Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 50
Tổng truy cập: 1362649
ÁNH SÁNG
ÁNH SÁNG
Chúa Giêsu dùng một hình ảnh cụ thể khác để nói về vai trò của các môn đệ: “Các con là ánh sáng cho trần gian”. Ở một chỗ khác, Chúa Giêsu nói về chính Ngài rằng: “Ta là ánh sáng thế gian”. Vậy ai là ánh sáng thế gian, Chúa Giêsu hay các môn đệ?
Điều có vẻ mâu thuẫn này được giải quyết khi Chúa Giêsu nói về chính mình như sau: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. Bao lâu thân xác Ngài còn đang hiện diện nơi trần thế, chính Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng khi cuộc đời trần thế của Ngài không còn nữa, các môn đệ của Ngài phải đóng vai trò ánh sáng thế gian. Vì họ đã được hấp thụ bởi chính nguồn ánh sáng là Đức Kitô, nên phải phản ảnh lại ánh sáng đó.
Xưa kia, có một người đàn ông mua được một hộp nữ trang mà người bán hàng hứa rằng nó sẽ chiếu sáng lóng lánh trong đêm tối. Đêm đó ông đặt hộp nữ trang trên bàn và bật đèn sáng lên xem. Nhưng quá thất vọng vì hộp nữ trang đã không chiếu tỏa ra ánh sáng trong đêm tối như người bán hàng đã hứa. Tình cờ vợ của ông nghe biết được câu chuyện. Ngày hôm sau, bà đặt hộp nữ trang dưới ánh sáng mặt trời, đến tối nó tỏa ra ánh sáng lung linh rực rỡ. Thấy thế bà vợ mới cắt nghĩa cho chồng như sau: “Anh đã quên làm theo những lời hướng dẫn trong cái hộp này: “Hãy đặt tôi dưới ánh mặt trời ban ngày, và ban đêm tôi sẽ chiếu ánh sáng cho bạn”. Hộp nữ trang đó đã không tỏa ra ánh sáng vì nó đã không hấp thụ được ánh mặt trời ban ngày. Nó phải nhận được ánh sáng thì mới phát ra ánh sáng được.
Trong bài đọc thứ 2, thánh Phaolô chỉ cho chúng ta nơi chốn để lấy được năng lực và sản xuất ánh sáng. Đó là từ thập giá của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói rõ ràng là nhiều vị giảng thuyết tài ba đã đến với dân thành Côrintô, kẻ thì dựa trên học vấn lỗi lạc, người thì dựa vào tài hùng biện, ăn nói khéo léo, kẻ khác dựa trên các đức tính cá nhân của họ. Còn ngài, thánh Phaolô đã dựa trên: “Tôi xác định rằng hồi còn ở với anh em, tôi đã không rao giảng điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà chính Ngài đã chịu đóng đinh vào thập giá”.
Ngày chịu phép rửa tội, mỗi người chúng ta đã đón nhận cây nến được đốt lên từ ánh sáng Chúa Kitô. Qua lời hứa của cha mẹ đỡ đầu, chúng ta chấp nhận phản chiếu ánh sáng Chúa Kitô đó bằng chính đời sống Kitô hữu của mình. Ánh sáng của cây nến là biểu tượng của đức tin trong đời sống Kitô hữu.
Sách Giáo lý Công giáo số 1216 xác định rằng: “Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận lấy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”, họ trở nên “con của sự sáng” và chính bãn thân họ là “ánh sáng”.
Công đồng Vatican II khuyên như sau: “Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc âm và thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: “Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời”.
Ước gì trong cuộc đời Kitô hữu, chúng ta ý thức được vai trò làm muối và ánh sáng như lời Chúa dạy trong bài Phúc âm hôm nay. Để chu toàn trách nhiệm này, xin Chúa “thắp sáng lên trong con tình yêu của Chúa”. Nếu không có tình yêu và ân sủng của Chúa, chúng ta chẳng là gì cả.
41.Anh em là muối ướp đời
(Trích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
Kính thưa quý OBACE,
Một vấn đề gây đau đầu cho các nhà quản lý ở Việt nam trong lãnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm, đó là thực phẩm ngày hôm nay được tẩm ướp bằng những hóa chất độc hại gây ung thư cho người tiêu dùng. Nhiều loại thực phẩm trong nước được chế biến vô cùng bẩn, mất vệ sinh, nào là dùng hóa chất để biến thịt thối thành đặc sản, thịt rừng tẩm ướp bằng phân ure, gà vịt chim cút chết biến thành bồ câu và chim sẻ quay. Còn trái cây và các thực phẩm nhập từ biên giới về: nho lê cam táo, chân gà, đuôi bò… đều được ngâm tẩm bằng hóa chất bảo quản, tẩy trắng, để vài tháng không hư. Trong khi đó vì nghèo, vì ham của rẻ ngưởi dân vẫn cứ đổ xô để mua, để bán, các quán nhậu thịt tẩm ướp vẫn đông khách, mặc kệ cho sức khỏe của mình. Không lạ gì ngày nay xuất hiện nhiều thứ bệnh lạ và rất nhiều người ung thư.
Trong những Chúa nhật vừa qua, Chúa nói với mỗi chúng ta qua miệng tiên tri Isai: Ta đã đặt người làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của ta đến tân cùng trái đất, hôm nay Chúa lại dùng một hình ảnh khác để mời gọi chúng ta sống và loan báo Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài cho mọi người và dùng đời sống Kitô hữu để làm cho thế giới nên tốt đẹp hơn, đó là hình ảnh muối: Các con là muối cho đời.
Muối là một loại gia vị tự nhiên rất tốt và rất cần cho cuộc sống và có nhiều công dụng trong nhiều lãnh vực. Thiếu muối trong cơ thể, sẽ dẫn đến tình trạng co giật và bị choáng váng, ngất xỉu. Trong y khoa, từ rất lâu và cho đến hôm nay, nước muối vẫn là chất sát trùng và rửa đồ ăn, rửa vết thương. Trong cuộc sống, muối dùng để làm cho bữa ăn thêm đậm đà ngon miệng hơn, dù có phải kiêng ăn mặn, nhưng vẫn không thể thiếu muối trong các đồ ăn, đặc biệt để giữ cho thực phẩm khỏi hư thối, cá thịt để được lâu, người ta phải dùng đến muối.
