Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 153

Tổng truy cập: 1350038

“ĐỨC GIÊSU KITÔ – ÁNH SAO SÁNG SOI ĐƯỜNG-DẪN LỐI”

“ĐỨC GIÊSU KITÔ –

ÁNH SAO SÁNG SOI ĐƯỜNG-DẪN LỐI”

 

(Suy niệm của Lm. Ga. Phan Tiến Dũng)


Mừng Lễ Chúa Hiển Linh năm nay, trong một hoàn cảnh rất tế nhị vì chúng ta đang phải sống chung với dịch bệnh; vì thật ra, chúng ta không biết tương lai của mình sẽ ra sao, chúng ta đang rất cần sự soi sáng hướng dẫn, để dù trong cảnh thế sự thăng trầm, vẫn luôn khôn ngoan, biết biện phân để sống tốt, sống đẹp lòng Chúa. Tạ ơn Chúa, trong hoàn cảnh hiện nay, Thiên Chúa đang muốn mạc khải và chiếu tỏa tình thương cứu độ cho tất cả chúng ta qua nhiều cách thế, đặc biệt với những ai thành tâm thiện chí, sẽ được Chúa ban ơn để họ được thỏa lòng mong đợi. Điều này được minh chứng qua các bài đọc Lời Chúa. Ánh sáng đã soi chiếu, lan tỏa cho chúng ta cùng toàn thể nhân loại, đó là “Ánh Sáng của Con Thiên Chúa”. Qua ánh sáng tình thương và ân sủng đích thực này, Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta, một khi đã khám phá ra, tìm gặp được, hãy dấn thân, tin theo và tiến bước, để rồi chính chúng ta trong hành trình ơn gọi-sứ vụ của mình, cũng có thể trở nên gương sáng soi dẫn cho người khác đến tìm gặp Chúa và sống trọn vẹn cho Ngài.

Bài đọc một (Is 60, 1-6) Tiên tri Isaia đã mời gọi những ai cư ngụ và sống tại Giêrusalem hãy cảm nếm vì Thiên Chúa đã thương chiếu rọi ánh vinh quang của Ngài trên dân. Những ai nhận ra ánh sáng ân sủng này của Thiên Chúa, hãy vui mừng để loan báo và sống với ân ban đó; để từ đây tất cả mọi nước mọi dân cũng sẽ nhận ra ánh sáng của Thiên Chúa qua Giêrusalem. “Hãy đứng lên, hãy toả sáng ra, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi”.

Trong bài đọc hai (Ep 3, 2-3a. 5-6) Thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm quý báu của Ngài cho các tín hữu Ephêsô biết: Ánh sáng ân sủng của Thiên Chúa được mạc khải cho Ngài đến từ Chúa Giêsu Kitô. Qua Đức Giêsu Kitô và những người mà Chúa ủy thác, dân ngoại cũng được thừa hưởng ân sủng và trở nên dân thánh Chúa trong nhiệm thể của Chúa Giêsu Kitô. Hơn ai khác, chính bản thân Phaolô, khi Ngài nhận được ánh sáng ân sủng, Ngài đã khiêm tốn, mở lòng để Chúa làm cho trở nên tông đồ của mọi dân mọi nước. Giờ đây, Phaolô cũng mời gọi chúng ta hãy noi gương Ngài luôn khiêm tốn, mở lòng trước ơn ban tình thương của Chúa, hãy để cho ánh sáng Chúa soi dẫn hầu qua sứ vụ-ơn gọi của chúng ta, ơn Chúa được lan tỏa đến với tha nhân. 

