Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 21

Tổng truy cập: 1363343

AI CAO TRỌNG HƠN ÔNG

AI CAO TRỌNG HƠN ÔNG(*)- Chú giải của Noel Quession

 

Ông Gioan lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm.

Trong diễn biến của Tin Mừng của ông, Matthêu bốn lần nói về Gioan Tẩy Giả… và luôn có liên quan với Đức Giêsu.

Mt 3,1-7 Gioan Tẩy Giả rao giảng “Nước Thiên Chúa” và làm phép rửa cho Đức Giêsu …

Mt 4,12 Việc bắt giữ Gioan Tẩy Giả, người định đoạt cho Đức Giêsu “khởi đầu”…

Mt 11,2-18 Gioan từ trong ngục, đặt những câu hỏi về Đức Giêsu và Đức Giêsu đặt những câu hỏi về Gioan cho đám đông. Đó là đoạn chúng ta đọc hôm nay:

Mt 14,1-13 Cái chết của Gioan, loan báo phần thứ hai của sứ vụ của Đức Kitô.

Ông liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”

Chính với lòng nhiệt thành mà Gioan trông đợi Đấng Mêsia. Chúa nhật trước chúng ta đã thấy sự sôi sục của quần chúng đã được khơi dậy do tiếng “kêu’ của ông, do “Tin Mừng” của ông: “Nước Trời đã gần kề!”.

Thế mà này đây là Gioan, bây giờ do dự, nao núng. Có lẽ ông ta sẽ không lầm lẫn chăng? Cái “hoài nghi” này có gây xúc động như thế ư? Và chúng ta cố đặt vào địa vị của Gioan. ông đang ở trong ngục, trong cái chiến lũy Macheronte, một cái pháo đài, khiếp đảm và kiên cố của Hêrôđê xây dựng chắc chắn vào một mỏm núi đá của hoang mạc Mô-áp, phía đông Biển Chết. ông ta có giờ để suy nghĩ. Đó là một tù nhân bị giam trong bốn bức tường. Đây là cái thử thách khủng khiếp nhất: “đức tin” bị nao núng… Một thứ tiếng kêu phá hoại khơi gợi ông ta: “tất cả chuyện gì anh tin cho tôi giờ, đều sai lầm cả… Giêsu của anh đâu phải Đấng Mêsia, ông ta không có khả năng giải thoát mi ra khỏi ngục.

Vâng, Gioan Tẩy Giả, vừa nghĩ đến những dòng dõi cứu thế thời mình, vữa chờ một Mêsia chiến chúng: một Đức Ki tô của dòng Đa-vít, Đấng được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng có lẽ giải phóng Do Thái khỏi tay quân thù… một Đức Kitô siêu việt, Con người mà Đanien loan báo, đến từ đám mây trời để phán xét tất cả những kẻ dữ của hơi thở từ miệng người”. Và dó chính lâ Mêsia mà Gioa đã loan báo những đám người ở hoang mạc: viên quan xét đã có sẵn chiếc rìu trong tay để chặt hết tất cả cây nào không sinh trái, người xay lúa cầm sẵn cái nia để rê trấu khỏi lúa mì.

Sự thất vọng? Đức Giêsu đang làm thất vọng. Thiên Chúa đang làm thất vọng.

Thiên Chúa cũng hay làm thất vọng chúng ta. Người không phải như chúng ta tưởng tượng. Thiên Chúa làm cho Người ta chưng bứng. Và như Gioan Tẩy Giả, chúng ta cứ tiếp tục mong ước rằng Thiên Chúa làm theo “ý muốn của chúng ta” và giống như hình ảnh mà chúng ta tạo ra về Người. Bạn hãy nói cho tôi biết tại sao Thiên Chúa lại để cho vị tiên báo của Người vào tù? Tại sao Thiên Chúa không bênh vực các bạn hữu của Người? Tại sao Thiên Chúa lại, không giải thoát cho không người bị tù tội vì Người? Tại sao dường như Thiên Chúa luôn luôn bị những kẻ thù của mình chiến thắng? Tại sao, Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Thiên Chúa lại bị Hêrôđê khóa miệng lại? Tại sao Lời Chúa lại “quá lặng lẽ thế?

