Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 68

Tổng truy cập: 1361756

ANH EM CŨNG SẼ SỐNG

ANH EM CŨNG SẼ SỐNG

 

(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Marina Picasso là cháu của họa sĩ nổi tiếng Pablo Picasso. Từ năm 73-75, bà phải chịu nhiều cái tang lớn: ông nội mất, anh ruột tự tử, cha đột ngột qua đời. Đây thật là những mất mát không sao bù đắp, dù bà năm trong tay một gia sản khổng lồ.

Năm 1990, bà nhận các em bé Việt Nam làm con nuôi, và giúp cho các trẻ mồ côi được có nơi ăn học. Từ lúc ấy, bà thấy một sự thay đổi nơi nội tâm: “Nhờ giúp đỡ con em của nước này mà tôi đã tìm lại được chính mình. Giờ đây tôi cảm thấy mình như sống lại, và tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em.”

Hẳn có những Kitô hữu đã trải qua kinh nghiệm của Marina, kinh nghiệm thấy mình được sống lại nhờ biết ra khỏi nỗi đau của mình để cúi xuống trên nỗi đau của người khác. Kinh nghiệm tìm lại được chính mình trong bình an, khi không còn bận tâm lo cho mình nữa, kinh nghiệm thấy sự sống được nhân lên gấp bội khi được đem chia sẻ tận tình.

Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống lại, Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa.

Đức Giêsu phục sinh không chỉ hiện ra một đôi lần, Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế. Một sự hiện diện hai chiều, thâm sâu và mới mẻ: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (c.20) Một sự hiện diện đem lại sức sống dồi dào: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (c.19).

Kitô hữu tự bản chất là người đã được phục sinh, nhờ thông hiệp với Đấng đang sống là Đức Kitô. “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Mùa Phục sinh nhắc ta nhìn lại sự sống nơi mình.

Lắm khi tôi sống èo uột, chỉ vì không dám yêu thương. Bắt đầu yêu thương là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống Chúa bùng lên mạnh mẽ.

Thế giới hôm nay cố làm cho cuộc sống được bảo đảm hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn. Nhưng thế giới hôm nay vẫn đầy nguy hiểm. Mạng sống bi đe dọa bởi chiến tranh, tội ác, đói nghèo... Cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đói khát sự sống đích thực.

Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Kitô, chúng ta có thể trao cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ trong yêu thương.

Gợi Ý Chia Sẻ

1. Để cảm nghiệm được Thiên Chúa, cần phải can đảm sống theo lời Ngài dạy, dù phải từ bỏ và chịu thua thiệt trước mắt. Có khi nào bạn thấy Chúa thật gần gũi, vì bạn đã dám sống cho tha nhân không?

2. Khi tinh thần bạn sa sút vì những nỗi đau riêng tư, bạn thường làm gì để ra khỏisự sa sút đó?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu phục sinh,

Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.

Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.

Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.

Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.

Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

 

2.Hãy ở lại trong Thày

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Chuẩn bị mừng lễ Chúa Giêsu lên trời, Phụng vụ hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: dù Chúa Giêsu có về trời, thì Người vẫn ở với chúng ta như lời Người đã hứa với các môn đệ: “Này đây, Thày ở cùng các con mọi ngày cho đến ngày tận thế”. Người tin vào Chúa sẽ được ở trong Người và Người ở trong lòng họ. Lời mời gọi: “hãy ở trong Thày”, vừa nêu bật vinh dự lớn lao của người tín hữu, vừa đem cho họ sự an ủi đỡ nâng, giữa biết bao bận rộn lo lắng của cuộc sống trần gian. Ở trong Chúa cũng là một điều kiện thiết yếu để trở nên môn đệ đích thực của Người.

“Nếu các con yêu mến Thày, thì hãy giữ lời Thày”. Tuân giữ lời Thày là bằng chứng của tình yêu đối với Chúa. Ai tuân giữ lời Thày sẽ được Thày hiện diện trong tâm hồn người đó. Và, cùng với sự hiện diện của Chúa Giêsu, người tín hữu còn được Chúa Cha và Chúa Thánh Thần ngự trị. Như thế, ngay khi còn sống ở trần gian, họ đã được nếm hưởng hạnh phúc thiên đàng. Bởi lẽ hạnh phúc thiên đàng là gì nếu không phải là được sống trong tình yêu viên mãn của Ba Ngôi Thiên Chúa?