Tin mừng (Mt 2, 1-12) Thánh Matthêu thuật lại cho chúng ta có ba cách thế được mạc khải để giúp con người nhận ra được tình thương, hồng ân của Thiên Chúa đến từ dấu chỉ ánh sáng của ngôi sao lạ; thế nhưng, lại có ba cách đáp trả khác nhau. Trước hết, với ba nhà Đạo sĩ: “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Mặc dầu họ là dân ngoại, không phải dân riêng Do Thái được tuyển chọn, nhưng khi nhận biết có dấu lạ đặc biệt từ ngôi sao, họ đã phân tích, suy xét và nhận định rằng đây chính là ngôi sao của một vị Vua người Do Thái mới sinh ra. Họ đã mau mắn thu xếp mọi sự để lên đường theo dấu chỉ của ánh sao. Trên hành trình tìm đến với vị Vua mới sinh này, chắc hẳn không biết bao nhiêu khó khăn mà họ đã gặp phải. Có lúc họ không còn biết phải chọn lối đi và hành trình nào, vì ánh sáng từ ngôi sao không còn nhìn thấy nữa. Nhưng không vì thế mà họ bỏ cuộc, họ đã quyết tâm để tìm hỏi, cuối cùng với những nỗ lực, họ cũng được đáp đền. “Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng”. Thật vậy, với sự mạc khải qua ánh sao, ba nhà Đạo sĩ đã được diện kiến Chúa Hài Nhi Giêsu, họ đã hân hoan vui sướng, dâng tiến lễ vật với lòng tôn kính, cảm tạ và tri ân. Qua đây, chúng ta thấy điều mà bài đọc một tiên báo được ứng nghiệm: “Tất cả mọi người đang tụ họp, tìm đến…đem theo vàng và nhũ hương và họ sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa”.

Thứ đến, với các Thượng tế và Kinh sư, khi họ được hỏi: “Vua Do Thái mới sinh ra ở đâu?” Họ đã biết rõ nên trích dẫn Kinh Thánh vì theo lời tuyên báo thì Ngài sẽ được sinh ra tại Bêlem. Với những chuyên gia, họ đã nhận ra được mạc khải từ Kinh Thánh, họ biết đường, biết lối, nhưng chẳng muốn ra đi để tìm kiếm hay hành động gì cả; ánh sáng của Lời Chúa không đem lại ý nghĩa, ơn thánh gì, nên trong họ không có sự thay đổi nào cả. Cuối cùng, với Hêrôđê, khi ông được các Đạo sĩ và các Thượng tế báo cho biết về vị Vua mới sinh. Mới nghe tin, ông đã hoang mang lo sợ; và để biện hộ cho sự ích kỷ, vụ lợi của chính mình, ông đã mưu toan, tìm kế để sát hại Hài Nhi Giêsu. Đây chính là thái độ, hành động chối từ, dập tắt ánh sáng đã được mạc khải cho mình. Như vậy, hai cung cách đáp trả trên của các Kinh sư và của Hêrôđê chính là sự “lầm đường lạc lối”. Còn với chúng ta hiện nay, đâu là ánh sáng soi dẫn để con đường cuộc đời chúng ta đi đang được đúng hướng, đúng như lòng Chúa mong muốn và mạc khải cho chúng ta?

Thưa ACE, qua Lời Chúa và qua các Bí tích ban ân sủng, chúng ta cũng được Chúa mạc khải và mời gọi: hãy đến để được Chúa ban ơn chúc phúc. Vậy, liệu rằng chúng ta có khiêm tốn, mở lòng và mau mắn đáp trả, hay chúng ta vẫn cứ thờ ơ-dửng dưng, hoặc tệ hại hơn là chúng ta đã từ chối, khước từ trước ánh sáng chỉ đường, ơn ban hồng ân của Chúa khi chúng ta yếu đuối, sa ngã mà phạm tội.

Lạy Chúa, xin cho tâm hồn, lòng trí và cuộc sống chúng con luôn khao khát tìm gặp được ánh sao sáng soi đường dẫn lối chính là Đức Giêsu Kitô, để cùng với Lời Chúa và ơn thánh của Ngài trao ban, chúng con có thể bước đi trong con đường ngay chính, thánh đức và đạt tới bến bờ an vui, hạnh phúc đích thực. Nhờ đó, chúng con cũng được Chúa dùng như những ánh sao sáng cho ACE mình. Amen.

 

134.Đấng cứu chuộc muôn dân

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)

Những người đã đọc trước tiên bài Tin Mừng chúng ta vưa nghe xong, là những Kitô hữu người Do-thái. Dù đã trở lại Kitô giáo, tâm tình và cách suy tư của họ vẫn còn bị ảnh hưởng nặng quan điểm của Do-thái giáo. Vì thế đối với những tín hữu này, là cả một điều vô cùng lạ lùng và bỡ ngỡ, khi nghe đọc: Các nhà Phù thủy (Magie) từ phương đông xa xôi đã đến để thờ lạy “vua Do-thái”. Ðối với họ, những người Phù thủy là những kẻ ngoại đạo, họ không được phép liên hệ, vì những người đó - cũng tương tự như những Chiêm tinh gia - thực hành những điều bị tôn giáo họ cấm đoán, như bói toán, bùa chú. Những Phù thủy là những người xa lạ, là những kẻ dạy những điều mê tin dị đoan nhảm nhí, vâng, là những kẻ thù nghịch với đức tin.