Tại sao Chúa ơi, Chúa yên lặng, khi có biết bao người đang cáo giác người? Tại sao có biết bao điều xấu, biết bao đau khổ, biết bao chết chóc trong vạn vật thụ tạo? Lạy Chúa, hôm nay, xin Chúa trả lời cho chúng con hay Chúa có phải là Đấng đem đến cho chúng coi mềm vui, sự sống và hạnh phúc không hay chúng con lại phải đợi một người khác?

Chúng con có phải tiếp tục tin vào Chúa không, hay chúng con phải khước từ Chúa để chúng con hiến mình cho những người khác? Khủng hoảng đức tin. Những nhà lao tối tăm ở Macheronte. Đêm tăm tối của Gioan Tây Giả.

Đức Giêsu trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.

Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi đặt ra. Người không nói “Tôi là Người phải đến”. Người không cho một giải pháp có sẵn. Người gợi cho người chất vấn phải tự mình tìm câu trả lời cho vấn đề mình đặt ra.

Đức Giêsu, Đấng Mêsia làm cho người ta chưng hửng, dẫn lại những đoạn Kinh Thánh, lấy trong ngôn sứ Isaia (Is 26,19; 29,18; 35,5; 61,1). Khi đắn đo kể những đoạn này, hơn là các đoạn khác, Đức Giêsu cho thấy Người đã chọn là “loại Mêsia nào”: Thiên Chúa Đấng đã sai Người đến không tỏ mình ra qua những cử chỉ của quan xét và của người hiếu thắng, nhưng bằng những cử chỉ tốt lành đối với những người thất thế và người đau khổ: mù lòa, què quặt, phong cùi, điếc lác… Và ý nghĩa sâu xa của hành động chữa lành này được thấy rõ trong hai việc lành sau cùng được nói lên: ‘cái chết’ bị đánh bại… người nghèo được rao giảng Tin Mừng… Đấy chính là niềm vui mới!

Những câu hỏi mà chúng ta đặt ra về Gioan Tẩy Giả, những hoài nghi mà chúng ta có về Chúa, thì bây giờ chính chúng tại đem ta trở lại với “chính ta”: bạn đã cáo giác Chúa, bạn làm gì trên thế gian này để giúp đỡ những người đau khổ, để giải phóng những người bị đè nén, để làm cho số phận của các anh chị em ta trở nên tốt hơn?

Dấu hiệu đích thực là Thiên Chúa ở đó, và Nước Người đã bắt đầu, chính khi có tình yêu! Chúng ta ‘không phải đợi một ai khác nữa’.

Câu trả lời của Đức Giêsu cho Gioan Tẩy Giả phải trở nên một câu hỏi khẩn thiết đối với mỗi Ki tô hữu, và đối với Giáo Hội nói chung: Giáo Hội hôm nay, Người có là cộng đoàn tình yêu của Đức Giêsu và của “Tin Mừng của Người cho người nghèo không hay chúng tôi phải chờ đợi một Giáo Hội khác nữa? Và bạn, bạn có tự hiến thân cho những người thấy bạn sống những dấu chỉ của Đức Giêsu không? Đón tiếp, ủi an, cứu vớt, yêu thương.

Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi

Bản văn Hy Lạp nói ở đây: “Phúc cho ai không bị làm gương mù vì tôi”. Tiếng “skandalon” là hình ảnh gợi ra viên đá trên đường mà người nào cũng dẵm lên. Đức Giêsu, nhờ những dấu chỉ bất ngờ Người đưa ra, có thể trở nên một cơ hội “vấp ngã” đối với chính Gioan Tẩy Giả. Điều nghịch lý. Người rao giảng, hôm Chúa nhật trước, đã mời các đám đông người sám hối ở trên bờ sông Giođan, bây giờ được mời để tự Sám hối. Vâng, Gioan Tẩy Gỉa được mời đi tới một đức tin sâu xa hơn. Vị tiền hô được mời để tin vào Thiên Chúa, ngay trong cảnh tù đầy, bằng cách chấp nhận như một lối thoát khỏi cảnh tù đày này mà không phải là sự cứu thoát bởi một Thiên Chúa toàn năng… những cái chết của mình, hiệp thông với cái chết, chẳng bao lâu nữa, của Đấng Mêsia trên thập giá. Lòng tin của chúng ta cũng thế, không phải là một “sự vật” chiếm hữu lấy một lần thay cho tất cả. Thật là tốt cho chúng ta biết mấy khi thấy một người khổ tu, một vị thánh, “ngôn sứ vĩ đại nhất”… được mời để làm cho đức tin lớn lên, được mời để không bị “vấp phạm” vì Đức Giêsu.