Những ai ở lại trong Chúa sẽ làm được những điều kỳ diệu, nhờ quyền năng và ân sủng Người thông ban. Chúa nhật thứ sáu của mùa Phục sinh nhấn mạnh tới sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội. Thông thường, khi nói đến cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, chúng ta hay dừng lại ở việc diễn tả một cộng đoàn liên đới, chuyên tâm cầu nguyện và siêng năng tham dự lễ bẻ Bánh. Điều này không sai. Tuy vậy, cũng phải nhấn mạnh tới khía cạnh “động” của cộng đoàn này, tức là khía cạnh truyền giáo. Tác giả sách Công vụ Tông đồ cho chúng ta thấy cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi là một cộng đoàn hăng say truyền giáo. Sau khi Chúa Giêsu về trời, các tông đồ vẫn tin rằng Người hiện diện với họ. Nhờ sự hăng say nhiệt huyết của các tông đồ, và số tín hữu tăng thêm nhanh chóng. Bài đọc thứ nhất trong Phụng vụ hôm nay kể lại nỗ lực truyền giáo của một trong số mười hai tông đồ, đó là Philippê. Ông rời Giêrusalem để đến miền Samaria là miền đất dân ngoại. Ông rao giảng Đức Kitô và làm được nhiều phép lạ. Sự hiện diện của Chúa thể hiện qua quyền năng Chúa ban cho các tông đồ, nhờ đó các ông có thể trừ quỷ và các chứng bệnh, y như Chúa Giêsu đã làm trước đó. Việc có nhiều người trở lại là niềm vui chung của các tông đồ, vì vậy ông Gioan và ông Phêrô được cử tới Samaria để chia sẻ niềm vui và đặt tay trên các tín hữu để ban Thánh Thần. Những kết quả truyền giáo đã đạt được chứng minh Chúa Thánh Thần cùng hoạt động trong cộng đoàn tín hữu, như lời hứa của Chúa Giêsu: “Thày sẽ xin Cha, và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi”. Chính sự hiện diện của Chúa Giêsu, với quyền năng của Chúa Thánh Thần, đã làm nên những kết quả kỳ diệu của sứ vụ truyền giáo.

Ngày hôm nay, những thành quả mà Giáo Hội đạt được khi thi hành sứ vụ Chúa Giêsu trao phó, cũng là nhờ sự hiện diện của Người và nhờ tác động của Đấng Phù trợ, tức là Ngôi Ba Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn mọi hoạt động của Giáo Hội, làm cho những hoạt động ấy sinh hoa kết trái. Ngài là hơi thở và là linh hồn của Giáo Hội, nhờ Ngài mà Giáo Hội sinh động, tươi trẻ và vươn lên không ngừng.

Mùa Phục sinh cùng với bầu khí lễ hội tưng bừng đang dần khép lại. Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta, sự hiện diện của Chúa Phục sinh và lòng nhiệt thành loan báo Lời Chúa không dừng lại khi mùa Phục sinh chấm dứt, nhưng mở ra một giai đoạn mới mà ta gọi là “kỷ nguyên của Chúa Thánh Thần”. Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa, là Đấng ban sự sống cho trần gian. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội luôn mang diện mạo tươi trẻ và phù hợp với mọi môi trường xã hội, góp phần thánh hóa trần gian.

Được trang bị bằng sức mạnh của Chúa Thánh Thần, mỗi tín hữu hãy “sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của mình”. Thánh Phêrô khích lệ chúng ta, đồng thời khuyên bảo chúng ta hãy tôn trọng và đối xử hiền hòa với những người đang đi tìm Chân Lý. Sống theo lương tâm trung thực ngay thẳng, hiền hòa nhân ái với mọi người, đó là chứng từ hùng hồn nhất về Đấng Phục sinh. Chứng từ này làm cho những ai đang thành kiến với Giáo Hội cũng cảm thấy được thuyết phục.

“Hãy ở lại trong Thày!” lời mời gọi ấy vang lên mỗi giây mỗi phút trong đời sống chúng ta. Ở trong Chúa, chắc chắc chúng ta sẽ được Ngài che chở đỡ nâng, nhất là khi gặp những gian nan trắc trở trong cuộc đời. Xin Chúa cho mỗi người cảm nhận được sự ngọt ngào khi ở trong Chúa và được Người hiện diện trong tâm hồn.

 

3.Anh em ở trong Thầy - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Trong đoạn Tin mừng ngắn gọn này chất chứa những lời chỉ hành động: yêu mến, ban cho, đến ở với, ở lại với, ở trong, được sống, được ở trong Thầy, được Cha yêu mến, được thấy, được tỏ cho biết. Những hành động đó diễn tả tâm tình gắn bó khăng khít, liên kết chặt chẽ, hiệp thông thâm sâu, hiệp nhất mật thiết nên một trọn vẹn giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần với các môn đệ, với ai yêu mến Thầy, với ai giữ lời Thầy. Sự gắn bó này loại trừ cảnh mồ côi, cô độc, loại trừ mọi xa cách, chia rẽ, vô tri, bất lực, chết chóc.

Sự gắn bó với nhau là một định luật, một nhu cầu khẩn thiết cho đời sống. Trái đất gắn bó với mặt trời theo một định luật bắt nó phải xoay quanh mặt trời 365 ngày 48 phút 46 giây để hoàn thành một vòng tròn bầu dục, lúc nào cũng như lúc nào, không trệch một li, để cho muôn vật trên trái đất sinh sống. Mỗi vật sinh ra, muốn sống, muốn tồn tại, đều phải gắn bó với bố mẹ nó, với nhau, với môi trường, với thiên nhiên...

Muôn vật chỉ cần sống là đủ, nhưng con người sống thôi chưa đủ. Con người sống còn rất cần phải phát triển sự sống. Tình cảm và hiểu biết là hai yếu tố đặc biệt thiết yếu giúp phát triển sự sống con người. Thiếu tình cảm, con người không còn mong muốn, khát khao, mơ ước cao đẹp. Tình cảm là nguồn động lực thúc đẩy con người hành động, phấn chấn, con người hăng hái, say sưa làm việc. Nó làm cho con người vui mừng phấn khởi. Thiếu tình cảm, con người sống buồn tẻ, chán đời, chán chường, vô vọng và tuyệt vọng.