Thế nhưng bây giờ, chính những người đó đã đến Giê-ru-sa-lem và nói: “Một ngôi sao lạ đã dẫn đường chúng tôi đến đây! Vị tân vương của người Do-thái mới sinh ra ở đâu?” Họ đã làm đảo lộn và làm điên đầu những người bảo vệ đức tin và gìn giữ trật tự tôn giáo tại Do-thái. Nhưng chính những người này, dù thông thạo Kinh Thánh và theo lẽ thường là phải biết được cách rõ ràng biến cố đã xảy ra, cũng chỉ có thể nói được tên của nơi chốn có thể xảy ra biến cố, chứ nhiều hơn cũng đành bó tay. Còn bạo vương Hê-rô-đê thì chỉ nhìn thấy trước mắt một sự đe dọa nguy hiểm cho vương quyền của y. Vì thế, với mánh khóe xảo quyệt, y đã tìm cách lợi dụng sự hiểu biết của ba vị đạo sĩ ngoại giáo để thi hành thâm ý ích kỷ và độc ác của y. Qua đó, chúng ta thấy rằng, trong khi những người ngoại giáo - được hướng dẫn bởi một ngôi sao - đã tìm gặp được điều Kinh Thánh mặc khải, còn những người “tín hữu” lại không hề hay biết gì cả.

Ðúng vậy, về phương diện thần học, điều làm cho chúng ta phải ngạc nhiên trong đoạn văn này là: Những người ngoại giáo đã được kêu mời đến cùng Ðức Kitô. Và qua Hài Nhi nằm trong máng cỏ, họ đã nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa và đã quì gối tôn thờ. Còn những gì họ mang đến để kính dâng lên như lễ vật của mình, đã nói lên ý nghĩ và sự đánh giá của họ về Hài Nhi: Họ mang đến vàng. Vàng là một thứ kim loại quý hiếm. Nó sáng bóng như mặt trời. Ðó là một thứ kim loại dành để các vị vua khắc ấn hình ảnh của mình trên đó. Vậy, họ mang vàng đến như lễ vật dâng lên vị Ấu Chúa, Ðấng sẽ in đậm hình ảnh mình trên cả vũ trụ.

Món quà thứ hai là nhũ hương. Ðó là một loại hương liệu quý. Khi những hạt nhũ hương được đốt cháy, thì tỏa ra một làn khói trắng bốc thẳng lên cao với một mùi thơm dịu dàng. Mùi hương thơm bay tỏa ra và làm cho cả một vùng không khí thơm ngào ngạt. làn khói là tượng trưng cho sự hiện diện đầy huyền nhiệm của Thiên Chúa. Làn khói cuộn tròn, lan ra chung quanh và bốc lên cao, như muốn nối kết phía dưới thấp với phía trên cao, nối kết đất với trời.

Còn món quà thứ ba là mộc dược, một thứ rễ cây đắng, một vị thuốc chữa bệnh. Món quà muốn biểu hiệu cho sứ mệnh của Hài Nhi trong máng cỏ: Người sẽ hàn gắn và chữa lành mọi bệnh tật tâm linh và cả bệnh tật thể xác của con người, cũng như mang lại cho họ sự cứu rỗi!

Với những lễ vật đó, ba người ngoại giáo muốn bày tỏ lòng tôn kính và sự xác tín của họ: Ðức Kitô là Vua và là Ðấng Cứu Thế cho tất cả mọi người và mọi dân nước. Ðó là điều được đề cập tới ở đây, trong phần đầu của Tin Mừng theo thánh Má-thêu. Và tiếp đến trong phần cuối của bản Tin Mừng lại được thánh sử kết thúc bằng câu: “Các con hãy làm cho tất cả mọi người trở thành môn đệ của Thầy và hãy rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần!”

