Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 93

Tổng truy cập: 1364196

AI SẼ GIẢI CỨU CHÚNG TA

AI SẼ GIẢI CỨU CHÚNG TA– Chú giải của William Barclay

HÌNH PHẠT CHO NHỮNG AI KHÔNG QUAN TÂM ĐẾN NHỮNG NỖI KHỔ CỦA THA NHÂN

Dụ ngôn về người quản gia bất trung dạy ta cách sử dụng của cải cách hợp lý. Dụ ngôn về người phú hộ Ladarô nghèo được Chúa dùng để cảnh cáo những người nghe khỏi lạm dụng của cải. Trong câu chuyện này Chúa không dạy rằng nên làm giàu là tội lỗi hoặc tất cả người nghèo đều được cứu. Ngài muốn nói đến cái hiểm họa nghiêm trọng của việc sử dụng tiền bạc cách ích kỷ. Tội của người phú hộ không phải ở trong cách làm giàu hay trong sự giàu có của ông, cũng chẳng phải trong nếp sống kém đạo đức của ông, mà ở một điều đã được mô tả rõ ràng là trong khi ông ta sống xa xỉ ích kỷ, thì có một người thiếu thốn khổ sở ngay trước nhà ông mà không được ông giúp đỡ.

Chúng ta rút tỉa một số dạy dỗ trong dụ ngôn này.

  1. Trước hết dụ ngôn dạy tất cả mọi người đều phải chết, và chết chưa phải là hết vì vẫn còn một đời sống bên kia cửa tử, và đời sống ấy là hậu quả của đời sống này:

Ngay sau khi chết con người được tòa án Thiên Chúa xét xử về đời sống trên trần thế để đáng lãnh thưởng hay bị chịu phạt.

Trên trần gian, của cải vật chất cũng như các đau khổ, đều là tạm bợ, sẽ mau qua, nó chấm dứt với cái chết, và bởi sự chết cũng chấm dứt thời gian thử thách và khả năng làm lành hay làm ác, rồi bắt đầu từ đó vui lòng thưởng công hay chịu đau khổ hình phạt tùy theo hậu quả của đời sống trên trần.

Theo như giáo lý của Giáo Hội: linh hồn của những người chết trong ơn nghĩa Chúa sẽ được lên thiên đàng ngay hay sau một thời gian thanh luyện nếu cần: “Chúng tôi tin có sự sống đời đời. Chúng tôi tin rằng tất cả những người chết trong ơn nghĩa Chúa Kitô, hoặc còn phải thanh luyện trong luyện ngục, hoặc ngay sau khi rời bỏ thân xác, được Chúa Giêsu đem về thiên đàng như người trộm lành, đều là dân Thiên Chúa bên kia cửa tử, tử thần sẽ bị vĩnh viễn chiến bại ngày phục sinh khi các hồn người được kết hợp lại với thể xác”. (Phaolô VI, tuyên xưng đức tin Công Giáo).

  1. Tiếp theo là bài học chính yếu của dụ ngôn, dụ ngôn đề cập đến vấn đề sử dụng ích kỷ của cải trần gian.

Chúng ta cần phác hoạ hai nhân vật trong câu chuyện để thấy được điểm này.

– Trước hết là người giàu. Mỗi câu văn đều làm tăng thêm sức sống sa hoa của ông ta. Ông thường mặc áo tía hồng và áo gai mịn đó là cách nói về hai bộ áo của thầy tế lễ thượng phẩm với giá từ ba mươi đến bốn mươi Anh kim một số tiền khổng lồ, trong khi lương công nhật một người chỉ được bốn xu Anh, ông ta ăn cao lương mỹ vị hàng ngày. Từ ngữ chỉ đồ ăn ở đây dành cho những tay sành điều, chuộng những món ăn đắt tiền và hiếm có. Ông ta ăn như vậy mỗi ngày, tức là chủ ý phạm điều răn của Chúa. Điều răn Chúa không những cấm làm việc trong ngày sabat, mà cũng còn nói “ngươi hãy làm việc trong sáu ngày” (Xh 20,91) trong một xứ mà được ăn thịt mỗi tuần mộ lần và vẫn phải làm việc suốt sáu ngày trong tuần đã là may mắn rồi, thì người nhà giàu này quả là một tên lười biếng, chỉ ăn chơi. Còn Ladarô cứ chờ đợi từng mẩu bánh nhỏ rớt xuống từ bàn tiệc của người nhà giàu. Trong thời Chúa Giêsu, khi ăn không dùng dao, nĩa hay khăn, nhưng dùng tay mà ăn, và trong những nhà giàu có, người ta dùng những mẩu bánh mì nhỏ lau tay cho sạch rồi ném bánh đó. Ladarô chỉ đợi những mẩu bánh này.