Yếu tố thứ hai giúp phát triển sự sống con người là hiểu biết. Thiếu hiểu biết, con người không còn biết cái gì là hay, là phải, là tốt, là đúng. Tất nhiên sẽ dẫn đến sai lầm, hư hỏng: “mù dắt mù xuống hố”, “nhân bất học, bất tri lý”. Sự hiểu biết giúp con người biết thông cảm, thương mến, tiến bộ, cởi mở đón nhận muôn vàn chân thiện mỹ, muôn vàn giá trị cao đẹp để phát triển cuộc sống mình phong phú đến vô tận.

Không lạ gì trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã trình bầy hết sức tỉ mỉ, cặn kẽ, từng li, từng tí về sự sống vô cùng tuyệt vời của Thiên Chúa. Sự sống tuyệt vời của Thiên Chúa không phải như mặt trời, mặt trăng, trái đất hấp dẫn, lôi cuốn nhau, quay cuồng mù quáng bên ngoài, nhưng là một sự hiệp nhất nội tại, nội tâm, nên một với nhau trọn vẹn trong tình yêu mến thông suốt sinh động tràn lan trên hết thảy vũ trụ vạn vật. Vì thế vũ trụ vạn vật được sống trong nguồn yêu thương sung mãn của Thiên Chúa.

Chúa Con đã thông ban sự sống phong phú đó cho các môn đệ. Các ông đã được sống hiệp thông lạ lùng với Thiên Chúa, ở trong Thiên Chúa, ở lại với Thiên Chúa. Một cuộc sống trong tình thân thiết với Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Nhờ đó anh em được Thiên Chúa yêu mến và yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn. Chỉ có sự sống như vậy mới phát triển sự sống con người đến vô tận.

Bài đọc một cho thấy sự sống của Thiên Chúa, sau bao nhiêu ngàn năm, bị ứ đọng trong dân Do thái, nay đã tràn bờ lan tỏa khắp chư dân. Họ được biết về Chúa Kitô, được thoát khỏi tà thần, được chữa lành tàng tật tê bại. Họ được sức sống mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần biến họ thành dân thánh, thành con cái Chúa Cha, chứ không còn dân ngoại ô uế thù địch nữa.

Bài đọc hai còn cho thấy sự sống của Thiên Chúa là sức mạnh hiền hòa, ngay thẳng, khả ái, kính trọng cả những kẻ chất vấn, phỉ báng. Sức sống đó làm cho kẻ vu khống phải xấu hổ, làm cho ta sẵn sàng chịu khổ vì làm việc lành, làm cho ta theo chân Đức Kitô hy sinh chịu chết cứu kẻ tội lỗi, làm cho ta, dù bị chết, cũng được sống lại cùng với Đức Kitô.

Lạy Thầy Kitô chí nhân chí thánh, Thầy chẳng bao giờ để chúng con mồ côi, cô độc, cứng đọng, Thầy đã cho chúng con được sống yêu mến thân mật, gắn bó trọn vẹn trong Thầy và trong Cha Thầy. Xin cho muôn dân được sống trong tình yêu của Thầy để họ khỏi chia rẽ, hận thù, nhưng được sống thương mến nhau, hiệp thông với Thầy như Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha, Amen.

 

4.Con mắt của trái tim

Một ít nữa thế gian sẽ không còn thấy Thầy, phần các con, các con thấy Thầy.

Chúng ta cảm thấy dường như có một cái gì mâu thuẫn trong lời tuyên bố của Chúa Giêsu. Cùng một sự hiện diện mà người thì thấy còn kẻ khác lại không thấy. Cùng một Chúa Giêsu, mà có người thì xác tín Người vẫn hiện diện, trong khi kẻ khác lại nói: Người thuộc về dĩ vãng và đã qua rồi. Ngay trong cuộc sống hiện tại, chúng ta cũng có thể bắt gặp những trường hợp tương tự. Chẳng hạn một người đã ra đi hay đã chết, nhưng những kẻ còn lại vẫn cảm thấy người ấy đang còn ở đâu đây, thật gần gũi. Một bà mẹ có thể nhìn thấy đứa con bà mới chôn cất nơi từng sự vật, nơi từng căn phòng, nơi từng lối đi. Vậy thì đâu là nguyên nhân tạo nên cái tình cảm tuy xa mà lại gần như thế?

Tôi xin thưa chính tình yêu thương đã tạo nên cái điều lạ lùng ấy. Giữa những người thân thiết, cái chết nơi thân xác không phải là điều quyết định tạo nên sự chia cách, sự vắng mặt. Cái thấy mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây, không còn là cái thấy bằng cặp mắt của thân xác vốn có những giới hạn của nó, mà là cái thấy bằng con tim, bằng yêu thương, bằng cảm thông. Chính vì thế, mà qua đoạn Tin Mừng ngắn ngủi chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại hai chữ yêu mến. Đồng thời hai chữ yêu mến đã trở thành mối quan hệ giữa môn đệ và Thầy mình, cũng như giữa người môn đệ và Thiên Chúa Cha.