Bởi vì, Thiên Chúa là Vua, một Ðức Vua đầy tình phụ tử; Còn Chúa Con thuộc về Thiên Chúa và là Thiên Chúa; Người tác động trong cuộc sống chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần. Ðó chính là sứ điệp của ngày lễ hôm nay. Hay nói cách khác, ngày lễ Hiển Linh phải là một sứ điệp vui mừng cho chúng ta, vì nó bày tỏ cho chúng ta một sự thật là tất cả chúng ta - không phân biệt màu da, chủng tộc, văn hóa hay tôn giáo - đều có thể trở thành môn đệ Ðức Kitô. Bởi vậy, chớ gì những người còn ở “ngoài cuộc”, chưa nhập vào đoàn môn đệ Ðức Kitô - dù do họ là người ngoại giáo hay do họ đi lạc đường - hãy biết nỗ lực tìm kiếm một cách nghiêm chỉnh con đường dẫn đến cùng Ðức Kitô, Ðấng duy nhất có thể ban cho con người sự cứu rỗi sau cùng. Và sự nỗ lực đó không chỉ họ, những người còn “đứng ngoài”, phải có, nhưng cả chúng ta nữa, những người vẫn nghĩ mình đã “ở trong cuộc” rồi, cũng phải luôn luôn cố gắng không ngừng.

Những điều chúng ta vừa nói trên có thể giúp chúng ta đi tới ba suy tư:

Chúng ta cần phải giữ cho tư tưởng của mình được khoan dung và cởi mở; không đoán xét những người lạ mặt hoặc coi khinh họ hoặc kết án những con đường họ đi là lệch lạc; bởi lẽ, rất có thể là họ đã được một ngôi sao lạ dẫn đường, còn chúng ta lại không nhìn thấy được ngôi sao đó hoặc nhìn thấy, nhưng lại không nhận ra được.

Chúng ta được cảnh tỉnh: Những người có quyền bính và trách nhiệm xưa kia đã bị sai lầm. Mặc dù họ đã biết chính xác được địa danh, nơi Vị Tân Vương được sinh ra, và chẳng những họ không muốn đi đến kính viếng và thờ lạy Người, nhưng họ còn bày tỏ thái độ thù nghịch chống lại Vị Tân Vương mới sinh ra nữa. Khi trong một cộng đoàn đức tin mà Ðức Kitô không còn được nghiêm chỉnh tìm kiếm, thì cộng đoàn đó sẽ trở thành trò hề cho thiên hạ và là một cản trở cho Tin Mừng. Chúng ta cần phải nghiêm chỉnh. Vì chỉ khi chúng ta nghiêm chỉnh tìm hiểu điều Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta, bấy giờ chúng ta mới trở thành những vị đạo sĩ, những người “khôn ngoan”, biết tìm kiếm Ðức Kitô.

Và điều thức ba được nói cho chúng ta, đó là: Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải mang lễ vật đến dâng lên Người. Vì qua các lễ vật đó, chúng ta có thể nói lên Ðức Kitô có ý nghĩa gì đối với chúng ta, một cách rõ rệt hơn là bằng lời nói suông.

Nhưng chúng ta cần phải mang theo những lễ vật nào?

Theo thiển ý, tôi nghĩ rằng, có hai lễ vật chúng ta cần mang theo để dâng lên Ðức Kitô:

Lễ vật thứ nhất là: Thời giờ! Vâng, thời giờ là một lễ vật quan trọng nhất. Chúng ta hãy dùng thời giờ để đi tìm kiếm Ðức Chúa và để qui hướng cuộc sống mình theo gương sống của Người.

Lễ vật thứ hai đối với tôi cũng quan trọng tương tự, đó là: Chúng ta cần phải thật lòng quan tâm tới những người phải sống một cuộc sống tương tự như Ðức Giêsu, tức những người nghèo hèn, những người phải hằng ngày chân lấm tay bùn, những người bị coi là loại người “vô tích sự” trong con mắt người đời!

Ðó chính là bài học thực tế nhất chúng ta có thể rút tỉa ra được từ đại lễ Chúa Hiển Linh hôm nay! Amen.

