chúng ta. Nếu chúng ta nhìn thấy những nơi đó, có lẽ tâm hồn chúng ta sẽ bị khiếp sợ và sẽ mất đi sự can đảm. Về phương diện này, chúng ta giống như Phêrô. Khi lần đầu tiên đáp lại tiếng gọi của Đức Giêsu, ông không hề có ý tưởng rằng tiếng gọi đó sẽ dẫn đưa ông đến với cái chết vì đạo. Nhưng mặc dù ơn gọi Kitô hữu đòi hỏi bất cứ điều gì nơi chúng ta, thì chúng ta sẽ được đáp trả lại gấp trăm lần.

Suy Niệm 2. TIẾNG GỌI THỨ HAI.

Ngày xưa, có một người đốt lửa. Vào một đêm mùa đông, anh đang trở về nhà thì tuyết rơi. Trong khi đang đi trên một con đường tắt băng qua một vùng đất rộng, anh nhìn thấy có ánh lửa. Nhưng hầu như không hề có ngọn lửa, mà chỉ có một bó củi cháy âm ỉ. Một nhóm người đang tụ họp chung quanh mình, không giúp họ chống lại được sự giá lạnh cắt da. Anh dừng lại, nhưng chỉ trong một giây lát hết sức ngắn ngủi. Anh cảm thấy không dễ chịu khi đến với những người này. Sau khi đã nói vài câu về giá trị của ngọn lửa, anh lỉnh đi mất. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau khi rời bỏ họ, anh cảm thấy bất ổn. Anh nghĩ rằng nếu chỉ cần sẵn lòng dành ra thì giờ và chấp nhận khó chịu, thì anh có thể nhóm lửa lên rồi. Nhưng sau đó, nếu trong quá trình làm công việc này, anh bị nhiễm bệnh viêm phổi thì sao? Và rồi chắc chắn là họ sẽ đánh giá được những nỗ lực của anh.

Đi xa thêm một chút, dưới một mái nhà, anh gặp một nhóm người khác đang ngồi chung quanh một ngọn lửa cháy sáng rực. Khi nhận ra vẻ đói mệt của anh, họ kêu lên “Mời anh vào! Mời anh vào!”. Anh không để cho họ mời lần thứ hai. Anh đã ở lại lâu hơn anh dự định. Cuối cùng, khi anh ra đi, cả bọn họ đồng thanh nói “Cám ơn anh đã ghé qua”.

Khi đã về đến nhà, anh tiến thẳng đến giường. Đêm hôm đó, anh có một giấc mơ, qua đó Chúa hiện ra với anh và nói “Ta chỉ định cho con làm người đốt lửa, nhưng con đã không đáp ứng được nhu cầu của Ta”. Đó là tất cả những lời mà Chúa nói. Ngay tức khắc, người đốt lửa tiếp nhận được thông điệp này. Anh thức dậy và không thể ngủ lại được nữa. Anh nhớ lại những ngày đầu tiên của mình, trong tư cách là một người đốt lửa. Sau đó, anh trở về nhà với tâm trạng phấn khởi làm sao. Công việc của anh quả thật là một công việc tốt đẹp – mang hơi ấm đến cho cuộc sống của những người bị lạnh lẽo.

Nhưng rồi anh chẳng còn ý tưởng nào về những hy sinh khó nhọc, mà lời mời gọi trong công việc của nah sẽ đòi hỏi nơi anh. Anh cũng chẳng suy nghĩ nhiều về việc đốt lửa có thể bừa bãi như thế nào, và người ta có thể không đáp ứng và không biết đánh giá ra sao. Nhưng theo năm tháng, anh đã hiểu rõ tất cả những điều này. Hậu quả là ngọn lửa tình yêu của anh bị phai mờ. Càng ngày, anh càng lạnh nhạt với ơn gọi của mình.

Nhưng vào cái đêm khốn khổ này, cái đêm mà anh dò xét được chiều sâu nơi sự yếu đuối của mình, cái đêm mà thói ích kỷ của anh đã bị phơi bày ra một cách rất ư phũ phàng, cái đêm mà nhu cầu riêng đối với hơi ấm đã biểu lộ ra cho anh một cách đau đớn, thì một lần nữa, ánh lửa nơi ơn gọi của anh đã được nhen nhúm lên trong tâm hồn anh. Anh quyết tâm là ngay hôm sau, anh sẽ lại trở thành một người đốt lửa cho tất cả mọi người. Và anh đã thực hiện điều đó.