Với tính đa dụng và cần thiết của muối trong cuộc sống, mà hôm nay Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta: Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà lạt đi thì lấy gì mà ướp cho mặn lại, Nó đã thành vô dụng, chỉ còn quăng ra ngoaì cho người ta chà đạp lên thôi. Như thế Chúa cũng muốn mỗi chúng ta phải có những đặc tính và mang sự hữu dụng của muối đối với thế giới. Là môn đệ của Đức Kitô, trước hết mỗi chúng ta phải để cho vị mặn của Tin Mừng biến chúng ta thành những thứ muối tốt, muối nguyên chất, muối đủ mặn để ướp giữ bản thân mình, không bị biến chất, không bị thoái hóa, và không bị ôi thối giữa trần gian này. Một khi mang trong mình sự mặn mà yêu thương của Tin Mừng, chúng ta sẽ trở thành người gìn giữ và bảo vệ thế giới này khỏi sự tấn công của các thứ vi trùng vi khuẩn nguy hiểm đó là tội lỗi, là sự ích kỷ và chết chóc.
Là muối cho đời, người Kitô hữu được mời gọi làm cho cuộc sống lạt lẽo tại trần gian này thêm đậm đà yêu thương, thêm hương vị cho đời, để mọi người có thể nhờ sự cống hiến của chúng ta, cuộc sống của họ thêm tốt đẹp hơn, nhờ sự phục vụ vô vị lợi của chúng ta, cuộc sống xã hội thêm hạnh phúc hơn, và nhờ đời sống khiêm nhường và bác ái, quảng đại và thứ tha, cuộc sống của các gia đình sẽ gắn bó với nhau hơn. Nhất là thế giới và con người ngày nay đang bị hủy hoại từ trong tâm hồn bời những tư tưởng trào lưu sai lạc, những phim ảnh xấu, đến sự hủy hoại bên ngoài qua những lối sống buông thả, tự do thác loạn, lối sống cạnh tranh ích kỷ, lối sống duy lợi nhuận… nó đang làm cho con người giảm bớt “phần người” và gia tăng “phần con” và quên phẩm giá của mình là con Thiên Chúa, cao quý hơn mọi loài mọi vật. Vì thế người tín hữu sẽ phải là muối, phải đem vị mặn của Tin Mừng để gìn giữ thế giới này khỏi bị sự phân hủy bới những lối sống đó.
Chúng ta sẽ phải sống và làm thế nào để có thể là thứ muối tốt của Tin Mừng? Thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm đem vị mặn Kitô cho thế giới và ngài căn dặn chúng ta: Khi tôi đến với anh em, tôi không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo Thiên Chúa…ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết (và không nói điều gì khác) ngoài Đức Giêsu chịu đóng đinh. Như thế trong nhiệm vụ làm muối cho đời, chúng ta cũng không thể cậy dựa vào sự tài khéo của bản thân hay tài hùng biện cá nhân, nhưng phải dựa vào Thánh Thần và quyền năng của Thiên Chúa và để cho quyền năng của Thiên Chúa thực hiện nơi những người nghe. Điều đó có nghĩa là chúng ta đem vị mặn là chính Đức Kitô và Tin Mừng của Ngài để Ngài biến đổi và ướp mặn thế giới, chứ chúng ta không ướp thế giới bằng khả năng hay bằng tài khéo của bản thân mình.
Muối đã ra lạt túc là đánh mất bản chất mặn của mình, thì nó thành vô dụng, cũng vậy, người Kitô hữu mà không còn Chúa Kitô, không có Tin Mừng của Ngài trong cuộc đời thì cũng cũng chỉ là những thứ vô dụng, biến chất, chỉ đáng đổ ra ngoài đường cho người khác chà đạp lên mà thôi. Với lời cảnh báo: muối mà không còn vị mặn nữa thì nó thành vô dụng, là lời nhắc cho chúng ta rà soát và đánh giá lại bản thân mình xem trong cuộc sống là người Kitô hữu, trong mọi lãnh vực của cuộc sống xả hội, độ mặn của Tin Mừng trong chúng ta còn bào nhiêu phần trăm? Chúng ta đang là muối ướp cho đời khỏi hư thối, hay mình đã để cho đời ướp lại chúng ta và làm mất vị mặn Kitô trong chúng ta?
Với vai trò là muối, các Ktô hữu sẽ phải là những người chung tay góp sức làm cho Tin Mừng thấm nhập vào trong xã hội và thế giới, trong mọi lãnh vực của cuộc sống, bất cứ nơi nào người tín hữu hiện diện, nơi đó vị mặn của Tin Mừng phải được lan tỏa. Là muối cho đời, chúng ta sẽ phải là những người không chỉ nhắm tới nước trời mai sau, mà còn phải làm cho Nưới Trời hiện diện và biến đổi thế gian này, làm cho chính Chúa Giêsu Kitô được hiện diện trong xã hội và trong tâm hồn của mọi người. Là Kitô hữu, chúng ta không thể giữ riêng Chúa cho mình, mà chúng ta còn phải cảm thấy bị thôi thúc, và thao thức ướp thế giới này bằng giới răn lề luật của Chúa, bằng Tin Mừng yêu thương của Chúa.
Trong thế giới đã có những người từng mơ “bao phủ thế giới này bằng một màu đỏ” hoặc sẽ “quét cà thế giới này bằng một màu sơn”. Tại sao người Kitô hữu lại không dám mơ và cố gắng bao phủ thế giới này bằng Tin Mừng của Đức Kitô?
Chúng ta không dám mơ bao phủ thế giới bằng Tin Mừng, vì phải chăng chúng ta không còn đủ mặn, không còn Tin Mừng của Đức Kitô trong cuộc sống, chúng ta đang bị biến chất, bị nhạt nhòa, bị “đời hóa”. Mang danh là Kitô hữu nhưng nhiều người lại không biết gì nhiều về Đức Giêsu, không thể nói về Tin Mừng của Ngài cho người khác, và vì thế nhiều Kitô hữu bị xô đây, bị hòa tan trong dòng chảy của xã hội, trong các nhóm, các phòng trào tôn giáo khác. Khi gặp những vấn đề trong cuộc sống hoặc khi đối diện với những lý thuyết và tranh luận của xã hội cũng như của các giáo phái, vì không học Tin Mừng, không biết giáo lý, nhiều người đã không thể nói chuyện được với họ, và đành xuôi tay, chấp nhận theo họ.
Các bậc cha mẹ, và các bạn trẻ hãy dùng tình yêu thương trong sáng và tinh thần phục vụ để ướp cho gia đình, cho cuộc đời mình thêm mặn mà, khỏi hư thối bất hạnh đổ vỡ. Nhất là hãy làm cho gia đình, cho cuộc sống của mình luôn có vị mặn của Tin Mừng, hãy đem Chúa Giêsu vào trong mọi sinh hoạt của gia đình, của bạn bè, từ việc làm ăn sinh sống đến những bữa cơm gia đình, đến giờ kinh sánh tối và kể cả những việc riêng tư của mỗi thành viên, hãy mang Chúa theo cùng. Đừng bao giờ ướp gia đình mình và con cái, bạn bè bằng những thứ hóa chất độc hại, đó là chất lười biếng, chất ích kỷ. Đừng bào giờ mang về cho gia đình mình những thứ nhiễm hóa chất độc hại là sự nóng nảy cãi vã, phim ảnh sách báo xấu, sự thù hằn bạo lực, những của làm ăn gian dối mà có… nó là những hóa chất gây ung thư trong tâm hồn các thành viên gia đình.