Ngoài ra cũng chính tình yêu mến ấy đã đưa tới sự hoà nhập: Các con ở trong Thầy và Thầy ở trong các con. Chính việc thấy bằng cặp mắt của con tim này sẽ giúp chúng ta thấy được cái ý nghĩa, cái vai trò và mối quan hệ mật thiết giữa sự hiện diện của Chúa Giêsu với cuộc đời của người Kitô hữu, điều mà con mắt của thân xác không thể nào nhìn thấy.

Lòng yêu mến không thể không dẫn tới hành động. Người môn đệ yêu mến Thầy cũng có nghĩa là người môn đệ tuân giữ các giới răn, các lệnh truyền của Thầy. Thế nhưng các giới răn và lệnh truyền của Chúa Giêsu không phải là những giới răn, những lệnh truyền cũ của Cựu Ước, cho dù đã được diễn tả bằng những công thức mới, nhưng là chính con người của Người.

Đúng thế, chính Chúa Giêsu và cuộc sống của Người đã trở thành những khuôn mẫu tuyệt vời nhất cho cuộc sống người tín hữu noi theo và bắt chước. Rất nhiều khi chúng ta chỉ dừng lạ nơi những giới răn và những lệnh truyền. Đồng thời những giới răn và những lệnh truyền cũng thường dừng lại ở những cái tối thiểu. Vì thế, việc sống đạo trở thành một bài toán khô khan và nghèo nàn. Người Kitô hữu đích thực phải sống đạo bằng con tim, bằng tình yêu mến. Bởi vì chính tình yêu mến này sẽ giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện thật gần gũi của Chúa Giêsu trong lòng cuộc sống chúng ta.

 

5.Yêu mến Thầy, thì hãy giữ các giới răn

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Khi đến “giờ Chúa Giêsu qua khỏi thế gian này để về cùng Đức Chúa Cha” (Ga 13, 1). Người đã dành cho các môn đệ những lời tâm huyết đầy tình Thầy trò. “Tối hôm trước ngày chịu khổ hình”. Chúng ta dễ hình dung ra thái độ nội tâm và đoán được sự lo lắng của các môn đệ trước giờ Thầy đi chịu chết.

Thực ra, nguyên những lời của Chúa Giêsu đã thể hiện mối lo sợ rồi. Người nói sẽ không để các môn đệ mồ côi, rõ ràng Người gợi lên nỗi buồn Thầy trò phải chia ly.

Câu hỏi đặt ra: ở trung tâm của mùa Phục sinh thật là vui, sao lại gợi lên những giờ đen tối chất chứa nỗi buồn? Trước ngày lễ Ngũ Tuần, nghĩa là trước khi loan báo Tin Mừng cho Muôn Dân, tại sao lại cho chúng ta chứng kiến sự sợ hãi của các môn đệ? Có lẽ vì bản văn giới thiệu Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Vấn nạn vẫn còn đó. Chúng ta hãy cố gắng từng bước theo di ngôn của Chúa Giêsu.

“Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy” (Ga 14, 15). Lời di chúc này thật không đơn giản, có ý nói: các con yêu mến Thầy thế là đủ, vì nếu yêu mến tức khắc giới răn của Thầy sẽ được tuân giữ, có nghĩa là: khi yêu mến Chúa Giêsu, người ta sẽ tuân giữ các giới răn Chúa để lại là yêu mến Người. Có thế hiểu cách khác: nếu các con yêu mến Thầy, điều đó chứng tỏ rằng các con tôn trọng các giới răn Thầy truyền. Tôn trọng các giới răn là thể hiện lòng mến nên tuân giữ.

Lời của Chúa Giêsu nêu lên tương quan giữa các giới răn với tình yêu dành cho mình, nên Người kết luận: “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy” (Ga 14, 21). Và Người cam kết: “Thầy sẽ xin Cha”. Nói thế là Người chịu trách nhiệp về những việc Người làm. Một cách chắc chắn và bảo đảm là; nếu Chúa Giêsu bênh đỡ chúng ta, chúng ta còn sợ hãi gì?

Chúa Giêsu xin Cha điều gì? Người xin Cha “ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác” (Ga 14, 16). Khi nói Đấng Phù Trợ khác, Chúa Giêsu chứng tỏ sự lo lắng bảo vệ các môn đệ, và cho thấy Người là một Đấng Phù Trợ. Đó là lý do tại sao Người nói đến một “Đấng Phù Trợ khác”. Lời cầu xin của Chúa Giêsu còn ngụ ý nói rằng vụ án của Chúa qua đi sẽ tiếp đến một vụ án khác là chính các môn đệ bị kết án vì niềm tin của họ vào Chúa Giêsu bị đóng đinh và sống lại. Chúng ta hãy để ý đến thuật ngữ Đấng Bầu Chữa, Trạng Sư, hay Đấng An Ủi. Trong ngành tư pháp Do thái, vị luật sư hỗ trợ thân chủ của mình và tư vấn, vì khi bào chữa cho thân chủ là lúc luật sư cố gắng bảo vệ chính mình. Điều này ám chỉ về Chúa Thánh Thần. Ngài nâng đỡ các môn đệ trong hành động cũng như lời nói, “Chúa Thánh Thần sẽ dạy các con mọi sự” (Ga 14, 26).