Họ đi rồi, Đức Giêsu bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.

Đức Giêsu bây giờ khen ngợi Gioan Tẩy Giả.

“Giêsu, ông là ai? Đức Giêsu hỏi đám đông. Đám đông không trả lời chi cả. Yên lặng. Dẫu vậy câu hỏi của Đức Giêsu trở nên sống động, tiến lên từng nấc, nhắc lại ba lần: một cây sậy? một ông hoàng? một ngôn sứ? A không! Người không phải là cây sậy bị cơn gió nào cũng làm lung lay, người đàn ông chốn hoang địa này đáng phải vào tù vì thái độ cương nghị của ông: đó là một người can đảm (Gr 1,10-17). A, không, ông không phải là người tinh tế, có khả năng sống trong sự dễ dãi, người đàn ông này mặc áo da súc vật như Êlia (2 V 1,8). Đức Giêsu nói: Đó là một ngôn sứ, và còn hơn là một ngôn sứ.

Chính ông là người Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến

Như trong phần thứ nhất, để xác định căn tính của Đấng Mêsia ở đây Đức Giêsu dẫn một lời Kinh Thánh để xác định căn tính của Gioan. Và đó là đoạn sách Malakhi (3,1). Nhưng Đức Giêsu đã sửa nguyên văn của Cựu ước, và điều này rất có ý nghĩa Malakhi đã viết: “Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta”. Trong đoạn này chỉ có hai nhân vật: Thiên Chúa và sứ giả của Người.

Đức Giêsu -khi giải thích đoạn trích dẫn, đặt vấn đề ba nhân vật: Thiên Chúa, sứ giả đi dọn đường, và Đấng sẽ đến”; tức là Đấng mà Thiên Chúa xưng là cha con: “trước mặt Con!”. Khi Đức Giêsu dẫn Kinh Thánh, người cho mình như Đấng Mêsia đã được loan báo. Và vì thế, Người đi dọn chỗ dùng kỹ xảo với nguyên bản: Malakhi tập trung vào người sứ giả Đức Kitô chú trọng đến “Đấng chuẩn bị sứ giả”. Như thế bằng cách bày tỏ cho đám đông hiểu căn tính sâu xa của Gioan Tẩy Giả, thì Đức Giêsu còn tỏ cả căn tính của mình.

Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.

Chúng ta lặn ngụp, một lần nữa, vào trong ý thứ mà Đức Giêsu có về bản thể sâu xa, và vai trò của Người trong lịch sử Đức Giêsu có ý thức khơi động một thay đổi lịch sử thật sự. Có “trước” người và “sau’ người. Lịch sử thế giới đang ở một bước ngoặt. Nếu Đức Giêsu Nagiarét này chỉ là một anh dân làng nhỏ bé kiêu kỳ, thì cuộc phiêu lưu của Người sẽ không kéo dài. Điều đó có lẽ không đúng, nhưng cuộc phiêu lưu lại kéo dài liên miên. Đức Giêsu đã dứt khoát và thực sự chia cắt lịch sử làm hai. Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu với Người. Và Đức Giêsu có thể nói thực sự rằng con người thánh thiện nhất, vĩ đại nhất của Cựu ước, còn là người bé nhỏ hơn người Kitô hữu hèn mọn nhất của kỷ nguyên mới bắt đầu… Một cách nghịch lý chúng ta đi vào thời đại của “những người bé mọn”: tự khi Thiên Chúa nhập thể làm “đầy tớ”, thì sự vĩ đại quyền lực, chính là trở nên “bé mọn”. Trong khi chịu thử thách, Gioan đã học được điều đó.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT III MÙA VỌNG – C