Xin Chúa giúp chúng ta biết giữ cho cuộc đời mình luôn có vị mặn bằng gắn bó với Chúa, bằng siêng năng học hỏi giáo lý và Tin Mừng, để chúng ta có thể trờ nên muối tốt cho gia đình, xã hội và thế giới hôm nay. Amen.
42.Suy niệm của Lm Gioan M. Cao Vũ Nghi.
Toyohiko Kagawa từ tuổi ấu thơ đã mồ côi cha mẹ. Gia đình một người họ hàng đã nhận bé về nuôi, nhưng đã bị họ đối xử cách tàn tệ. Dầu vậy, Kagawa vẫn nhẫn nhục chịu đựng và đã trở nên một người thành công trong xã hội. Nhưng rồi đau thương một lần nữa lại đến viếng thăm: Ông Kagawa đã mắc phải bệnh phổi, và chỉ còn chờ chết. Một hôm, ông thấy một luồng sáng bao bọc ông và ông cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Liền sau đó, ông đã được chữa lành, không những về phần xác, mà tâm hồn ông cũng được biến đổi. Từ ngày đó, ông đã hiến thân phục vụ những người bần cùng nghèo khó nhất trong xã hội. Ông đã hoàn toàn quên mình phục vụ những con người xấu số này: an ủi, thông cảm, lắng nghe họ; cung cấp đồ ăn áo mặc cho họ. Một thời gian sau, ông bị nhiễm trùng mắt, và vì đó đã bị mù một mắt, nhưng ông vẫn tiếp tục phục vụ cho tới ngày ông từ biệt cõi đời.
Toyohiko Kagawa đã được lãnh nhận ơn Chúa, và ông đã cảm thấy bị thúc bách phải đáp trả bằng cách phục vụ anh chị em đồng loại của mình. Qua tấm gương phục vụ của ông, nhiều người đã tìm được ánh sáng cứu độ và nhận ra tình thương của Thiên Chúa. Toyohiko Kagawa đã là một ngọn đèn sáng Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay.
Hai ngàn năm trước đây, Ngôi Hai Thiên Chúa đã nhập thể làm người, và Ngài là đã là ngọn đèn chiếu giải ánh sáng cứu độ cho những người sống trong tội lỗi, ánh sáng bình an hy vọng cho những người bệnh tật và những người bị xã hội ruồng bỏ, và ánh sáng đức tin cho những người chưa nhận biết Thiên Chúa chân thật. Để ánh sáng cứu độ, bình an và hy vọng của Chúa được tiếp tục chiếu sáng và lan rộng mãi trong trần gian, Chúa đã mời gọi những người đã được ơn Chúa thánh hóa tiếp tay với Chúa. Với các môn đệ, Chúa đã sai họ đi rao giảng tin mừng, chữa lành những người bệnh tật, và giải thoát những người bị quỉ ám (xem Matthêu 10:8); với người Chúa mới chữa khỏi quỉ ám, Chúa dạy"Con hãy về nhà với thân quyến, và loan truyền cho họ biết những gì Thiên Chúa đã làm cho con và đã thương con" (Marcô 5:19); hay ít nữa là như người đàn bà ngoại tình, Chúa đã khuyên bà: "Hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Gioan 8:11). Nhưng cả khi Chúa chưa mời gọi, cũng có người khi được chữa lành, đã cảm thấy bị thúc bách để cao rao danh Chúa, như người được chữa khỏi bệnh cùi (xem Lk 17:15)
Ngày nay, tùy hoàn cảnh và tùy bậc sống của mỗi người, Chúa còn tiếp tục kêu mời mọi Kitô hữu, những người đã được cứu độ nhờ nước Rửa tội, được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Thánh Chúa, và được chữa lành nhờ phép Giải Tội và Xức Dầu, hãy là ánh sáng cho trần gian. Có thể chúng ta được Chúa mời gọi theo gương các vị tử đạo để làm chứng cho Đức Tin trong những nơi Kitô giáo còn đang bị bắt bớ, có thể chúng ta được kêu gọi để như ông Kagawa làm rạng sáng đức Bác Ái Kitô giáo cho thế giới, hay có thể được kêu gọi để đem ánh sáng bình an hy vọng cho những tâm hồn cô đơn trong những viện dưỡng lão, hay những tâm hồn sầu khổ và bệnh tật trong các bệnh viện, và cũng có thể chúng ta được mời gọi để nói về tình thương của Chúa cho những người đang bị đè nặng bởi những khổ đau trong cuộc đời. Lẽ dĩ nhiên, để đáp lại lời mời gọi của Chúa, đòi chúng ta phải có sự cố gắng và phải chấp nhận những khó khăn. Chúng ta có thể như ngọn đèn ẩn náu dưới đáy thùng, sống an phận cho xong kiếp làm người, nhưng vì là những người đã được lãnh nhận, chúng ta có bổn phận để chia sẻ hồng ân Chúa cho anh chị em của chúng ta.
Ước chi mỗi người chúng ta hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi của Chúa, để cùng nhau chúng ta hãy là ngọn đèn dập tắt bóng tối của hận thù, ghen ghét, và bất công trong thế giới, và thay vào đó là ánh sáng bình an và hy vọng của Chúa Kitô.
43.Suy niệm của Nhóm Đồng Hành
Chi Tiết Hay
Muối khi dùng để ướp thực phẩm sẽ giúp cho khỏi bị ung thối, làm tăng thêm hương vị, và tẩy sạch mùi hôi.
Muối cũng được dùng để đốt lửa cho hiệu quả hơn. Thời đó muối còn dùng để giúp cho sự đốt cháy. Ở vài nơi trên thế giới, các thiếu nữ trộn muối vào phân lừa và phân lạc đà và đóng thành từng bánh tròn, phơi khô và dùng để đun lò. Người ta đun lò đất bằng cách chất những bánh phân khô trên một lớp muối. Khi đốt lò, muối sẽ giúp đốt cháy những bánh phân. Khi muối mất vị mặn sẽ không còn giúp đốt cháy nữa và sẽ bị đổ đi. Chúa Giêsu đùng “lò đất” hoặc “đất” để khi mô tả lò đất. Hình ảnh của muối đùng để đốt cháy liên kết với hình ảnh của lửa chiếu sáng thế gian.