Nhưng làm thế nào để biết được Ngài, đón nhận Ngài hay đơn giản là để thấy được Thần Chân Lý? Khỏi phải lo, vì “thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết được Ngài” (Ga 14, 17). Chúa Giêsu thêm “còn các con, các con biết Ngài” (Ga 14, 17). Vậy là chúng ta an tâm. Nhưng điều đó có giúp chúng ta bám chặt vào Chúa Thánh Thần hơn không? Chưa chắc. Chúng ta biết Ngài là Đấng Phù Trợ và cũng biết rõ Ngài chưa được đón nhận, vì Chúa Giêsu nói về tương lai là sẽ xin Cha: “Người sẽ ban cho các con một Đấng Phù Trợ khác, để Ngài ở với các con luôn mãi” (Ga 14, 16). Tuy nhiên, Chúa Thánh Thần đã được biết đến: “Còn các con, các con biết Ngài, vì Ngài sẽ ở nơi các con và ở trong các con” (Ga 14, 17). Ngài không chỉ được Chúa Cha ban cho chúng ta, mà Ngài còn ở trong chúng ta. Rõ ràng Chúa Giêsu không tự mâu thuẫn và không nói những gì là không thể. Thậm chí còn rất thú vị khi cầu nguyện cùng Cha để xin Cha ban Thánh Thần của Ngài xuống. Ngày Lễ Ngũ Tuần sắp tới sẽ là ngày Chúa Thánh Thần từ Đức Chúa Cha do Chúa Con xin mà đến và chúng ta lãnh nhận qua Chúa Con, lần nữa và một lần nữa.

Các môn đệ sợ bị bỏ rơi, tức là mồ côi. Chúa Giêsu tìm cách giúp các ông an tâm khi nói: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con”. Chúa Giêsu không đến với họ trong tư cách là Cha, vì Người là Con trong mối quan hệ với Cha. Trước lúc chia tay, nỗi lo sợ bao trùm lên các môn đệ, vì họ không biết sống như những người con; họ biết mình mỏng giòn yếu đuối hay lo sợ về bí ẩn của cuộc đời. Nên Chúa Giêsu hứa ban Thần Chân Lý, Đấng làm cho cho họ trở nên những người con. “Trong ngày đó, các con sẽ hiểu biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, và các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con” (Ga 14, 18). Trong ngày đó, là ngày Chúa Thánh Thần xuống trên các ông, ở với và trong các ôn mãi mãi, bằng sự hiện diện vô hình, sự sống làm con được phục hồi. Họ sẽ đón nhận hoa quả ơn cứu độ là Chúa Thánh Thần và họ sẽ nếm trước niềm vui cứu rỗi là làm conThiên Chúa.

Chúa Giêsu kết luận: “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ mến Thầy. Và ai mến Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến, và Thầy sẽ yêu nó, và sẽ tỏ mình ra cho nó” (Ga 14, 21). Chỉ sợ hãi khi tách mình ra khỏi Chúa con và không nhận biết tình yêu của Chúa Cha. Vậy, khi tuân giữ giới răn và lệnh Chúa truyền, các môn đệ được tham dự vào tình nghĩa tử với Chúa Cha. Chính Chúa Cha đến với con người trong Đức Giêsu và khi sai Thánh Thần xuống. Vai trò của Chúa Thánh Thần là giúp các môn đệ trở nên những chứng nhân cho lời Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con nài xin Chúa xin Chúa Cha cử Chúa Thánh Thần đến với chúng con, và ở trên chúng con như đã ở với các môn đệ Chúa, những người sống nhờ Thánh Thần Chúa và vui mừng nhận biết chỉ có Chúa là ơn cứu độ chúng con: chúng con hướng về Chúa Cha và thưa rằng “Abba, Lạy Cha”.

 

6.Thiên Chúa Ở Cùng

Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi. Qua giòng thời gian, chúng ta thấy Thiên Chúa đã thực hiện điều Ngài đã phán hứa là ở cùng nhân loại chúng ta.

Thực vậy, với ông Giôsuê, Ngài phán: Đừng sợ, vì Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Ghiđêon, Ngài bảo: Hỡi người dững cảm, Thiên Chúa ở cùng ngươi. Với Maisen, Ngài nói: Ta luôn ở với ngươi. Với Mẹ Maria, thiên thần loan báo: Thiên Chúa ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn mọi phụ nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Và ngày hôm nay, với các môn đệ, Ngài đã hứa: Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.

Còn chúng ta thì sao? Có lẽ nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta đã than phiền: Nếu Thiên Chúa thực sự hiện diện, thì Ngài ở đâu bây giờ? Tại sao Ngài lại xa cách và dường như lại còn đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước những nhu cầu cần thiết của chúng ta?

Cũng như hai môn đệ trên đường đi Emmaus, Chúa ở bên cạnh chúng ta, nhưng chúng ta lại chẳng nhận ra Ngài. Nhất là trong những giây phút buồn sầu và thất vọng, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa dường như vắng bóng và chẳng đoái hoài đến những lời chúng ta kêu xin. Nhưng thật ra, đó lại là những giây phút Ngài ở gần chúng ta hơn bao giờ hết.