HÃY THUẬT LẠI NHỮNG GÌ ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ NGHE – Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1/. Vào một khúc quanh quyết định, một cuộc đối thoại kỳ lạ:

Phúc âm Chúa nhặt vừa qua trích dẫn thời gian đầu của sứ vụ của Gioan Tiền Hô, chương thứ bốn Phúc âm thánh Matthêu. Ông loan báo: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần. Đấng đến sau tôi thì quyển thế hơn tôi. Đốt giai đoạn, sách bài đọc hôm nay đưa chúng ta đến chương thứ 11 của thánh Matthêu, nơi diễn ra cuộc đối thoại kỳ lạ giữa vị tiên tri vùng hoang địa và Đức Giêsu. -Thực ra Gioan đang ở trong tù (xem 4,12). Trong khi chờ đợi trả giá sự can đảm bằng chính mạng sống mình, ông đành mất tự do vì đã tố cáo phẩm hạnh xấu của Hêrôđê Antipas, con của Hêrôđê Cả (ông ta sống với nàng Hêrôđiađê, là vợ của Philipphe, anh ông ta: 14,4-5). Về phương diện thể xác, ông từ từ tự xoá mình đi trước Đấng mà ông đã nhận lãnh sứ mạng loan báo đang đến. Còn Đức Giêsu, sau nhiệt tình ban đầu của cuộc đời công khai, Ngài đã có kinh nghiệm đau đớn về tính hay thay đổi của những đám đông xứ Galilê. Lời giảng dạy của Ngài, thôi thúc thính giả phải chọn lựa, phải quyết định, đã gây chia rẽ về con người của Ngài. “những công trình” của Ngài không phải là những việc mà cách chung người ta chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế! Và sự đối lập căng thẳng sẽ buộc Ngài phải khôn ngoan rút lui. Chính ở khúc ngoặt quyết định này, đối với Đức Giêsu, cũng như với Gioan Tiền Hô, mà tác giả Phúc âm đã đặt cuộc đối thoại kỳ lạ, qua trung gian những người được sai đến.

2/. Câu hỏi của một tiên tri bị hoang mang:

Như chúng ta thấy trong Chúa nhật vừa qua, Gioan Tiền Hô không ngừng loan báo việc Đấng Cứu Thế sẽ đến, “sức mạnh của Ngài giáng xuống” như sấm sét. Nhưng thái độ của Đức Giêsu rất không phù hợp với những lời khuyên bảo nghiêm khắc của ông. Không hề có ý định tiêu diệt những người tội lỗi, Ngài đi từ làng này sang làng khác, mở rộng đôi tay đón nhận tất cả những cảnh khốn khổ cùng quẫn của con người, chữa lành bệnh nhân (8 và 9), tha thứ tội lỗi (9,l-8), kêu gọi một người thu thuế bước theo Ngài (9,9), đồng bàn với những người tội lỗi (9,10). Khác xa với vị quan toà đáng sợ mà Gioan đã loan báo, Đức Giêsu xuất hiện như người tôi tớ kín đáo, người ta không nghe tiếng Ngài trên quảng trường, Ngài không bẻ gãy cây sậy bị giập nát và không làm tắt tim đèn còn bốc khói (12,19-20). Ở đây Gioan đối đầu với cớ vấp phạm (scadale), nghĩa là đối đầu với một chướng ngại có nguy cơ làm ông sụp ngả. Một Đấng Cứu Thế Tôi Tớ, khiêm nhường và đau khổ, khác xa với Đấng mà ông đã loan báo. Đó là thử thách đức tin của ông: đang chờ đợi một sự biểu lộ công bình, thì ông lại gặp lòng thương xót của Thiên Chúa. Vì thế, từ trong tù ngục Machéronte, từ đáy sâu suy tư mà hoàn cảnh đã nhận chìm ông vào, Gioan, vị tiên tri bị hoang mang, đã sai các môn đệ đến đặt cho Đức Giêsu câu hỏi từ lâu thiêu đốt tâm hồn và môi miệng ông: ông có phải là Đấng phải đến (một sự chỉ định Kitô-giáo về Đấng Cứu Thế, lấy từ Thánh vịnh 118,26), hay chúng tôi còn phải chờ đợi “một Đấng khác?”