Có hai tiếng gọi của Phêrô đã được thuật lại trong các sách Tin Mừng. Tiếng gọi đầu tiên xảy ra vào lúc bắt đầu sứ vụ của Đức Giêsu (Mc 1,16-18). Tiếng gọi thứ hai xảy ra sau khi Người sống lại, và được tường thuật trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai tiếng gọi đó cách nhau ba năm. Trong suốt thời gian này, rất nhiều sự kiện đã xảy ra đối với Phêrô. Ông đã phát hiện được nhiều điều về con người đã kêu gọi ông, về công việc mà ông được kêu gọi, và vượt lên trên tất cả, đó là ông phát hiện được chính bản thân mình. Khi tiếng gọi thứ hai xảy đến, Phêrô là một con người khôn ngoan hơn và khiêm tốn hơn. Do đó, so với tiếng gọi thứ nhất, thì lời thưa “Xin vâng” của ông đối với tiếng gọi thứ hai trưởng thành và sáng tỏ hơn rất nhiều.

Câu chuyện của Phêrô là một câu chuyện về lời mời gọi, sự sa ngã và lại được mời gọi. Điều này chứng tỏ rằng tiếng gọi của Thiên Chúa không hề loại bỏ sự sa ngã. Ơn gọi không phải là điều gì đó mà người ta chỉ cần lắng nghe và đáp lại nhiều lần. Mỗi ngày, một phần của con đường mà chúng ta đã chọn lựa lại được mở ra trước mặt chúng ta, đây là một phần con đường mà trước đây, chúng ta chưa hề đặt chân lên. Và khi người ta đi trên phần con đường đó, thì tiếng gọi lại trở nên càng sâu xa hơn, và việc đáp trả càng trở nên nội tâm hơn và cá nhân hơn.

Tất cả những ơn gọi đều là ơn gọi đối với tình yêu –yêu mến Chúa và yêu mến chiên mẹ và chiên con trong đàn chiên của Người (nghĩa là những anh chị em của chúng ta trong cộng đoàn).

 

  1. Kiểm định lòng mến

Đoạn Tin Mừng Ga 21, 1-19 mà chúng ta được nghe đọc hôm nay là một đoạn Tin Mừng đẹp và hữu tình. Đẹp bởi phong cảnh của hừng đông ở bờ biển, đẹp bởi cách cư xử của Chúa Giêsu đối với các môn đệ nói chung và Phêrô nói riêng, vẻ đẹp còn được tăng lên bởi cách cư xử của các môn đệ đối với Chúa Giêsu cũng như cách cư xử của Phêrô… và đặc biệt đẹp bởi cách chọn người đứng đầu của Chúa Giêsu chỉ chọn trên một tiêu chuẩn duy nhất là yêu Chúa hơn hết mọi người.

Qua đoạn Tin Mừng dài và đẹp này chúng ta thấy được rằng Chúa Giêsu phục sinh vẫn luôn hiện diện với các môn đệ nhưng các ông không nhận ra mà chỉ có mình Gioan nhận ra. Đứng trước một người lạ chỉ cho nơi thả lưới ở bên phải mạn thuyền và đứng trước mẻ cá lạ lùng thì Gioan nhận ra người đó chính là Chúa. Chúa đó. Tại sao không phải là Phêrô người tông đồ trưởng? Tại sao không phải là một tông đồ nào khác? Thưa vì Gioan là người được Chúa yêu và trong tình yêu đó Gioan nhận ra người lạ đó chính là Chúa phục sinh. Chúng ta cũng thấy được điều này nơi Maria Mađalêna. Bà đã yêu mến nhiều nên được tha thứ nhiều và trong tình yêu mến đó Maria đã nhận ra được Chúa Kitô phục sinh. Người ta thường nói trong tình yêu không thể giải thích bằng lời. Chính trong tình yêu Gioan trực giác được Chúa hiện diện trước mặt các ông. Cũng chính trong tình yêu ta thấy được cách cư xử của Chúa Giêsu đối với các môn đệ: không một lời trách móc, không một lời kết án… Chúa đến với các ông đầy thông cảm yêu thương, san sẻ.. Vẫn là Thầy Giêsu đầy yêu thương cầm bánh, cầm cá trao cho các môn đệ.