Sau khi đã thoát khỏi một cơn cám dỗ nặng nề, và được Chúa hiện ra, thánh nữ Catarina đã thân thưa với Chúa: Lạy Chúa, giữa lúc con đang phải chiến đấu, thì Chúa ở đâu? Và Chúa đã trả lời: Cha ở trong trái tim con, vì nếu cha không ở bên con để giúp đỡ, thì con đã sa ngã, đã vấp phạm từ lâu.

Sở dĩ chúng ta không nhận ra Ngài là vì chúng ta đã không nhớ đến Ngài. Ngài đứng đó, giơ bàn tay nâng đỡ, mà chúng ta lại cho rằng không và chẳng chạy đến xin Ngài phú trợ. Chúng ta nên nhớ rằng: Ngài đã trao ban cho chúng ta sự tự do, nên Ngài sẽ không bao giờ bắt ép chúng ta, ngay cả với ơn cứu độ, nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn. Có lẽ con mắt đức tin của chúng ta đã khép lại, đề rồi chúng ta không còn nhận ra Ngài.

Nhiều lúc chúng ta quá chú trọng đến bản thân và những nhu cầu của mình, nên khi gặp phải khổ đau và thử thách, chúng ta thường than thân trách phận.

Chúng ta hãy nhớ lại những hậu quả kỳ diệu của ơn Chúa trợ giúp. Các tông đồ đánh cá ở biển hồ Tibêriade, suốt đêm vất vả mà chẳng bắt được một con cá nào, nhưng vâng lời Chúa, các ông đã thả lưới và lập tức các ông có được một mẻ cá ngoài sự mong muốn của mình. Khi gặp phải sóng gió, nhưng với uy quyền của Chúa, thì lập tức sóng liền yên và biển liền lặng. Giữa tiệc cưới tại Cana, mọi người đang lúng túng vì thiếu rượu, Chúa Giêsu đã làm phép lại cho nước lã biến thành rượu ngon. Giữa hoang địa cằn cỗi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, để nuôi sống đám đông dân chúng đang đói mệt. Bà góa thành Naim, cũng như hai chị em Martha và Maria, đang than khóc tuyệt vọng vì người thân yêu của mình không còn nữa, nhưng Chúa đã làm phép lạ cho người đã chết được sống lại, hầu xoa dịu nỗi đớn đau tang tóc.

Chúng ta hôm nay là những người đã bước theo Chúa trên một chặng đường đời, nhưng con đường sắp tới chắc chắn sẽ có những chông gai, những khúc quanh, những triền dốc, chúng ta nên nhớ rằng: Điều đó không quan trọng cho bằng việc ý thức Chúa luôn ở bên cạnh chúng ta. Và một khi đã có Chúa cùng đi, chắc chắn thuyền đời chúng ta sẽ cặp bến hạnh phúc. Có Chúa cùng đi, chúng ta sẽ tìm ra được sức mạnh và ánh sáng, để vượt thắng mọi trở ngại, bởi vì như lời Ngài đã phán: Không có Thầy, các con chẳng làm được gì. Hay như lời Thánh Vịnh: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cùng là uổng công.

 

7.Điều răn Chúa dạy

Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy. Bên cạnh trung tâm huấn luyện của quân đội, có một người giáo dân rất hăng say với việc tông đồ. Anh muốn giới thiệu Tin Mừng Đức Kitô cho hàng ngàn tân binh quân dịch. Thế nhưng các vị chỉ huy lại không cho phép anh được ra vào trung tâm. Bởi đó, anh đã nghĩ ra một sáng kiến truyền giáo thật hay. Anh đặt làm hàng ngàn chiếc gương nhỏ với một giá rẻ. Mặt sau chiếc gương, thay vì hình một cô gái hay một bông hoa, anh cho in những lời Chúa phán trong Phúc Âm. Chẳng hạn: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì sẽ không phải chết”. Bên dưới lời Chúa là hàng chữ chỉ dẫn như sau: “Nếu bạn muốn biết người được Chúa yêu, thì hãy nhìn ở mặt kia”. Thật là tuyệt vời, mỗi quân nhân khi nhìn ngắm mình trong gương, họ sẽ thấy chính bản thân họ là người được Chúa yêu thương.

Mặt sau chiếc gương khác, có in lời Chúa phán quan đoạn Tin Mừng chiều hôm nay: “Ai yêu mến thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy”. Và khi soi gương, những quân nhân sẽ tự hỏi: “Mình đã tuân giữ những giới răn của Chúa để được Chúa yêu thương hay chưa?”

Thực vậy, chúng ta chứng minh tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa bằng sự tuân giữ những điều răn của Ngài bởi vì lề luật của Ngài là những chỉ dẫn yêu thương tuyệt hảo nhất. Chúng nói cho chúng ta biết những gì Thiên Chúa muốn và không muốn. Nhưng đồng thời cũng chỉ cho chúng ta hay đâu là điều tốt lành nhất cho bản thân, gia đình và xã hội.