3/. Câu trả lời của một Đấng Cứu Thế gây hoang mang.

Đức Giêsu trả lời trong hai hồi. Trước hết là nói với chính Gioan. Sau đó, là nói về Gioan. Trong hồi thứ nhất, Đức Giêsu gởi gắm một sứ điệp cho những người được Gioan phái đến: “Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được loan báo Tin mừng. Một sứ điệp diễn tả những hoạt động từ thiện của Đức Giêsu ưu ái dành cho đám đông. Một sứ điệp thực sự đưa Gioan Tiền Hô về lại với những lời loan báo tiên tri của sách Isaia; đặc biệt là Is.35 của bài đọc thứ nhất Chúa nhật hôm nay: “Bấy giờ “mắt người mù sẽ mở ra và tai người điếc…, và Is.61: “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi Ngài sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó”. Như A.Marchadour giải thích điều đó rõ ràng trong một tác phẩm mới xuất bản: “Trong kinh nghiệm của dân Israel, phép lạ được định vị chủ yếu trong thời gian cuộc Xuất Hành… Dân Israel hy vọng rằng, những dấu lạ này sẽ lại đến trong thời gian sau hết, khi Thiên Chúa còn gần gũi với dân Ngài và sẽ bày tỏ điều đó ra bằng những dấu chỉ: “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra, và tai người điếc sẽ nghe được. Bấy giờ người què sẽ nhảy lên như nai, và lưỡi người câm sẽ kêu lên vui mừng! Bởi vì, nước sẽ chảy vọt ra trong hoang địa và thác sẽ trào dâng trong thảo nguyên (Is 35,5-6). Đó là điều mà Đức Giêsu và Giáo Hội kế tiếp Ngài sẽ hiểu (xem 7,18,23). Chỗ đứng quan trọng của các phép lạ thời Đức Giêsu (và cũng một phần trong thời Giáo Hội sơ khai) là sự hoàn thành của thời gian sau hết (Les Evangiles au feu de la critique”, Bayard Editions, Centurion 1995, trang 120-121).

Như vậy thời gian viên mãn đã đến; Đấng Cứu Thế được mong đợi đã đến. Nhưng còn phải phân định những dấu chỉ của sự hiện diện của vương quốc, và, như vậy là, như J.Radermarkers dã viết: chấp nhận được kể vào số những người mù được nhìn thấy, người câm điếc được nghe, người nghèo được Phúc âm hoá (‘Au fil de l’évangile selon saint Mathieu’ trang 154). Sau cùng, Đức Giêsu nói với Gioan: “Phúc cho ai không vấp phạm vì Ta. Nói khác đi, phúc cho ai sẽ vượt qua chướng ngại, sẽ phá vỡ cạm bẫy được giương ra, sẽ không vấp ngã? Ngoài Gioan, một thứ phúc thật có thể được áp dụng cho tất cả các tín hữu, cho mỗi người chúng ta.

– Sau khi các sứ giả trở về trại giam (pháo đài) Machéronte, sang hồi thứ hai, Đức Giêsu, đối chiếu sứ vụ của Gioan với sự vụ của mình, đã khen ngợi Gioan Tẩy giả. Nếu những nhân chứng tuốn về phía con người của sa mạc.

+ Không phải là đến để xem “cây sậy phất phơ trước gió” trên bờ sông Giođan, một con người nhu nhược ngả nghiêng trước gió: can đảm trong việc giảng thuyết, Gioan đã tỏ ra không nao núng trong nghịch cảnh và cơn bách hại.

+ Cũng không phải là để đi xem. “một người mặc y phục sang trọng”, một nhân vật trần thế: nhà khổ hạnh của sa mạc mặc y phục của tiên tri Êlia, vị tiên tri được mong đợi trong thời sau hết, kẻ phải đến trước Đấng Cứu Thế;

+ Chính là để đi đến với “một vị tiên tri”, và Đức Giêsu khẳng định: “còn hơn một vị tiên tri nữa”: ông là “vị sứ giả” cuối cùng, được tiên tri Malachia loan báo (3,1), “kẻ dọn đường”, Đấng tiền hô. Theo nghĩa đó, ông là vi tiên tri lớn nhất trong các tiên tri, bởi vì ở nơi ông, tất cả sự trông đợi được diễn tả qua truyền thống các tiên tri đã đạt đến đích điểm: Đức Giêsu long trọng tuyên bố: “Giữa con cái loài người, không ai lớn hơn Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, ngay lập tức Ngài nói thêm một cách ngược đời: “người nhỏ nhất trong Nước Trời còn lớn hơn ông ta”. Cl. Tassin diễn giải: “Theo lịch sử nhân loại, không có ai lớn hơn ông. Thế nhưng, người bé nhỏ nhất, trong các Kitô hữu lại vượt qua ông trong phẩm cách, với tư cách là thành viên của một vương quốc đảo ngược những tiêu chuẩn nhân loại và ưu đãi những người bé mọn” (“L’evangile de Matthieu, Centurion, trang l22).

BÀI ĐỌC THÊM

1/.”Những dấu chỉ của sự hiện diện nước Thiên Chúa không có ly kỳ”

Người ta chờ đợi một người làm sáng tỏ công lý không biết thương xót và ở đây lại là một vị chuyên chữa thân xác, một lương y của các tâm hồn. Người ta đã loan báo sự báo oán của Thiên Chúa, thế mà ở đây lại là lòng thương xót được trao ban với sự dịu hiền và khiêm nhường. Một nhà giải phóng kỳ lạ và rất khác biệt với dung mạo được tiên báo!… “ông có phải là Đấng phải đến hay là chúng tôi còn phải đợi một người khác. Đấng tiền hô sẽ thoả mãn với những dấu chỉ và bằng chứng. Thế nhưng ở đây, không phải là vinh quang rực rỡ, cũng không phải là sự báo oán thẳng tay. Cũng không là một lời giải đáp cho những hy vọng chính trị, tôn giáo, ái quốc của một số đông. Đấng Cứu Thế đang ở đó sự giải phóng đã bắt đầu. Nước Thiên Chúa đã khai mào. Một cách khác. Bất thình lình. Không ngờ. Đức Kitô thực sự không đáp ứng dễ dàng những tiêu chuẩn tự nhiên, những cái nhìn quá chật hẹp và quá khô cứng bởi những lợi lộc vật chất trần tục của chúng ta. Nếu Gioan đã có thể hồ nghi, điều này cũng dễ hiểu, thì những người khác đã hiểu ngay tức khắc, dù Thiên Chúa thinh lặng: những người được chữa lành, những người được thanh tẩy, những người được biến đổi và đám đông những người nghèo hèn này sau cùng được nhìn với sự yêu thương, được xem như là những con người được hoàn toàn ưu ái, con cái của vương quốc, những người thừa kế thực sự. Có thể là họ không biết tất cả những sắc thái của các lời tiên tri, không biết đến cả ngàn thứ quy định của Lề Luật, dù là thuộc về giáo thuyết phụng vụ hay luân lý. Họ không có kiến thức khoa học, không quyền bính, không tiền bạc và không cả sự kính trọng. Phúc cho “những con người bé nhỏ này”, nghèo túng rất nhiều thứ, nhưng lại giàu sự hiểu biết của con tim. Họ hiểu biết mà không xét nét, và đã trở nên bằng chứng sống động của sự thâm nhập của một thế giới khác. Những nhân chứng đầu tiên còn lớn hơn cả Đấng tiền hô nữa.

Những dấu chỉ sự hiện diện của Nước Thiên Chúa và của Đấng Cứu Tinh không cố gì là ly kỳ cả. Trái lại, kín đáo và ẩn giấu trong khối bột của đời sống thường ngày, chúng dễ dàng lướt qua, không ai để ý. Những bằng chứng về tính đích thực không bị đông cứng lại trong những tuyên bố những nguyên tắc, những đe doạ và những vạ tuyệt thông ầm ĩ, cũng không có trong sự rõ ràng của những tín điều được công bố. Chính Đức Giêsu từ chối trả lời cho đấng tiền hô qua việc giới thiệu những danh hiệu của Ngài, cho những thái độ khiêu khích gây kinh ngạc, đụng chạm và chia rẽ của Ngài. Những bằng chứng ư? Những cử chỉ yêu thương và tha thứ, bằng chứng của một tinh thần rộng mở và luôn luôn niềm nở, một trái tim không biên giới, một sự hoàn toàn kính trọng tất cả mọi người, một sự say mê chân lý và công bình, một sự trung thành không ngừng bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa và của con người. Thiên Chúa và con người không thể tách rời nhau.