– Nhân vật thứ hai là Ladarô. Lạ thay, Ladarô là một nhân vật duy nhất trong truyện ngụ ngôn được nêu tên riêng. Tên đó có nghĩa là “Chúa là sự giúp đỡ của tôi”. Ông là người ăn mày, mình ông đầy ung nhọt. Ông yếu đuối đến nỗi không thể đuổi lũ chó hoang ở đường phố, chúng đem mõm bơ bẩn đến làm khổ ông.

Cảnh tượng thế gian là như vậy, rồi tức khắc biển đổi sang một cảnh khác, khi cả hai bước qua cửa tử, trong đó Ladarô được vinh hiển, còn tên nhà giàu bị gia hình. Tội của người nhà giàu này là tội gì? Ông ta không tống cổ Ladarô ra khỏi cổng nhà, đã không phản đối mà vẫn để cho Ladarô nhận lấy những miếng bánh từ trên bàn của ông ta vất xuống. Ông đã không giơ chân đá Ladarô mỗi khi đi qua, đã không có lòng độc ác với Ladarô kia mà! Tội của ông ta là tội đã không quan tâm đến Ladarô, là kiểu “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”, là chấp nhận Ladarô như một phần của cảnh đời và chỉ đơn giản nghĩ rằng việc Ladarô sống trong đau khổ, đói khát, còn ông ta chìm ngập trong xa hoa sung túc, chỉ là việc tự nhiên không thể tránh khỏi được, như có người đã nói “Không phải vì ông ta đã làm những điều quấy mà bị sa địa ngục, nhưng chính vì ông ta không quan tâm đến các điều lành phải làm nên mới xuống đó”.

Lấy câu chuyện này làm điểm tựa, Đức Gioan Phaolô II đã ban huấn tại sân vận động Yaukee: “Người giàu này bị hình phạt vì ông không quan tâm tới người khác, vì không để ý gì tới Ladarô đang nằm trước cổng nhà ông chờ đợi từng mẩu bánh từ bàn ông ăn rơi xuống. Đức Kitô không bao giờ lên án việc có tài sản, nhưng Người đưa ra những lời nghiêm khắc chống lại những người sử dụng của cải vật chất cách ích kỷ, không chú ý gì tới người khác…

Chúng ta phải luôn luôn nhớ, dụ ngôn người giàu và nghèo này. Câu chuyện đó phải đào tạo lương tâm chúng ta. Đức Kitô đòi buộc ta phải mở rộng lòng với anh chị em sống trong khó nghèo. Với những người giàu, những người khỏe mạnh, những người có được một bảo đảm kinh tế, Chúa đòi buộc phải rộng lòng đối với người nghèo, những người sống trong các nước chưa phát triển”. Nói như thế Đức Thánh Cha cũng chỉ nhắc lại điều mà Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Các giáo phụ và các tiến sĩ của Giáo Hội dạy rằng mọi người có bổn phận nâng đỡ người nghèo và không phải chỉ giúp đỡ bằng của cải dư thừa. Trước con số quá lớn những người đói khổ trong thế giới. Thánh Công Đồng tha thiết kêu gọi mọi người “hãy cho kẻ sắp chết đói của ăn, vì nếu không cho họ ăn là giết chết họ” (MV 69).