Chẳng hạn điều răn thứ I: “Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với Đấng Tối Cao đã đành, mà còn giúp chúng ta tránh đi được những mê tín dị đoan và những sự thờ phượng nhảm nhí làm giảm giá trị con người, như thờ con bò, con rắn, thờ tiền tài, danh vọng, lạc thú.

Chẳng hạn điều răn thứ IV: “Hãy hảo kính cha mẹ”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với cha mẹ, là những người đã có công sinh thành dưỡng dục chúng ta đã đành, mà còn nhờ đó đem lại cho gia đình chúng ta một bầu khí hoà thuận, cảm thông và hạnh phúc.

Chẳng hạn điều răn thứ V: “Tôn trọng thân xác và mạng sống của mình cũng như của người khác”. Rồi điều răn thứ VII và thứ X: “Tôn trọng đức công bằng, không được lấy hay giữ của người ta một cách trái phép”. Tất cả những điều răn này không phải chỉ đem lại cho cá nhân một sự bảo đảm an toàn, mà hơn thế nữa còn đem lại cho xã hội một sự ổn định và trật tự.

Và như chúng ta đã nói, bên trên những lợi ích cá nhân, gia đình và xã hội, việc tuân giữ những điều răn của Chúa sẽ là một phương thế giúp chúng ta biểu lộ tình yêu mến và gắn bó của chúng ta đối với Chúa, vì tình yêu mà không có việc làm thì chỉ là một tình yêu chết mà thôi. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã phán dạy chúng ta: Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ những điều răn của Thầy.

 

8.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã xuống thế làm người để cứu độ nhân loại. Sau khi sống cuộc đời ẩn dật ở Nazareth, Ngài bắt đầu cuộc sống công khai. Sứ mạng chính của Ngài là rao giảng Tin mừng. Nhưng Ngài biết thời giờ của Ngài ở thế gian không còn được bao lâu, nên cùng lúc rao giảng Tin Mừng, Ngài đã tuyển chọn một số người mà Kinh thánh gọi là Tông đồ để trao cho họ sứ mạng của Ngài.

Ngài quan tâm số người này một cách đặc biệt. Trước khi chọn họ, Ngài đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa (x. Lc 6,12-16). Sau những giờ rao giảng cho dân chúng, Ngài thường gặp riêng họ để dặn dò, hoặc giải thích thêm những điều mà họ chưa hiểu. Ngài còn dành thời gian để dạy cho họ về những bài học cao quý của người lãnh đạo, nhất là bài học về tinh thần phục vụ. Ngài nói: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10,42-45).

Đặc biệt, trong bữa tiệc ly, Ngài không những “dạy” mà còn “làm gương” cho các ông bằng cử chỉ rửa chân. Sau khi thực hành điều đó, Ngài nói: “Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13,13-15).

Tin mừng hôm nay cũng cho chúng ta biết, tuy Ngài sẽ về lại với Chúa Cha, nhưng “Ngài không để cho các ông mồ côi” (Ga 14,18). Thứ nhất, Ngài sẽ ban Đấng Phù Trợ đến. Đấng Phù Trợ đây là Thần Chân Lý, tức là Chúa Thánh Thần, là Thiên Chúa Ngôi Ba sẽ ở với các Tông đồ và Giáo hội. Thứ hai, tuy Ngài sẽ về với Chúa Cha, không còn hiện diện thực sự như Ngài đã từng hiện diện với các ông trong suốt ba năm qua, nhưng Ngài sẽ ở với các ông, với Giáo hội mỗi ngày cho đến tận thế bằng Lời của Ngài, bằng các Bí tích và bằng sự hiện diện một cách thiêng liêng. Điều này đã được chứng minh bằng những lần hiện ra sau khi Ngài phục sinh.

Nhưng Đức Giêsu đòi hỏi các Tông đồ là phải yêu mến Ngài. Cũng như trước khi trao sứ vụ Tông đồ trưởng cho Phêrô, Ngài đã muốn ông xác nhận về lòng yêu mến (x. Ga 21,15-19). Vì thế, lòng yêu mến hết sức quan trọng. Thánh Augustinô cũng đã từng nói: “cứ yêu rồi muốn làm gì thì làm”. Nhưng làm thế nào để chứng minh được lòng yêu mến? Đức Giêsu cho biết, lòng yêu mến được thể hiện qua việc thực hiện những lệnh truyền của Ngài, Ngài nói: "Nếu các con yêu mến Thầy, thì hãy giữ giới răn Thầy”(Ga 14,15); “Ai nhận các luật Thầy truyền và giữ các luật đó, thì người ấy là kẻ yêu mến Thầy”(Ga 14,21).

Như vậy là đã rõ: Yêu mến Đức Giêsu là tuân giữ các luật của Ngài. Hay nói cách khác, kẻ giữ luật Đức Giêsu mới là kẻ yêu mến Ngài. Luật của Ngài là những giáo huấn được ghi lại trong Thánh Kinh và được lưu truyền qua Thánh truyền. Luật của Ngài được tóm lại trong mười điều răn là mến Chúa yêu người.