2/. “Mở mắt mở tai… tâm hồn”

Tìm kiếm sự phi thường, kỳ diệu luôn luôn là một cám dỗ; còn tế nhị hơn nữa, tìm kiếm sự thành công, sự kính trọng, lòng khao khát lôi cuốn sự chú ý, thủ đắc uy tín xã hội cho chúng ta hay cho Giáo Hội. Chúng ta muốn gây một ấn tượng tốt, nếu có thể gây nên cảm giác, muốn giới thiệu nhưng dấu chỉ như là những thư giới thiệu. Thế nhưng, những dấu chỉ đích thực của Đấng Thiên Sai lại chiếu cố đến những người bé mọn, những người bệnh tật, nhưng người nghèo. Vì thế, dấu chỉ của ơn cứu độ thường được giấu kín, không hiểu thấu được. Để có thể thấy được, phải tìm kiếm, phải chú ý, lắng nghe và nhìn xem: “Hãy đi báo cho Gioan những gì các ông nghe và thấy”. Đang ở trong tù, Gioan vẫn theo dõi những gì người ta nói về Đức Giêsu: ông sai các môn đệ đến với Đức Giêsu để phỏng vấn Ngài: Cũng phải mở rộng con tim để hiểu: “Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”. Chính những dấu chỉ phải đương đầu với sự mâu thuẫn. Quả thật người ta có thể bỏ qua, quả thật người ta có thể thấy chúng “không có gì đáng kể”, hay người ta có thể lầm lạc khi tìm kiếm những việc phi thường. Để nhận ra Đức Kitô, phải mở mắt, mở tai… và mở con tim nữa.

3/. “Phép lạ, dấu chỉ ơn cứu độ của Thiên Chúa cho con người”

“Không được cô lập phép lạ ra khỏi toàn bộ Phúc âm. Đó là phần chính yếu của sứ mạng Đức Giêsu. Có nghĩa là, ơn cứu độ do Đức Giêsu đem đến không phải chỉ là Tin Mừng suông, một sự hiểu biết giúp thoát khỏi sự tối tăm ngu dốt, và chuyền thông một kiến thức mới về Thiên Chúa; nhưng đó cũng là một sự giải phóng thân xác, một sự khôi phục toàn diện cho những người què quặt cho những người sống bên lề, cho những người bị đánh mất chính mình (bị ám ảnh bởi một người khác), cho những ngườibị loại trừ ra khỏi xã hội. Phép lạ tượng trưng cho một chương trình cứu độ, chịu trách nhiệm về những thực tại thân xác, vật lý, thiêng liêng và xã hội của con người. Phép lạ luôn luôn xuất hiện như một sự phản kháng, chống lại một trạng thái nào đó của những sự vật một sự từ chối chống lại tai ương, dù là sinh vật học, thiên nhiên hay xã hội. Người có ơn đoàn sủng là người vượt qua những ranh giới và giúp cho người khác vượt qua những ranh giới đó. Có thể chúng ta chạm ngón tay vào một nét lớn của phép lạ, là phải nắm giừ lại khi chúng ta tự hỏi về tính thời sự của phép lạ. Ngày nay, chúng ta ít thấy những phép lạ thuộc loại sinh vật học; tuy nhiên, phải tự hỏi về những vươn lên, những vượt qua các giới hạn mà chúng ta được mời gọi. Phép lạ giả thuyết hai người nghèo túng: người thứ nhất là Đức Giêsu, “Ngài là Đấng vốn giàu có đã tự trở nên nghèo hèn vì anh em” (2Cr 8,9). Người thứ hai là người đón nhận dấu chỉ của Đức Giêsu, là người khốn quẫn đến nỗi đã để cho sức mạnh của Đức Giêsu hành động trên chính mình và qua chính mình”.

home Mục lục Lưu trữ