Kế đó là cách chọn người của Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thêm an ủi và hy vọng. Ta thấy hay lắm, Chúa không hỏi Phêrô con có hiểu biết gì thêm không? Con có tài năng lãnh đạo không? Mà Chúa chỉ hỏi “Con có yêu mến Thầy hơn các anh em này không?” nhưng với câu này Chúa Giêsu hỏi đến ba lần cho thấy đây là nhân tố quyết định cho việc chọn người đứng đầu của Chúa. Tại sao như thế? Thưa bởi vì một lý do hết sức đơn giản đó là việc dẫn dắt lãnh đạo là của chính Chúa con người chỉ là cộng tác nên người lãnh đạo phải là người gắn bó mật thiết với Chúa, yêu ai là nên giống người đó, yêu Chúa là trở nên giống Chúa ngày một hơn và như thế là để cho chính Chúa hành động qua con người của chúng ta. Theo cái nhìn bình thường của con người thì Phêrô không đáng được chọn tý nào. Thủ lãnh gì mà khi Thầy bị bắt thì chạy mất, thủ lãnh gì mà chối Chúa đến ba lần… nhưng trong đoạn Tin Mừng hôm nay ta thấy cách cư xử của Phêrô cũng rất lạ. Khi nghe Gioan nói “Chúa đó” thì đáng lẽ Phêrô phải chạy trốn mất vì mặc cảm với Thầy, đáng lẽ Phêrô rụt rè đến với Chúa vì lo sợ chịu sự trách mắng nhưng Phêrô không xử sự như thế mà Phêrô vội khoát áo vào rồi ùm xuống biển để vội vàng đến với Chúa Giêsu. Tại sao ông cư xử như thế? Bởi lòng ông yêu mến Chúa, lòng yêu mến Chúa thúc đẩy ông đến với Chúa. Ông như quên đi tất cả, quên không gian, quên lỗi lầm, tình yêu Chúa trong ông thúc đẩy ông chỉ có một việc là đến với Chúa. Với tình yêu mến Chúa như thế, Chúa Giêsu không nhắc lại lỗi lầm, không nhắc lại những lần ông chối Chúa mà Chúa Giêsu ân cần đến với Phêrô và với các môn đệ, đồng bàn san sẻ với các ông cũng như đặt Phêrô làm thủ lãnh Giáo hội bởi Phêrô yêu mến Chúa hơn hết mọi người. Nhưng làm thủ lãnh là làm sao? Ở cuối bài Tin Mừng chúng ta nhận ra cách làm thủ lãnh mà Chúa muốn ở Phêrô đó là “Hãy theo Thầy”. Làm thủ lãnh là bước theo Chúa chứ không phải là dẫn dắt Chúa, là muốn làm sao cũng được. Chúng ta nhớ lại sau khi Phêrô tuyên xưng “Thầy là Con Thiên Chúa là Vua Israel” thì Chúa Giêsu mặc khải là Ngài sẽ phải lên Giêrusalem để chịu chết, vừa mới được Chúa khen Phêrô liền đứng ra can ngăn “Thiên Chúa thương Thầy không để Thầy như thế đâu”. Ngay lúc đó Phêrô bị Thầy khiển trách “Satan lui lại đằng sau Thầy”. Nên lần này Phêrô có kinh nghiệm nơi chính bản thân mình “Theo Thầy” không phải chỉ là theo Thầy biến hình trên núi Tabo, hay hãnh diện vì Thầy làm phép lạ… nhưng theo Thầy là theo suốt cả cuộc đời dù đó là Tabo hay Thập Giá. Và cuộc đời của Phêrô đã sống triệt để lời mời gọi của Chúa Giêsu khi Phêrô chịu chết vì tuyên xưng Chúa Kitô.

Chúa Kitô phục sinh hằng hiện diện ngay bên chúng ta nhưng để nhận ra được Ngài đòi hỏi chúng ta phải có lòng yêu mến, yêu mến để cảm nhận ra những dấu chỉ trong cuộc sống chính là sự hiện diện của Chúa Kitô phục sinh, yêu mến để gắn bó với Chúa hơn. Chính vì lòng yêu mến mà Phêrô được chọn nên chúng ta hãy yêu mến Chúa để trở nên người của Chúa. Cách Chúa chọn Phêrô cho chúng ta niềm hy vọng vì Chúa chọn không theo một tiêu chuẩn nào khác ngoài lòng yêu mến, ta hãy gắn bó với Chúa và phó thác cho Ngài. Sau cùng câu Chúa gọi Phêrô cũng là câu Chúa gọi mỗi người chúng ta “Hãy theo Thầy”. Theo Chúa là đón nhận mọi sự trong niềm tin tưởng phó thác cho dù dễ dàng hay khó khăn, cho dù là hoạn nạn hay an bình, khi vui cũng như lúc buồn… vì ta biết tất cả mọi sự nếu ta biết gắn bó với Chúa thì Chúa sẽ hành động trong ta, qua ta Chúa thể hiện tình yêu của Ngài. Theo Chúa là bước theo sau Chúa chứ không phải ép Chúa theo mình như Giuđa mà thất vọng.

Hãy tin tưởng phó thác trọn vẹn cho Chúa và hãy để Chúa hành động.

 

home Mục lục Lưu trữ