 

135.Lễ Hiển Linh

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)

THÁI ĐỘ CỦA CON NGƯỜI ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA

Bài Phúc Âm tường thuật sự xuất hiện của các Đạo Sĩ đi tìm Đấng Thiên Sai là đề tài khiến các nhà thần học Kitô giáo qua mọi thời đại phải suy nghĩ. Các Giáo Phụ dạy là có ba vị Đạo Sĩ, tức ba vị đại diện cho ba lục địa trong thời cổ đại lúc bấy giờ: Âu Châu, Á Châu và Phi Châu. Còn Úc Châu và Mỹ Châu vào thời đó chưa được khám phá ra. Các ngài cho rằng qua ba vị Đạo Sĩ, lời Thánh Kinh “mọi dân nước trên mặt đất sẽ được nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa” hoàn toàn được nên trọn.

- Các Đạo Sĩ là dẫn chứng cụ thể cho việc tất cả mọi người trên khắp trái đất đi tìm kiếm Đấng Cứu Thế.

- Các Luật Sĩ người Do-thái là biểu tượng cho tất cả những ai thông hiểu mọi giáo lý về đức tin, nhưng lại không muốn động tay động chân ra sức thực hành đức tin. Vậy họ là biểu tượng của sự thờ ơ lạnh lùng và cố chấp.

- Cuối cùng các Giáo Phụ coi Hê-rô-đê là hiện thân cho tất cả những ai ham hố chức quyền danh vọng, những kẻ chỉ vì quyền lợi và phẩm hàm của mình, đã sẵn sàng thực hiện bất cứ thủ đoạn nào, trước hết họ tìm mọi cách hạ bệ và tiêu diệt một cách dã man các đối thủ của mình, bất cứ là ai, dù cho đó chỉ là một đứa trẻ vừa mới được sinh ra từ dòng giống hoàng tộc, cũng không được tha.

Sự phân định con người làm ba loại như thế, tức: Những kẻ thành tâm tìm kiếm chân lý - những kẻ thờ ơ hững hờ - những kẻ ham hố quyền hành - vẫn luôn giữ nguyên giá trị của nó trong suốt dòng lịch sử qua mọi thời đại và mãi cho đến ngày nay.

Vâng, ngày nay giữa các dân tộc trên khắp thế giới vẫn luôn có cả hàng triệu “đạo sĩ” đã và đang can đảm bỏ lại “nhà cửa và quê hương vô đạo” của mình để đi theo ánh sáng của “ngôi sao đức tin” hướng dẫn, tìm về với Đức Kitô trong lòng Giáo Hội của Người. Trên khắp các lục địa, đặc biệt ở Á và Phi Châu, số tân tòng được lãnh nhận bí tích Rửa Tội mỗi ngày mỗi tăng. Ở Châu Mỹ La-tinh, các Kitô hữu mạnh mẽ tranh đấu cách ôn hòa cho sự canh tân xã hội, chính trị và tín ngưỡng. Trong khi đó ở các nước chủ trương vô thần hay thù địch với Kitô giáo, mặc dầu hằng ngày phải đối mặt với những bắt bớ, đàn áp và kỳ thị, số người trưởng thành nói chung và số thanh thiếu niên nói riêng coi việc đi tìm kiếm Thiên Chúa như một khát vọng to lớn của đời họ vẫn tăng triển.

Trong khi đó, ở mọi thời đại bao giờ cũng có những kẻ trí thức, thông hiểu luật lệ và giáo lý, những lý thuyết gia Kitô giáo hững hờ khô khan, những kẻ luôn có thể cắt nghĩa rành mạch từng câu từng chữ về giáo lý, về đức tin, nhưng lại không hề quan tâm tới việc rút tỉa cho cuộc sống của riêng mình những hệ luận và những quyết định thích ứng. Vâng, đã có bao nhiêu Kitô hữu đã trở nên mệt mỏi và ù lì trong đức tin. Đó là những Kitô hữu đi tìm cho mình những vũ trụ quan thoải mái và không muốn đi tìm kiếm Đức Kitô nữa, vì họ cho rằng họ đã tìm gặp Người rồi. Phải chăng cuộc sống đức tin hằng ngày của chúng ta cũng đã bao lần trở nên mệt mỏi như thế? Phải chăng chúng ta đã nói về Đạo rất nhiều, nhưng lại sống Đạo rất ít? Phải chăng các tổ chức và các hội đoàn trong các giáo xứ thì không thiếu, nhưng lại có rất ít người có được hứng khởi, lòng nhiệt thành và hăng hái thực thi đúng đắn tinh thần của các tổ chức và của các hội đoàn thánh thiện đó?