Cây đèn trên giá hoặc thành xây trên đồi ám chỉ Jerusalem (và dân cư ngụ trong thành) ở trên núi Sion. Jerusalem được coi là “ngọn đèn của thế gian” (Is 2:2-5, 42:6, 49:6).
Nhiều nhà ở Palestine chỉ có một phòng, cho nên một ngọn đèn có thể làm sáng cả nhà.
Chúa Giêsu nói với tất cả mọi người khi Ngài dùng những chữ như “đời”, “trần gian”, hoặc “mọi người trong nhà.”
Một Điểm Chính
Chúa Giêsu dùng hình ảnh muối và ánh sáng để dạy người Kitô hữu về vai trò của họ giữa thế gian, tức là làm cho những điều tốt lành nhất được xảy đến trong thế gian. Đoạn phúc âm này được ghi chép lại trong thời kỳ các môn đệ đang bị bắt bớ. Tuy nhiên, các ngài vẫn một lòng theo chân Chúa Giêsu mà tham gia vào công cuộc cứu rỗi nhân loại.
Suy Niệm
Những biến cố nào trong đời sống đã cho tôi thấy rằng tôi là muối, là ánh sáng cho thế gian?
Muối và lửa tự nó không có gì đặc sắc cả. Tuy nhiên, khi dùng chung với các thứ khác sẽ làm nổi bật hương vị cũng như đặc tính của các thứ đó. Tôi có những hiệu năng gì như muối và lửa?
Khi làm việc tông đồ, tôi làm để “sáng danh Thiên Chúa” hay để “sáng danh tôi”?
Nếu người ta nhìn vào tôi như ngọn đèn đặt trên giá hay thành xây trên đồi thì tôi phải làm gì để đáp ứng nhu cầu?
44.Suy niệm của Lm Giuse Vũ Thái Hòa
Tất cả chúng ta đều đã có lần nếm một món ăn nhạt nhẽo. Nhưng chỉ cần thêm vài hạt muối, món ăn trở nên đậm đà và dễ ăn. Người Việt chúng ta thường dùng nước mắm để nêm các món ăn. Tuy thế vẫn phải thêm muối, món ăn mới thêm hương vị và mặn mà! Vào thời Chúa Giêsu, muối tượng trưng cho tính hiếu khách. Khách đến nhà thường được tặng bánh mì và muối, biểu hiệu sự tiếp đón nồng hậu.
"Muối đất": ngày xưa, khi khám phá ra phân bón, người ta dùng muối để làm đất trồng thêm phì phiêu. Khi chưa có tủ lạnh, muối còn được dùng để ướp cá, thịt và đồ ăn để giữ được lâu.
Một hình ảnh rất quen thuộc với người Việt Nam chúng ta, đó là đèn dầu. Một căn nhà có đèn sáng báo rằng nhà có người ở, có sự sống. Một người đi lạc trong đêm tối hẳn sẽ rất sung sướng khi thấy có ánh đèn. Ánh đèn này đem lại niềm vui và thu hút mọi người.
Chúa Giêsu sai các môn đệ đến trong thế gian như người ta nêm muối vào thức ăn để thêm hương vị và giữ được lâu. "Các con là sự sáng thế gian". Đây không phải là lời xác nhận sự ưu thế của các môn đệ, nhưng là một công tác truyền giáo: qua đời sống của mình, qua lời nói và hành động, người Kitô hữu được mời gọi làm ánh sáng hy vọng cho những ai đang lần mò trong bóng tối tuyệt vọng, dẫn dắt họ đến với Chúa là Cha của họ và là Cha chung của mọi người. Trong bóng đêm mịt mùng, một ánh lửa nhỏ cũng có thể được nhìn thấy từ xa.
Chúng ta nhận xét thấy Chúa Giêsu không nói: các con hãy cố gắng làm muối đất và trở nên ánh sáng cho thế gian. Nhưng Ngài nói: các con là muối và là ánh sáng bởi vì các con là môn để của ta, vì các con đã lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.
"Các con là sự sáng thế gian". Sự sáng này không phải do chúng ta tạo nên, nhưng phát xuất từ Chúa Kitô: "Ta là sự sáng thế gian" (Ga 8:12). Ngài muốn chúng ta như tấm gương phản chiếu ánh sáng của Ngài cho mọi người và cho mọi nơi. Do đó ánh sáng được chiếu tỏa không phải cho chúng ta được vinh danh, nhưng cho vinh quang của Chúa: "Sự sáng của các con phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những việc lành của các con mà ngợi khen Cha các con trên trời".
Muối đất, sự sáng thế gian: hai hình ảnh nhưng cùng diễn tả một lời mời gọi. Tiên tri Isaia, trong bài đọc 1, đưa ra những phương cách để giữ muối khỏi "lạt" và ngọn đèn luôn chiếu sáng: đó là sống bác ái: chia cơm sẻ bánh cho người nghèo đói, tiếp đón những kẻ bất hạnh vô gia cư, cho quần áo những người không đủ mặc... Khi ấy, "ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày".
Có lẽ nhiều người sẽ tự nhủ: làm sao mình có khả năng và xứng đáng làm muối đất và sự sáng cho mọi người? Nắm muối gồm những hạt muối nhỏ dồn lại: đèn sáng được nhờ những giọt dầu góp lại. Những hạt muối nhỏ đó, những giọt dầu đó là những việc nho nhỏ mà chúng ta thực hiện trong đời sống hằng ngày: những nụ cười, lời nói nhã nhặn, lịch thiệp, những cử chỉ bác ái, khiêm nhường, kiên nhẫn, biết lắng nghe, tha thứ, biết nghĩ đến người khác v...v...
Bài Phúc âm hôm nay nhấn mạnh đến chứng từ của tất cả chúng ta. Nếu chúng ta thương yêu nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, có lẽ chúng ta không cần giảng đạo nhiều, vì chính đời sống, việc làm, việc bác ái của chúng ta sẽ mang lại hương vị cuộc đời cho mọi người và chiếu tỏa trong bóng đêm như ánh sáng ban ngày, giúp đỡ họ, đồng hành với hot đến với Chúa là "nguồn ánh sáng và ơn cứu độ" (Tv 26:1)
45.Nhiệm vụ của người môn đệ
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đọc hôm nay nằm trong Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và nói đến sứ mạng của người môn đệ “trong thế gian”. Bản văn được trực tiếp kết nối với các “Mối Phúc” (5,3-12). Các câu 11-12 nói về bách hại chỉ là những câu nhắc lại c. 10 và chuyển tiếp. Nhưng cụm từ “phúc thay anh em” cho phép ta móc với từ “anh em” ở c. 13. Những người nhận bản văn này không phải là mộthạng tín hữu đặc biệt, nhưng là các môn đệ đã được nói đến ở đầu chương (5,1) và được ngỏ lời trực tiếp ở cc. 11-12. Cộng đoàn Kitô hữu được nhắc nhớ đến bổn phận truyền giáo.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm hai phần:
1) Môn đệ Đức Giêsu là “muối cho đời” (5,13);
2) Môn đệ Đức Giêsu là “ánh sáng cho trần gian” (5,14-16).