Về một phương diện khác, dụ ngôn này về giá trị cao cả của con người, độc lập hoàn toàn với địa vị xã hội, văn hóa tôn giáo, tình trạng giàu nghèo… Lòng kính trọng nhân phẩm này diễn tả việc ta phải giúp đỡ những ai khi gặp cảnh xấu số về tinh thần cũng như vật chất. “Vậy mỗi người phải coi người đồng loại – không trừ ai như “cái tôi thứ hai”, cho nên trước hết phải quan tâm đến sự sống của họ và quan tâm đến những phương tiện cần thiết giúp họ sống một đời sống xứng đáng, chứ đừng bắt chước người giàu có kia đã không săn sóc tới Ladarô bất hạnh” (MV 27).

Tội của người nhà giàu này là ông ta thấy những đau khổ túng cực của thế giới mà không cảm thấy thương xót, buồn rầu, ông ta đã nhìn thấy một người đói khổ và không làm gì để cứu giúp. Hình phạt cho người này là hình phạt của một người đã không hề chú ý, quan tâm đến kẻ khác. Cần phải nhớ lời cảnh cáo đáng sợ ở đây: tội của người giàu ở đây không phải là ông đã làm gì xấu xa nhưng là đã không làm gì cả trước những đau khổ của kẻ khác.

Một thí dụ khác của việc tôn trọng nhân phẩm là phân phối cân bằng tài nguyên thế giới, và những nỗ lực bảo vệ con người, kể cả các thai nhi, như Đức Phaolô đệ lục đã phát biểu trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 4-10-1965: “Chính trong tổ chức của quý vị, mạng sống con người, ngay cả trong vấn đề sinh sản, phải được đặc biệt tôn trọng và được bảo vệ. Nhiệm vụ của quý vị là làm thế nào để có dồi dào cơm bánh trên bàn ăn nhân loại, chứ không phải là cổ võ kiểm soát sinh sản một cách giả tạo và phi lý, nhằm giảm bớt số người tham dự bữa tiệc đời sống”.

  1. Bài học cuối cùng liên quan tới lời yêu cầu của người giàu xin cho anh em ông.

Có thể là vì tình thương mà xin, nhưng cũng rất có thể ngầm bào chữa rằng nếu được soi sáng nhiều hơn, hẳn ông đã không phạm tội đáng buồn như thế.

Có thể có người trong chúng ta cảm thấy khó chịu khi lời ông ta xin cho anh em được cảnh cáo lại bị từ chối. Nhưng sự thật hiển nhiên là nếu người ta đã nắm được chân lý của lời Thiên Chúa, và nếu ở ngay trước mắt họ có kẻ buồn rầu cần an ủi, có kẻ thiếu thốn cần trợ giúp, có kẻ đau khổ cần giúp đỡ, song họ không động lòng và không làm gì hết, thì không còn gì khác để thay đổi lòng họ. Cuộc đối thoại giữa người giàu đau khổ và cụ tổ Ápraham là nổi bật linh động để ghi sâu vào lòng thính giả giáo huấn Chúa dậy qua dụ ngôn. Hỏa ngục là thế giới của ghen ghét, không có chỗ nào cho cảm thương tha nhân, chí có thù ghét ngự trị. Khi Ápraham nói với người giàu: “giữa chúng tôi đây và các con có cả một vực thẳm lớn”. Cụ muốn nói sau khi chết và sống lại thì không còn ăn năn nào nữa. Những kẻ dữ sẽ không ăn năn và đi vào Nước Chúa; người lành không phạm tội và không sa xuống hỏa ngục được, một vực thẳm lớn không thể vượt qua mà!

Chúng ta sẽ hiểu hơn với lời giải thích của thánh Gioan Kim Khẩu: “Tôi xin anh em, quỳ xuống chân anh em mà nài xin, anh em hãy ăn năn, hãy sám hối mà trở về với Chúa, hãy sống tốt lành hơn, trong khi chúng ta còn hưởng được quãng thời gian vắn này, để chúng ta không phải than khóc cách vô ích như người giàu kia khi chúng ta chết, và khi mà những tiếng khóc than chẳng đem lại một an ủi nào. Vì ngay cả khi chúng ta có một người cha, người con, một người bạn hay bất cứ một nhân vật nào đi nữa có thế giá bên cạnh Chúa, không ai có thể giải cứu chúng ta khỏi những hành động của chúng ta, chính chúng ta kết án chúng ta”.

 CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN -C

LIÊN ĐỚI– ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Toàn cầu hóa đã giúp nhân loại phát triển tình liên đới. Nhân loại trở nên một cộng đồng sinh mệnh. Sự an nguy không còn của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Cứu người chính là cứu mình. Vì một thảm họa nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ mau chóng lan tràn khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể thiếu được trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện mà còn là một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh. Biết sống liên đới, nhân loại đang đi vào con đường Phúc Âm.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc đến tình liên đới. Phải liên đới vì mọi người đều là anh em với nhau. Phải liên đới vì đó là điều kiện vào Nước Trời.

Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy điều đó. Có lẽ khi đọc bài dụ ngôn này, có nhiều người bất mãn tự hỏi: “Ông nhà giàu đâu có tội gì mà phải xuống hỏa ngục. Ông không gian tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền của do công sức mồ hôi nước mắt ông làm ra, ông có quyền ăn xài chứ? Giàu có đâu phải là tội?”.

Vâng, giàu có đâu phải là một tội. Tuần trước Chúa Giêsu đã cho ta thấy giá trị tích cực của tiền bạc khi dạy ta hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu để họ đưa ta vào cuộc sống vĩnh cửu. Tiền bạc, nếu biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng nếu không biết sử dụng, sẽ trở thành nguy cơ.

Nguy cơ thứ nhất là: tiền bạc có thể mê hoặc tâm hồn.

Khi đó tiền bạc sẽ trở thành sợi dây trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con chim bị cột, không cất cánh bay cao, bay xa được. Đó là trường hợp chàng thanh niên đạo đức trong Phúc Âm. Anh đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời đời. Anh muốn vươn lên, muốn tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đã ngăn cản bước tiến của anh. Chúa Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đã trói buộc bước chân. Và anh bỏ cuộc quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm thường xưa cũ.

Nguy cơ thứ hai là: tiền bạc dễ làm cho trái tim thành xơ cứng, chai đá.

Người có nhiều tiền bạc dễ rơi vào tình trạng tự mãn. Tự mãn với những gì mình có, người giàu sẽ không cần tới ai khác và vì thế sẽ không chú ý đến những người chung quanh. Đó là trường hợp ông nhà giàu trong bài Phúc Âm hôm nay. Ông có nhà cao cửa rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ mải mê hưởng thụ, ông không có thời giờ nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi thóp bên cửa nhà mà ông không nhìn thấy. Ladarô có rên rỉ vì đau đớn, đói khát ông cũng không nghe thấy. Tự mãn đã khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông thành vô cảm trước những đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu có tiếc gì. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất những mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Ladarô mơ ước được những mẩu bánh dư ăn cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu thành ích kỷ, thiếu tình liên đới.

Nguy cơ lớn nhất mà tiền bạc có thể dẫn tới: đó là làm cho ta mất hạnh phúc đời đời.

Hạnh phúc trên Nước Trời là một cuộc sống hiệp thông trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Tình yêu của Chúa Ba Ngôi là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất cả để nhận lãnh được tất cả. Những người ích kỷ không biết cho đi, không biết chia sẻ, không thể tham dự vào sự sống hiệp thông này. Vì thế, người ích kỷ là người tự chọn con đường xuống hỏa ngục. Kẻ khép cửa lòng trước nỗi khốn cùng của tha nhân, là người tự đào huyệt chôn mình. Người sống thiếu tình liên đới là người tự trục xuất mình ra khỏi Nước Trời.

Bây giờ thì chúng ta hiểu tại sao ông nhà giàu lại bị đày đọa trong hỏa ngục. Ông nhà giàu không có tội gì. Ông chỉ có tội thiếu sót: thiếu sót tình liên đới, thiếu sót sự chia sẻ. Trước đây ông đóng kín cửa để tự ngăn mình với Ladarô. Nay cánh cửa đó biến thành vực sâu thăm thẳm chia cắt hai người. Trước kia ông chỉ cần xoay nắm mở cửa là gặp được Ladarô. Nay ông không tài nào vượt qua được vực thẳm ngăn cách. Trước kia ông nghĩ sẽ không bao giờ cần tới Ladarô. Nay ông biết mình cần Ladarô cho mình một giọt nước thì đã trễ. Tình liên đới nếu không tạo lập ở thế gian, khi chết rồi sẽ không còn cơ hội nữa.

Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng sống với người khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách nhiệm liên đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến những người chung quanh mình. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có được, nhưng phải tập luyện hằng ngày. Phải rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ bất hạnh. Phải rèn luyện một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh em thiếu thốn.

Lạy Chúa, xin mở mắt con để con nhìn thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh con. Xin mở tai con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở trái tim con để con biết chia sẻ với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Tôi có quan tâm đến những người sống chung quanh tôi, đặc biệt những người nghèo khổ không?

2) Đời sống tôi cần đến người khác cả về phương diện tự nhiên lẫn phương diện siêu nhiên. Tôi có ý thức điều đó không?

3) Một đời sống quá đầy đủ có thể là nguy cơ cho đời sống thiêng liêng. Tôi làm cách nào để tránh rơi vào nguy cơ này?

4) Tại sao ông nhà giàu phải vào hỏa ngục?

CHÚA NHẬT XXVI THƯỜNG NIÊN- C

QUAN TÂM PHỤC VỤ NGƯỜI BẤT HẠNH –  Lm. Đan Vinh HHTM

I/.HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện về một ông nhà giàu và người hành khất La-da-rô nghèo khó. Ông nhà giàu thì ăn mặc sung sướng đang khi La-da-rô có cuộc sống rất tồi tệ. Nhưng sau khi cả hai đều chết đã được Thiên Chúa xét xử công bình: La-da-rô thì được an ủi ngồi trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham, đang khi ông nhà giàu phải chịu đau khổ trong hỏa ngục.

CHÚ THÍCH:

– C 19-21: + Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình: Dụ ngôn này lấy từ hình ảnh quen thuộc trong xã hội Do thái có những người giàu sống tách biệt với người nghèo. + Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô: Đối nghịch với hình ảnh người nhà giàu kia là hình ảnh La-da-rô nghèo khó khốn khổ. Anh này làm nghề hành khất, người đầy bệnh hoạn và tứ cố vô thân. La-da-rô hay Ê-lê-a-da-rô nghĩa là “Thiên Chúa giúp”, ý nói anh ta chỉ còn biết trông chờ một mình Thiên Chúa giúp đỡ mà thôi. + Mụn nhọt đầy mình… Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta: trong Kinh thánh, chó bị coi là con vật ghê tởm và dữ tợn (x. Tv 22,17.21; Mt 7,6). Kiểu diễn tả “ước được những mụn bánh” và “chó đến liếm ghẻ chốc” nhằm làm nổi bật cảnh khốn cùng của La-da-rô và sự thờ ơ ích kỷ của ông nhà giàu.

– C 21-24: + Dưới âm phủ: Theo quan niệm của một số giáo phái Do thái: Người chết bị vào trong âm phủ và tạm thời được xếp thành 2 loại: Loại một gồm những người công chính được Chúa an ủi và được ngồi dự tiệc trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham (x. Lc 23,43). Loại hai gồm những kẻ vô tâm bất tín bị lửa hồng thiêu đốt rất đau đớn. Nhưng cả hai đều phải chờ đến ngày tận thế để được phán xét chung. Sau đó kẻ lành sẽ được hưởng hạnh phúc Nước Trời vĩnh viễn và kẻ dữ sẽ bị phạt trong hỏa ngục muôn đời. + Thấy La-da-rô trong lòng tổ phụ: “Ngồi trong lòng tổ phụ” là một chỗ vinh dự trong bữa tiệc do tổ phụ Áp-ra-ham chủ tọa. Sau này trong bữa tiệc ly, Gio-an cũng được vinh dự “tựa đầu vào lòng Đức Giêsu” (Ga 13,23). + “Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin thương xót con”…: Cuộc đối thoại giữa người giàu có với tổ phụ Áp-ra-ham cho thấy số phận của con người ở thế giới bên kia tùy thuộc vào cuộc sống của họ khi còn ở trần gian.

– C 25-26: + “Bây giờ La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ”: Người giàu có bị trừng phạt vì khi còn sống đã không sử dụng của cải theo thánh ý Chúa. Còn người nghèo khó được thưởng vì đã chấp nhận sống tinh thần nghèo khó. Cái chết sẽ làm đảo ngược vị trí của người giàu và kẻ nghèo. Chỉ nhờ ơn Chúa thì những người giàu có mới có thể được cứu độ (X. Lc 18,24-27). Nhưng không phải bất cứ người nghèo nào cũng đương nhiên được hưởng lòng Chúa thương xót. Nếu nghèo mà không có tinh thần siêu thoát đối với tiền bạc của cải, thì số phận của họ cũng sẽ bị diệt vong (x. Lc 12,15; Mt 19,29). + “Giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn”…: Vực thẳm lớn không thể vượt qua, biểu tượng cho tính dứt khoát của số phận của những người được hưởng hạnh phúc hay sẽ phải chịu đau khổ trong thế giới kẻ chết.

– C 27-31: + “Vậy thì con xin tổ phụ sai anh La-da-rô đến nhà cha con”: Ông nhà giàu muốn dùng kinh nghiệm bản thân của mình để cảnh báo những anh chị em đang sống chung dưới cùng một mái nhà của cha ông. + “Chúng đã có ông Mô-sê và các ngôn sứ”…: Sự cảnh báo về việc sử dụng của cải đã hàm chứa trong Luật pháp Mô-sê và Lời Chúa do các ngôn sứ tuyên sấm, đủ thuyết phục họ sửa đổi thói ích kỷ và biết quảng đại nhường cơm sẻ áo cho những người nghèo đói khác. Vì thế nếu những người giàu có đã không hồi tâm sám hối, không phải vì họ đã không có đủ các phương thế giúp ăn năn hối cải, nhưng chỉ vì họ đã cố tình từ chối thi hành các phương thế ấy mà thôi. + “Nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối”: Ở đây ông nhà giàu muốn dùng việc kẻ chết hiện hồn về để đánh động lòng sám hối của các người anh em còn sống. + “Ông Mô-sê và các ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin đâu”: Câu này là cốt tủy của dụ ngôn. Dù lời dạy của Mô-sê và lời các ngôn sứ không phải là những phép lạ và chỉ nhằm để thúc đẩy người ta tin, nhưng đó cũng chính là Lời Chúa phán trong Thánh kinh (x. Lc 24,27.44). Ở nơi khác, Đức Giêsu cũng nói đến sự vô hiệu của các phép lạ (x. Lc 10,13). Người cũng khẳng định các dấu chỉ thiêng liêng có giá trị hơn các phép lạ bên ngòai, khi nói: “Anh em hãy tin vào Thầy” (Ga 14,11.12) và: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29b).

CÂU HỎI: 1) Câu nào diễn tả cảnh khốn cùng của người nghèo khó La-da-rô? 2) Bài Tin mừng hôm nay dựa theo quan niệm của Do thái giáo: chia người chết thành hai lọai người nào? 3) Phải chăng người giàu có ở đời này sẽ đương nhiên chịu hình phạt ở đời sau và người nghèo khó ở đời này đương nhiên sẽ được hưởng hạnh phúc ở đời sau? 4) Câu nào cho thấy tổ phụ Ap-ra-ham không cho phép La-da-rô hiện hồn về để nhắc bảo các anh em của ông nhà giàu? Tại sao?

II/.SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu” (Lc 16,19-20).
  2. CÂU CHUYỆN: PHIM “NHỮNG ĐỨA TRẺ KHỐN KHỔ”:

Một cô gái quê lên tỉnh đi tìm việc làm và đã bị kẻ gian lừa đến chỗ đã mang thai ngoài ý muốn. Sau đó do không thể vừa đi làm vừa nuôi con thơ, cô đành gởi con cho một chủ quán nhà trọ nuôi giúp. Người chủ quán này là kẻ vô lương tâm, đã lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của bà mẹ trẻ để ra sức bòn rút bóc lột: nay hắn đòi phải đưa thêm tiền sữa tăng giá, mai lại đòi tiền thuốc chữa bệnh cho đứa con. Bà mẹ trẻ chỉ còn biết nhịn ăn nhịn tiêu để chi trả những số tiền vượt kế hoạch. Khi không còn gì để trả, chị ta đành phải cắt mái tóc óng mượt đẹp đẽ của mình mang đi bán. Rồi sau đó lại phải nhổ từng cái răng để bán tiếp… và chỉ một thời gian ngắn sau đó chị biến thành một phụ nữ ốm đói quần áo lôi thôi rách rưới, mặt mũi xấu xí và bị mọi người khinh dể xa lánh như một người điên. Sau đó chị bị viên quản đốc thẳng tay đuổi ra khỏi chỗ làm giữa một buổi sáng mùa đông giá lạnh, phải co ro trong chiếc áo rách, vừa đi vừa ôm ngục ho sù sụ… Lần khác chị bị một đám đông hè nhau xô té xuống lề đường và thay nhau hò hét đấm đá… Khi xem phim, có lẽ nhờ đã hiểu biết về hoàn cảnh cùng cực của bà mẹ trẻ khiến nhiều ngừoi chúng ta cảm thương, đang khi do thiếu hiểu biết mà nhiều kẻ đã đang tâm hành hạ chị không chút thương tiếc.

Còn chúng ta thì sao? Có khi nào chúng ta đã làm ngơ trước nỗi đau của tha nhân, thậm chí còn vào hùa với kẻ ác tâm để chế diễu hay hành hạ những kẻ điên loạn nghèo đói gặp phải giữa đời thường hay không?

  1. SUY NIỆM:

1) Thực trạng giàu nghèo trên thế giới hiện nay:

Hiện nay tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển. BIU GHẾT (Bill Gates) giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông thì Liên Hiệp Quốc sẽ có đủ tiền chi cho công cuộc cải cách giáo dục căn bản, phục vụ sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian dài. Hiện nay hố sâu ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo ở các đô thị và giữa đô thị với vùng nông thôn càng lúc càng lớn. Có 800 triệu “La-da-rô” đang lâm cảnh đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ “La-da-rô” đang bệnh tật mà không được thuốc thang chữa trị. Hàng ngày vẫn có bao người bị chết đói, vì không được hưởng những thực phẩm dư thừa từ cac bàn tiệc của những người giàu. Dửng dưng trước sự đau khổ của người khác cũng chính là một tội ác lớn lao.

2) Thế nào là sự giàu có và nghèo khó thực sự?:

Sự giàu có đích thật được đo không phải bởi những thứ người ta thu tích, mà bởi những thứ người ta cho đi. Người giàu đích thật là người biết cho đi, còn người nghèo thật sự là người chỉ biết đón nhận. Người giàu đích thật là người có ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đầy đủ, đang khi người nghèo thật sự lại có quá nhiều nhu cầu nên lúc nào cũng thấy thiếu thốn. Sự giàu đáng giá nhất là giàu có trong tâm hồn. Khi ta đóng cửa lòng mình lại là lúc ta bắt đầu chết. Khi ta mở cửa lòng mình ra là lúc ta bắt đầu sống (McCarthy). Khi chỉ biết tìm kiếm sao cho có thật nhiều tiền, cặp mắt người ta sẽ bị che mờ đến nỗi không còn nhìn thấy Thiên Chúa và tha nhân nữa.

3) Phải tránh thái độ làm ngơ trước nỗi đau của tha nhân: Chính tội làm ngơ của ông nhà giàu đã thành tội nặng khi gây thiệt hại nghiêm trọng khiến La-da-rô bị chết thảm vì đói và bệnh, nên ông nhà giàu đã bị phạt trong hỏa ngục. Như vậy ngoài các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm, còn có thêm tội thiếu sót, không chu toàn bổn phận yêu người, làm ngơ trước những kẻ bất hạnh đang cần đến mình.

4) Phải tập quảng đại: cho đi hơn là nhận lãnh: Ông nhà giàu phải “chịu cực hình” không phải vì giàu có, nhưng vì đã không quảng đại, không biết chia sẻ cho những người đói khát cơm áo tiền bạc dư thừa của mình. Bác sĩ AN-BỚT SUÝT-DƠ (Albert Schweitzer), người đã bán hết gia tài to lớn để xây dựng một bệnh viện để cứu giúp những người cùng khổ ở Châu Phi, đã đặt vấn đề như sau: “Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc khi còn biết bao người khác đang bị đau khổ?”.

5) Phải bắt đầu từ đâu?:

– Phải bắt đầu từ gia đình mình trước: Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta nói: “Tôi luôn nghĩ rằng tình thương phải bắt đầu từ gia đình mình trước, rồi đến khu xóm, đến thành phố. Yêu thương những người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang ở sát cửa nhà mình mới là khó. Tôi không đồng ý với những cách làm ồn ào”.

– Tình thương phải bắt đầu từ một cá nhân: Muốn yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc với người đó, gần gũi với người đó. Mẹ Têrêsa kể tiếp: “Lần kia tôi đi dự một hội nghị ở Bombay về việc cứu giúp những người nghèo. Đến cửa phòng hội, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà, sau đó người ấy chết, chết vì đói. Đang lúc đó bên trong phòng hội, hàng trăm người đang hăng hái bàn luận về nạn đói và về vấn đề lương thực: làm thế nào để có lương thực, để có cái này, để có cái kia… Đang lúc họ vạch ra kế hoạch cho cả 15 năm, thì người này đã phải chết vì đói!”.

-Tích tiểu thành đại: Theo Mẹ Tê-rê-sa: “Tôi không bao giờ nhìn những đám đông như là trách nhiệm của tôi. Tôi chỉ nhìn đến từng cá nhân, bởi vì mỗi lần tôi chỉ yêu thương được một người, mỗi lần tôi chỉ nuôi được một người. Tôi đã đưa một người về nhà, nhưng nếu tôi không đưa một người ấy về nhà thì tôi đã không đưa 42.000 người về nhà. Công việc của tôi chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không góp một giọt nước ấy thì đại dương sẽ thiếu nhiều giọt nước khác”.

6) Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II trong bài giảng lễ Chúa nhật tại vận động trường Yăng-ki (Yankee) Nữu Ước trong chuyến thăm nước Mỹ 1979 đã phát biểu về việc chia sẻ bác ái như sau: “Người nghèo khổ nước Mỹ cũng như trên toàn thế giới đều là anh em của các bạn trong Chúa Ki-tô. Các bạn đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc. Các bạn chỉ nên lo cho mình cái chính yếu của cuộc sống, và đừng tìm sống sung túc, để nhờ đó, các bạn có thể giúp đỡ cụ thể cho những người nghèo khổ. Ngoài ra các bạn còn phải đối xử với họ như những vị khách quí trong gia đình các bạn nữa”.

III/.THẢO LUẬN: 1) Một văn sĩ nổi tiếng đã nói: “Mỗi khẩu súng được chế tạo, mỗi tàu chiến được hoàn thành, mỗi hỏa tiễn được bắn ra… Xét cho cùng, chính là một lần ăn trộm của những kẻ đói khát vì không được nuôi dưỡng, của những kẻ bị lạnh lẽo vì thiếu quần áo che thân!”. Bạn có đồng ý với lời đó hay không? Tại sao? 2) Bạn sẽ làm gì trong những ngày sắp tới để giúp đỡ cách cụ thể cho một cụ già neo đơn, một trẻ em mồ côi hay một bệnh nhân không tiền thuốc thang chữa trị mà bạn quen biết…?

IV/.NGUYỆN CẦU:

Lạy Chúa Giêsu, Xin cho con nhìn thấy những La-da-rô nghèo khó đang ở chung quanh con và đang cần đến sự giúp đỡ của con. Xin cho con nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khó đến với con, để con không xua đuổi, nhưng tiếp đón họ cách thân tình. Cảm tạ Chúa vì đã dựng nên loài người chúng con ai cũng nghèo về một phương diện nào đó, và ai cũng cần đến sự giúp đỡ của người khác… Như vậy chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho hết mọi người đều được nên sung túc giàu có.

*X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

home Mục lục Lưu trữ