Các Tông đồ đã yêu mến Đức Giêsu một cách tuyệt đối và vô vị lợi.  Bởi vì, các ông đã thực hiện trọn vẹn giới răn của Đức Giêsu. Vì lòng yêu mến Chúa vô vị lợi nên các Ngài đã phục vụ tha nhân hết mình và cuối cùng các Ngài đã lấy cái chết để làm chứng cho lòng yêu mến của các Ngài vào Đức Giêsu. Các bài đọc hôm nay chứng minh cho chúng ta  phần nào.

Bài đọc 1, cho chúng ta thấy cách thức các Tông đồ và các thừa tác viên trong hội thánh sơ khai đã thực hiện giới răn của Đức Giêsu, đó là rao giảng, làm phép lạ, trừ quỷ, chữa lành bệnh tật. Sách Công Vụ tường thuật: “Trong những ngày ấy, Philipphê đi xuống một thành thuộc sứ Samaria, rao giảng Ðức Kitô cho họ. Dân chúng chú ý đến những lời Philipphê rao giảng, vì họ cũng nghe biết và xem thấy các phép lạ ngài làm. Quỷ ô uế đã ám nhiều người trong họ, lúc đó kêu lớn tiếng và xuất ra. Nhiều người bất toại và què quặt được chữa lành. Bởi đó cả thành được vui mừng khôn tả”(Cv 8,5-8).  Đồng thời, các Tông đồ còn ban Bí tích Thêm sức cho họ: “Khi các Tông đồ ở Giêrusalem nghe tin Samaria đón nhận lời Thiên Chúa, liền gởi Phêrô và Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ngài cầu nguyện cho họ được nhận lãnh Thánh Thần: vì chưa có ai trong họ được nhận lãnh Thánh Thần, họ mới chỉ được chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ các ngài đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Thánh Thần”(Cv 8,14-17).

Bài đọc II cũng cho chúng ta biết, sau khi thấm nhuần giáo huấn của Thầy Chí Thánh, Thánh Phêrô gửi thư dặn dò các kitô hữu hãy sống niềm tin của mình như thế nào? Đối với Thiên Chúa, Ngài dạy: “Anh em hãy tôn thờ Thiên Chúa trong lòng anh em” (x. 1Pr 3,15). Trước mặt những người lương dân: “hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời thoả mãn cho mọi kẻ hỏi lý do của niềm hy vọng nơi anh em, nhưng phải làm cách hiền từ, kính cẩn, hãy có lương tâm ngay chính, để những kẻ lăng mạ đời sống đạo đức của anh em trong Ðức Kitô, phải hổ thẹn về điều họ gièm pha anh em”(1Pr 3, 15-16). Rồi, Ngài còn nhấn mạnh: “Vì nếu Thiên Chúa muốn, thì thà làm việc thiện mà đau khổ còn hơn là làm điều gian ác”(1Pr 3, 17).

Đó là lòng yêu mến một cách vô vị lợi qua tinh thần giữ luật Chúa của các Tông đồ. Còn đối với mỗi người chúng ta thì sao?

Chúng ta có yêu mến Chúa và yêu tha nhân một cách vô vị lợi không? Hay nói cách khác, chúng ta có tuân giữ luật Chúa, một cách vô vị lợi không? Bởi vì, tình yêu vô vị lợi là tình yêu không so đo tính toán. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu quảng đại, vị tha, cho đi, luôn muốn cho người mình yêu được hạnh phúc. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu chỉ nghĩ đến Chúa đến tha nhân chứ không nghĩ đến mình. Tình yêu vô vị lợi là tình yêu đòi hỏi phải có sự hy sinh. Pierre l’Ermite đã nói: “Nếu biết tình yêu có chân thật hay không, hãy bỏ tình yêu vào máy ép, nếu nó tiết ra chất hy sinh vô vị lợi, đó là tình yêu thật.” Đó chính là tình yêu của Đức Giêsu dành cho nhân loại mà chóp đỉnh của tình yêu này là thí mạng sống cho nhân loại. Chính Ngài đã nói: “Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu của người chết cho người yêu” (Ga 15,13). Đó là tình yêu của Cha Maximiliên Kôlbê, chấp nhận chết thay cho người bạn tù vì anh ta còn vợ trẻ con thơ.

Hay chúng ta đang yêu mến Chúa, yêu thương tha nhân bằng một tình yêu vị lợi? Tức là tình yêu ích kỷ, chỉ nghĩ đến mình, tìm hạnh phúc cho mình chứ không nghĩ đến Chúa, đến tha nhân. Thậm chí có khi coi Chúa, coi tha nhân như là phương tiện để phục vụ cho mình. Thực tế, có rất nhiều người đi đạo nhưng không giữ đạo. Họ chỉ chạy đến với Chúa với Giáo hội khi họ cần cho họ, như khi lãnh nhận bí tích hôn phối, khi đưa xác người thân đến nhà thờ. Có nhiều người nói yêu tha nhân nhưng thực sự chỉ để lợi dụng tha nhân khi cần, vì chưa bao giờ họ muốn cho tha nhân được hạnh phúc.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa, vì trước khi về trời Chúa đã không để chúng con mồ côi nhưng đã ở lại với chúng con bằng nhiều thể nhiều cách. Xin cho chúng con luôn biết yêu mến Chúa bằng việc tuân giữ giới răn và thực hành lời của Chúa. Amen.

home Mục lục Lưu trữ