3.- Vài điểm chú giải
- anh em là (13): Đức Giêsu nói trực tiếp với các môn đệ Người, để xác định sứ mạng của họ. Đây không phải là mộtgợi ý về mộtchiều hướng nên theo, nhưng là một khẳng định về tư cách, ơn gọi. Cũng có thể thấy cụm từ này có liên với Xh 19,6 (“Còn các ngươi, các ngươi sẽ là mộtvương quốc tư tế cho Ta và mộtdân tộc thánh”). Như Đức Chúa (Yhwh) đã chọn dân Ngài giữa các dân nước và xác định tư cách của họ, Đức Giêsu cũng đã chọn các môn đệ trong loài người và bây giờ xác định sứ mạng cho họ.
- muối cho đời… ánh sáng cho trần gian (13.14): dịch sát là “muối của đất (gê)” và “ánh sáng của thế gian/ trần gian (kosmos)”. Vì “đất” được dùng song song với “trần gian”, nó không có nghĩa là đất bùn, đất bột, đất thịt, nhưng là “trái đất”, tương tự với “trần gian”, “thế gian”. Cả hai từ “đất” và “trần gian” ở đây đều có nghĩa là “toàn thể nhân loại”, tức có mộttầm mức phổ quát.
- để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm (16): Dường như câu này mâu thuẫn với Mt 6,1-18 (nhất là với cc.1-2.5.16)? Thật ra, các bản văn nêu ra hai lý do khác nhau: ở đây lý do là vinh quang của Cha trên trời; trong 6,1-18, lý do là việc chúc tụng ngợi khen cá nhân mà đương sự đi tìm để thỏa mãn tính khoe khoang của mình (x. 6,2-5). Hai bản văn cũng nói đến hai cách thức xử sự khác nhau: ở đây, người môn đệ chỉ đơn giản tỏ mình ra là môn đệ của Đức Kitô, là Kitô hữu; còn ở 6,1-18, Đức Giêsu kết án sự khoe khoang người ta tỏ ra để lôi kéo sự chú ý của người khác.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Mối Phúc cuối cùng liên hệ đến những người bị bách hại vì sống công chính (5,10). Chính Mối Phúc này được Đức Giêsu lấy lại mà ngỏ trực tiếp với các môn đệ, là những người đang ở ngay bên Người, và với đám đông đang nghe Người (5,1): “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (5,11). Đức Giêsu đã loan báo cho các môn đệ biết ngay từ đầu phản ứng tiêu cực của môi trường, nếu họ sống trung thành với Người, nếu họ tìm sự công chính và quy hướng lối sống của họ theo chương trình của Người. Họ phải trả lời thế nào? Ai cũng coi trọng việc mình được chấp nhận và nhìn nhận. Phải chăng các môn đệ phải thích nghi với môi trường của họ, để được môi trường chấp nhận? Phải chăng họ phải giới hạn quan hệ với mộtvòng những người có cùng những ý tưởng như nhau, để khỏi gây mâu thuẫn? Cho họ cũng như cho tất cả các Kitô hữu, hôm nay còn đang thường xuyên bị cám dỗ từ chối chân tính của mình và tìm thích nghi, hoặc bị cám dỗ rút lui vào đàng sau cánh cửa, Đức Giêsu giao cho nhiệm vụ làm muối cho đời và ánh sáng cho trần gian. Nhờ đó, cho dù họ có bị sỉ nhục (5,11), họ vẫn đưa được người ta đến chỗ tôn vinh Chúa Cha trên trời (5,16).
* Môn đệ Đức Giêsu là “muối cho đời” (13)
Khi khẳng định rằng các môn đệ là “muối cho đời”, Đức Giêsu cho hiểu các môn đệ có sứ mạng truyền giáo. Do ơn gọi, họ phải đóng mộtchức năng đối với những người khác tương tự muối đối với các thức ăn (giữ cho khỏi hư thối, làm cho thêm hương vị). Không có muối, thức ăn bị hư thối; không có người Kitô hữu, xã hội thiếu mất mộtsức mạnh thiêng liêng và luân lý có khả năng gìn giữ xã hội khỏi những sự dữ đang muốn xâm nhập vào. Do đó, sự hiện diện của người Kitô hữu không phải là không đáng kể hoặc có hay không cũng vậy. Giống như muối, sự hiện diện của Kitô hữu không thể thay thế. Không ai có thể đứng vào vị trí của họ nếu họ bị suy yếu đi. Tác giả lưu ý và răn đe các Kitô hữu coi chừng kẻo mình trở nên nhạt nhẽo đi. Họ cũng sẽ như muối, khi đã nhạt thì chỉ còn đáng loại bỏ (x. 5,22.29).
* Môn đệ Đức Giêsu là “ánh sáng cho trần gian” (14-16)
Hình ảnh ánh sáng (cc. 14-15) là hình ảnh của Kinh Thánh (x. Xh 3,2; Is 60,19; Is 42,6). Tác giả Gioan gán cho Đức Giêsu chức năng mà ở đây Mt gán cho các môn đệ. Bóng tối, đêm tối, trong Cựu Ước cũng như Tân Ước, là biểu tượng của các thế lực sự ác (x. Mt 8,12; Lc 22,53). Môn đệ Đức Kitô được thông dự vào sự sáng của Thiên Chúa, như Môsê khi xuống núi có mang trên mặt phản ánh vẻ uy hùng của Thiên Chúa (Xh 34,35). Không thể có chuyện Kitô hữu đi qua mà không ai biết; không ai có thể dửng dưng trước ánh huy hoàng thiêng liêng mà Kitô hữu đang tỏa ra. Giống như ánh sáng, Kitô hữu đi vào những nơi sâu thẳm nhất và kín ẩn nhất của trái tim con người và đưa ra ánh sáng những lỗ hổng mà ta gặp trong đó.