Sau cùng, xưa kia cũng như ngày nay bao giờ cũng có những cuộc chiến của những kẻ có thế quyền lực chống lại Kitô giáo và chống lại các Kitô hữu. Họ là những người có quyền thế và không bao giờ chấp nhận những kẻ khác còn có quyền thế hơn mình hay ngang hàng với mình. Đó là những nhà độc tài hay những tập đoàn, đảng phái chuyên chính ở khắp nơi trên thế giới, và để bảo vệ quyền hành, họ luôn nắm trọn các phương tiện truyền thông trong tay để độc quyền chi phối dư luận theo chiều hướng chủ quan và lệch lạc của họ. Điều làm cho họ lo sợ nhất, đó là quyền bính của một Trẻ Sơ Sinh vừa đến trong trần gian để làm chứng cho sự thật và cho tình yêu chân chính. Bởi vậy, những kẻ hay những tập đoàn độc tài chuyên chính đó đã làm đủ mọi cách để loại bỏ sức mạnh của tinh thần bằng những khủng bố thể lý hay bằng những cuộc áp đảo và đe dọa về mặt tâm lý.

Tất cả ba lớp người - những người thành tâm tìm kiếm chân lý - những người thờ ơ hững hờ - những người nắm quyền lực đầy tham vọng - vẫn luôn hiện diện và cùng đồng hành với chúng ta trong cuộc sống đức tin và trên đường tìm kiếm Đức Kitô. Đức Kitô vẫn luôn là mục đích tìm kiếm của ba nhà Đạo Sĩ từ Phương đông và của tất cả những ai muốn bước theo vết chân của các ngài. Nhưng đồng thời Đức Kitô cũng chính là Đấng bị các thầy thông luật và những kẻ nối tiếp họ qua mọi thời đại tẩy chay chối từ, họ là những kẻ thông hiểu hết mọi góc cạnh, mọi ý nghĩa của chân lý, nhưng lại không chịu chấp nhận chân lý và không sống theo chân lý, không quì gối tôn thờ Đấng là Chân Lý Tuyệt Đối. Sau cùng, Đức Kitô cũng là Đấng bị Hê-rô-đê và tất cả những kẻ nắm giữ quyền hành đầy tham vọng tìm mọi cách để bắt bớ và tiêu diệt. Đức Giêsu Kitô luôn hiện diện một cách vô hình giữa lòng lịch sử nhân loại. Người là mốc giới phân định giữa sự cứu rỗi và sự hư mất, giữa hạnh phúc và sự bất hạnh, giữa Thiên đàng và hỏa ngục. Trước ngai tòa Đức Giêsu, dù dưới bất cứ hình thức nào, chỉ có sự tôn thờ hay chối từ, chứ không hề có thái độ trung lập được.

Các Giáo Phụ xưa cũng hiểu rõ Kinh Thánh và các ngài đã biết rất rõ, không có gì có thể bảo đảm chắc chắn được rằng ba Đạo Sĩ là ba vị vua cả. Tuy vậy, trong các bức tranh người ta thường trình bày các nhà Đạo Sĩ với mũ triều thiên đội trên đầu và khoác y phục của các bậc vương giả. Nhưng đối với chúng ta dữ kiện ba nhà Đạo Sĩ có phải là ba vị vua hay không, chuyện đó không quan trọng. Thật ra không có gì xứng đáng với phẩm hàm vương giả của con người hơn là việc con người biết can đảm lên đường tìm kiếm chân lý, và rồi biết quì gối kính thờ tình yêu nhập thể của Thiên Chúa.

Hôm nay, tất cả chúng ta cũng như các nhà Đạo Sĩ xưa kia, sấp mình bái thờ Con Trẻ nằm trong máng cỏ để nhận diện được tình yêu trọng đại của Thiên Chúa đã hiện thân hữu hình giữa loài người chúng ta.

 

home Mục lục Lưu trữ