Lời khẳng định được minh giải bằng hai hình ảnh (c. 15). “Thành xây trên núi” có thể gợi ý đến Giêrusalem thiên sai, là điểm thu hút tất cả các dân tộc (x. Is 2,2-5; 60,1-2.19-20). Các Kitô hữu tháp vào trong thế gian như mộtnguồn ánh sáng từ đó mọi người có thể nhận được sự nâng đỡ và định hướng. “Thành xây trên núi” nêu bật tính khả thị (thấy được), điểm quy chiếu là chính tư cách của Họi Thánh Đức Kitô cho tất cả mọi người. Hình ảnh này được nhắc lại bằng hình ảnh cái đèn đặt trên đế. Căn phòng trong đó gia đình và bạn bè quy tụ lại trở nên sinh động nhờ ánh sáng của đèn. Hai hình ảnh này cũng có thể được áp dụng cho từng người môn đệ. Do ơn gọi, người môn đệ phải thông chia ánh sáng cho người khác. Họ không được thiếu ánh sáng, và càng không được thiếu trách nhiệm vì không tạo được mộtảnh hưởng tốt nào trong cộng đoàn. Ánh sáng đây không phải là ánh sáng của các lời nói, cũng chẳng phải là ánh sáng của chân lý lý thuyết, nhưng là ánh sáng của “các việc tốt”, như Đức Giêsu đã đề cập đến (4,23-25) và đã làm (5,3-11) và sẽ còn nhắc đến (7,23; 25,31-46) trong các diễn từ của Người.
Khi đó người ta nhận ra rằng những ân huệ người môn đệ đang có phát xuất từ Thiên Chúa; họ sẽ chúc tụng ngợi khen Ngài. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa đòi hỏi con người hành động để tán dương Ngài, khi mà ta thấy là hoạt động cứu độ của Đức Kitô chứng tỏ rằng mọi sự là nhắm mưu ích cho những con cái Thiên Chúa “tuyển chọn” (x. Mt 5,44-48).
+ Kết luận
Từ bản chất của nhiệm vụ được ký thác cho họ, các môn đệ phải là như ánh sáng và muối cho người khác. Bởi vì nhiệm vụ của họ là thúc bách và lôi cuốn, họ phải ở trước mặt người ta, chứ không tránh né. Bởi vì bổn phận của họ là đưa đến mộtcái hoàn toàn mới, họ phải duy trì chân tính của họ, chứ không được tự đồng hóa với môi trường của họ. Chính các “việc tốt” giúp cho môn đệ sống đúng tư cách muối và ánh sáng.
Đời sống của các môn đệ đi theo các huấn thị của Đức Giêsu được coi như là mộtnhiệm vụ lớn. Không ai có thể thay thế họ được; họ phải chịu trách nhiệm về sự kiện trần gian nhận được hương vị và trở thành chan hòa ánh sáng. Xuyên qua đời sống họ, họ phải bày tỏ cách thức hiện hữu của Thiên Chúa, họ phải truyền thông niềm vui của các đứa con với Chúa Cha và chinh phục loài người về cho gia đình Ngài.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Muối tăng thêm hương vị; muối thấm vào thực phẩm để giữ cho khỏi hư thối. Muối hòa tan ra, và được phân phối trong tất cả khối lương thực. Muối có mặt khắp nơi trong khối lượng thực, nhưng muối vẫn là muối, thì mới giữ được giá trị và tính hữu hiệu của mình. Giống như muối, các môn đệ Đức Giêsu phải hiện diện trong môi trường và liên kết với môi trường. Nhưng họ phải cứ là muối, phải bảo toàn được cách cách thức sống của Cha họ (5,48). Muối không phải là mộtviên ngọc, mộtnén bạc phải được cất giữ hoặc đưa ra mà làm cho sinh lãi, nhưng là mộtchất gia vị. Nó sinh tác dụng khi nó chấp nhận “tự hủy” đi, hòa tan vào thực phẩm. Kitô hữu là muối cho đời, bởi vì người ấy không được kêu gọi đi vào mộtcuộc sống tách biệt, xa rời những người khác, nhưng bởi vì người ấy biết tan biến mình đi trong đại gia đình nhân loại để hỗ trợ bất cứ ai cần. Hình ảnh muối chống lại mọi thứ tinh thần phân lập (separatism) kiểu Pharisêu và gợi đến dụ ngôn men vui trong bột (13,23). Kitô hữu không những là người của những người khác, mà còn được gọi sống với những người khác, theo chiều hướng của Đức Kitô (bạn của người tội lỗi và thu thuế: 11,19).
2. Hình ảnh của ánh sáng đi song song với hình ảnh muối, vì ánh sáng cũng ảnh hưởng trên cuộc sống của con người. Không có ánh sáng, thì không thể có sự sống; mọi sự chìm vào trong bóng tối và trở nên hỗn độn (x. St 1,1). Như thế, trách nhiệm của người Kitô hữu là không thể lường được. Nếu sự dữ không lui đi, là vì ánh sáng phải đánh đuổi sự dữ đi lại quá yếu hoặc tệ hại hơn nữa, lại tắt mất rồi!
3. Các môn đệ của Đức Giêsu phải đói khát sự công chính, đói khát lối xử sự công chính (5,6), và đó là mối quan tâm đầu tiên của họ. Cách xử sự này là hình thức căn bản qua đó họ làm chứng về Thiên Chúa Cha. Xuyên qua lối xử sự của họ, các môn đệ phải đưa loài người đến chỗ quan tâm, suy nghĩ và tự hỏi, sao cho cuối cùng loài người cũng hòa với họ trong việc ca ngợi Thiên Chúa. Vậy các môn đệ phải bắt chước cách xử sự của Chúa Cha. Chỉ như thế thì qua lối sống của họ, bản chất của Chúa Cha mới được mạc khải ra và nhận biết. Nhờ những người sống như là con của Ngài, Thiên Chúa muốn được nhìn nhận như là Cha nhân lành và lôi kéo càng ngày càng nhiều người đến với Ngài.
4. Các môn đệ Đức Giêsu phải là mộtđiểm quy chiếu và là ánh sáng, làm cho mỗi sự vật xuất hiện ra trong bộ mặt thật của nó và trong giá trị thật của nó. Do đó, họ phải ở vào mộtvị trí dễ thấy. Kitô hữu không được quên và càng không được cắt đứt sự thông truyền các ân ban mình đang có cho kẻ khác. Họ không được chạy lung tung để tìm người theo phe mình. Họ cũng không được rút lui vào tình trạng vô danh hoặc náu mình vào trong đám đông. Chỉ khi họ có thể thấy được, chứ không đi trốn hoặc đi ngụy trang, thì nhờ họ, Thiên Chúa mới có thể được nhận biết như là Cha nhân lành. Chỉ có lòng nhân ái, lòng tốt, tình yêu, tinh thần phục vụ mới có thể trở thành ánh sáng cho người khác.
5. Môn đệ Đức Kitô phải là mộtngọn đèn đặt trên đế để soi chiếu cho mọi người trong nhà. Ở vào vị trí sao cho người ta thấy được mình thì hoàn toàn khác với việc tìm cách khoe mình (x. 6,1-18) vì những động lực khác. Chúng ta phải cho thấy các việc tốt đã làm không phải để được người ta khen ngợi (6,2), nhưng để cho nhờ ta trung thành sống bản tính con Thiên Chúa trước mắt người khác, Thiên Chúa được khen ngợi (5,16).
46.Chú giải của Noel Quession
Bài giảng trên Núi đã bắt đầu từ Chúa nhật vừa qua bởi các mối Phúc thật sẽ được tiếp tục trong năm Chúa nhật. Matthêu đã tập họp ở đây những lời dạy của Đức Giêsu mà Maccô và Luca đã đặt vào những bối cảnh khác. Đó là dấu chỉ người ta có thể đưa ra những lời giải thích khác nhau. Những lời dạy của Đức Giêsu thường khá mở rộng để đón nhận nhiều ý nghĩa khác nhau.
“Chính anh em là muối cho đời”
Đức Giêsu nói với những người sống theo các mối phúc Người nghèo khó, người hiền lành, người xây dựng Hoà bình, người bị bách hại.. “chính anh em là muối cho Đời. Hình ảnh này gợi cảm và rất cởi mở, có thể đón nhận nhiều ý nghĩa bổ sung. Vào thời của Đức Giêsu, muối dùng để làm cho đất màu mỡ, dĩ nhiên có trộn với phân bón... Như một loại phân bón để mùa màng được tươi tốt. Ngày hôm nay, muối luôn luôn dùng để bảo quản thực phẩm… nó ngăn cản hoặc làm chậm lại sự phân hủy. Nhưng vai trò thông thường nhất của muối là đem lại hương vị: có muối, ngon đấy... không có muối, tất cả thành nhạt nhẽo.
Đức tin dùng để làm gì? Liệu tin vào Đức Giêsu và sống các mối Phúc thật có thay đổi gì không? Đức Giêsu trả lời: “Đem lại hương vị cho đời?”
Con người hiện đại, còn hơn cả con người của các thời đại trước đây bị chìm ngập trong sự tầm thường và buồn chán mỗi ngày: những cử chỉ máy móc và vô vị của công nhân làm việc theo dây chuyền... những khuôn mặt nhợt nhạt dưới ánh sáng đèn những… những đồ vật được tiêu chuẩn hóa 'bằng nhựa dẻo...” sự nhạt nhẽo trong rất nhiều câu chuyện trao đổi thường ngày... sự cào bằng trước những ý thức hệ... Đời sống có còn thú vị gì không? Nếu người ta nói nhiều về “chất lượng đời sống” thì một cách chính xác chẳng phải người ta đã đánh mất chất lượng ấy hay sao?
Chính trong bối cảnh hiện tại này mà NGÀY HÔM NAY Đức Giêsu lại nói với chúng ta: chính anh em là muối cho đời! Anh em hãy đem niềm vui, sự táo bạo, nhiệt tình vào cái tầm thường mỗi ngày. Anh em hãy đem ý nghĩa đến cho những thực tế, thông thường có nguy cơ trở thành nhạt nhẽo. Anh em hãy đặt Nước Thiên Chúa vào trong các thực tế ấy. Anh em hãy thách đố mọi chủ nghĩa vô thần hiện đại đã bắt đầu loại bỏ đi “khả đăng siêu việt”, tức là muối, của nhân loại... để rồi sau đó không ngừng tuyên bố rằng đời sống là “phi lý” và không có ý nghĩa. Với Đức Giêsu mọi sự đâu có thể mang một ý nghĩa, một “hương vị”; dù là sự đau khổ, sự bách hại, cả cái già và cái chết, sự thất bại cũng xây dựng. Một nhà hiền triết đã viết như thế. Rên rỉ để làm gì? Ai sẽ nói giá trị mầu nhiệm và huyền diệu của thử thách đời sống trong sự hiệp thông với Đức Giêsu?
“Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy cái gì muối cho nó mặn lại? nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi”.
Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người phải “chính thống” không trở thành nhạt nhẽo. Một Kitô hữu đã đánh mất “mùi vị Thiên Chúa”, mùi vị đích thực duy nhất sẽ trở thành vô dụng “Tin Mừng chính là muối, và các bạn sẽ làm ra đường từ muối đó”. Paul Claudel đã cao rao như thế.
Đức Giêsu mạnh mẽ cảnh báo chúng ta: sau một thời gian sống quảng đại và ác liệt, đức tin của chúng ta có thể bị biến chất. Động từ mà chúng ta dịch là “nhạt đi” hay biến chất cũng có nghĩa “trở nên mất trí”... đánh mất lương tri trở thành điên đại! Theo nghĩa của Kinh Thánh…nghĩa là đánh mất. sự khôn ngoan mà đức tin vào Thiên Chúa ban cho (Is 19,11). Thánh Phaolô cũng đồng hóa “muối” với “sự khôn ngoan”: “Anh em hãy ăn ở khôn ngoan. Lời nói của anh em phải luôn luôn mặn mà dễ thương” (Cl 4, 5-6).
Nếu chúng ta trở nên quá vô vị, đó là vì chúng ta đã để cho sức mạnh ăn mòn của muối trong Tin Mừng yếu đi trong đời sống chúng ta. Nếu muối nhạt đi.. Tôi phải đối với giả thiết ấy cho tôi và đời sống của riêng tôi. Nếu mọi Kitô hữu không còn là muối nữa thì người ấy trở nên vô dụng, Người Kitô hữu “con tắc kè” chấp nhận mọi phương thức và mọi tâm thức của thế gian, mặc lấy màu sắc của môi trường người ấy sống, và trở nên vô dụng. “Tôi làm như vậy, bởi vì mọi người đều nghĩ như thế... bởi vì khắp mọi nơi, người ta làm như thế”; chúng ta có đánh mất tất cả nhân cách để theo lối sống tiêu thụ và duy vật không kìm chế không? Chúng ta có thủ lợi từ những bất công xã hội không? chúng ta có để cho mình rơi vào thái độ không hành đạo hoặc chủ nghĩa vô thần viện cớ rằng nhiều người làm như thế xung quanh chúng ta?
Đối với những người trở nên vô vị, với những Kitô hữu đang trở thành một chất thải màu sắc, không mùi vị, Đức Giêsu nói: “Anh em phải khác với thế gian, nếu anh em muốn là muối cho thế gian”..
Một yêu sách, đúng vậy. Nhưng trong một sự khiêm nhường cao cả. Không phải vì người ta là Kitô hữu mà người ta tự động là một con người cao siêu. Mỗi người chúng ta điều biết những giới hạn và những tội lỗi của mình. Nhưng thứ muối mà chúng ta phải đem lại cho thế gian không phải là lòng kiêu ngạo của các nhân đức cũng không phải sự cao siêu của chúng ta mà chính là “điều ' Thiên Chúa đã làm trong chúng ta”.
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.
Cách nói bóng bẩy thứ hai này có cùng một hình thức và ý nghĩa như cách nói đầu, nhưng còn cao cả hơn nữa! Phải là “mặt trời” cho thế gian! Không có ánh sáng, sẽ không có màu sắc, vẻ đẹp và sự sống nào cả. Đức Giêsu đã sống trong một xã hội tiền khoa học không biết được nhiều điều, nhưng xã hội ấy gần gũi thiên nhiên hơn chúng ta và cũng hiểu được nhiều điều hơn chúng ta về các thực tại sống. Giờ đây chúng ta, nhờ khoa học mà biết rằng không có ánh sáng, không thể có sự sống. Thật vậy; mặt trời là nguồn gốc duy nhất và cần thiết cho mọi năng lượng tồn tại trên hành tinh chúng ta.
Không có sự quang hợp các chất diệp lục trong cây cỏ thì cũng không thể có bất cứ đời sống sinh vật hoặc con người nào. Không có mặt trời, sẽ không có than đá, dầu hỏa và điện năng... bởi vì không có rừng và thủy triều, mặt trời là một hình ảnh đẹp nhất về Thiên Chúa: suối nguồn của mọi sự sống! Từ khi thế giới được tạo dựng, một ánh sángtràn trề chiếu soi mọi vật. “Hãy có ánh sáng!” (St 1,2)
Đức Chúa là ánh sáng và là sự cứu chuộc của tôi” (Tv 27,1) “Tôi là ánh sáng của thế gian, Đức Giêsu đã nói: “Anh em phải chiếu sáng, như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Trở thành ánh sáng của thế gian quả là một trách nhiệm to lớn.
Bản thân chúng ta rất ít tỏa sáng. Chớ lấy đó mà sinh lòng kiêu ngạo.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng của Chúa. Trong đạo Do Thái, chỉ có Luật của Môsê và Đền Giê-ru-sa-lem mới được gọi là “ánh sáng”. Chúng ta nhận thấy cuộc cách mạng phi thường mà Đức Giêsu định thực hiện? Trước mặt Người là những con người hèn mọn, tật nguyền, bệnh hoạn, những con người đau khổ bởi mọi thứ giày vò (Mt 4,23). Đó không phải là những người đàn ông và đàn bà xuất chúng, nhưng là những, người nghèo khổ, không có văn hóa và cũng không có ảnh hưởng. Những con người không sùng đạo hơn những người khác, với đám đông đó, Đức Giêsu nói: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian!”. Chính họ không phải là “ánh sáng” nhưng họ chỉ để ánh sáng xuyên qua và tỏa sáng qua họ đức tin mà họ có trong Đức Giêsu. Đức Giêsu tạo ra cho Người ý tưởng kỳ diệu về nhân phẩm con người khi người để cho Thiên Chúa phong chức cho mình!
Một thành xây trên núi khống tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ”
Từ bờ Hồ Ti-bê-ri-a, người ta thấy thành Safed, ở trên cao với cao độ hơn một ngàn mét, thành được xây trên những núi nằm ngang của dãy núi Ga-li-lê, chiếu ánh sáng của nó ra xung quanh. Đức Giêsu đã thoáng thấy những căn nhà màu trắng của thành được mặt trời chiếu sáng. Trong căn nhà nhỏ của gia đình, Đức Giêsu cũng thường nhìn thấy Mẹ Người. Đức Maria đốt đèn trong ngày Sa-bát. Một cái đèn khiêm tốn bằng đất nung nhưng đủ để soi sáng “cả nhà” trong gian nhà duy nhất của những nhà người nghèo ở Phương Đông. Hãy soi Sáng Đức Giêsu nói chúng ta hãy soi sáng.
Vấn đề ở đây không phải là sự phô trương của chủ nghĩa đắc thắng, như ngày nay người ta nói. Vì sau đó, Đức Giêsu sẽ khuyên chúng ta: “Khi làm việc lành phúc đức anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy” (Mt 6,1). Không phải chính chúng ta tự tôn giá trị của mình như những cách phô trương của những người Pha-ri-sêu mà Đức Giêsu từng đả kích (Mt 6, 1.6). Chỉ ánh sáng của Thiên Chúa mới có thể soi sáng anh em chúng ta. Nhưng ánh sáng ấy muốn soi sáng thông qua chúng ta. “Quả thật, xưa Thiên Chúa đã phán: ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết vinh quang của Thiên Chúa sáng ngời trên gương mặt Đức Kitô. Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi”. (2 Cr 4, 6-7).
“Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”.
Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của Matthêu. Chúng ta nghe Đức Giêsu nói về “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Đức Giêsu ở đây mạc khải một định hướng và trách nhiệm to lớn của các Kitô hữu trong thế gian là phải trở thành “muối cho thế gian, mặt trời của hoàn vũ… không không phải vì vinh quang của riêng mình. Vinh quang ấy dùng để tôn vinh Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã là một người hoàn toàn tách ra khỏi trung tâm của bản thân mình và hoàn toàn hướng về Chúa Cha. “Tôi không cần người đời tôn vinh”, Đức Giêsu đã nói như thế (Ga 5,41)
Về phần chúng ta là những người tội lỗi, rõ ràng nếu chúng ta có chút gì là “muối” và “ánh sáng”, điều đó chỉ do Chúa Cha mà đến. Nếu bạn mạnh khỏe, vui vẻ, quảng đại và tự nhiên thanh khiết, đó là vinh quang của bạn và càng tốt cho bạn. Nhưng nếu bạn là một người yếu đuối mà Thiên Chúa làm cho mạnh mẽ, một kẻ tội lỗi mà Thiên Chúa cứu độ, một người. Ô uế mà Thiên Chúa không ngừng thanh huyện, một người hay thù oán mà Chúa Cha đã dạy sự tha thứ, một người quan tật sâu xa đến tiền bạc mà Thiên Chúa đã giải thoát khỏi mọi thứ của “cải của mình. Nếu bạn là một trong số những người nghèo, khó ấy, đã thất bại nhiều trong mọi thứ công việc mà vẫn hạnh phúc” bởi niềm vui của các mối phúc thật... lúc đó, trường hợp của bạn có thể làm anh em của bạn quan tâm, bởi vì sự khốn khổ của bạn cũng là của anh em bạn và chính họ, họ cũng có thể hy vọng được cứu chữa. Khi nhìn thấy điều tốt lành mà bạn, một người rất yếu đuối đã làm, họ có thể tôn vinh Cha của bạn, Đấng ngự trên trời.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam