Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 91

Tổng truy cập: 1357612

ÁNH SÁNG PHỤC SINH

ÁNH SÁNG PHỤC SINH

 

Sau khi xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ, các nhà lãnh đạo Do Thái đã đến hỏi Chúa Giêsu: Ông có thể làm một phép lạ nào để chứng minh rằng ông có quyền làm như thế không? Và Chúa Giêsu đã trả lời: Hãy phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại. Thánh Gioan đã ghi chú: Ngôi đền thờ mà Chúa Giêsu nói đến chính là thân xác Ngài. Vì thế khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại, các môn đệ mới nhớ rằng Ngài đã nói như vậy, nên họ tin vào Thánh Kinh và những gì Chúa Giêsu đã nói.

Như thế có nghĩa là ngay cả các môn đệ cũng không hiểu hoàn toàn những điều Ngài nói. Chỉ sau khi Ngài sống lại trong vinh quang, thì những điều ấy mới được sáng tỏ. Nói cách khác, biến cố phục sinh chính là luồng ánh sáng chiếu soi, nhờ đó mà chúng ta hiểu được những biến cố và toàn bộ cuộc đời của Chúa Giêsu.

Thực vậy, khi Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem một cách trọng thể, thánh Gioan cũng đã viết: Lúc đó, các môn đệ không hiểu những điều ấy, nhưng khi Ngài sống lại trong vinh quang, họ mới nhớ lại rằng Thánh Kinh đã nói những điều đó về Ngài. Rồi khi Ngài biến hình trên đỉnh Taborê, lúc xuống núi Ngài đã căn dặn các ông không được tiết lộ cho bất kỳ ai biết những việc xảy ra cho đến khi Ngài từ trong kẻ chết sống lại. Phúc Âm đã ghi chú: Các ông tuân giữ lời căn dặn ấy, nhưng vẫn thắc mắc: từ trong kẻ chết sống lại có ý nghĩa gì? Tất cả những điều vừa trình bày có phần nào giống với công việc của người thợ rửa hình. Anh ta rọi phim xuống tấm giấy. Lúc bấy giờ chỉ là tấm giấy trắng, không hình ảnh, không màu sắc. Thế nhưng sau đó, anh ta đem ngâm tấm giấy đã được rọi vào thau đựng thuốc: Thế là hình ảnh và màu sắc bắt đầu hiện lên trên tấm giấy ấy. Cũng thế, những biến cố của cuộc đời Chúa Giêsu, mới đầu không có gì đặc biệt. Nhưng sau biến cố phục sinh, ý nghĩa sâu xa của nó mới bắt đầu xuất hiện.

Từ đó chúng ta hãy nhìn cuộc đời chúng ta qua ánh sáng của sự phục sinh. Đúng thế, nếu không có sự phục sinh thì đời sống của chúng ta chỉ là một mớ hỗn mang, một chùm những sự kiện vô nghĩa, nếu không muốn nói là phi lý. Bởi vì người giàu và kẻ nghèo, người đạo đức thánh thiện và kẻ gian ác bất lương rồi cũng sẽ bằng nhau trước cái chết. Nếu không có ánh sáng của sự phục sinh, thì chết là hết, là trở về với hư vô và cát bụi. Thế nhưng, với ánh sáng của sự phụng sự, thì tất cả đều chuyển biến, tất cả đều đổi thay, tất cả đều mang một giá trị và ý nghĩa. Đúng thế, nếu như cuộc đời tôi chất đầy những đắng cay và chua xót, thì không có nghĩa là tôi đã thất bại, bởi vì nếu tôi biết thánh hoá, biết chấp nhận những đắng cay chua xót ấy vì lòng yêu mến Chúa, thì rồi mai ngày tôi sẽ sống lại và được Chúa ân thưởng niềm hạnh phúc Nước Trời. Dưới ánh sáng của sự phục sinh thì dù cuộc sống hiện tại của chúng ta có vắn vỏi, có buồn phiền, thì mãi mãi vẫn là một kho tàng quý giá, bởi vì nhờ nó mà chúng ta có thể chiếm được sự sống đời đời, cũng như nhờ nó chúng ta có thể lãnh nhận niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

 

8.Chúa Nhật 3 Mùa Chay

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại câu chuyện Đức Giêsu đánh đuổi những người buôn bán ra khỏi sân đền thờ Giê-ru-sa-lem. Lý do Ngài làm như vậy là vì: Đền thờ là nơi tôn nghiêm, Đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự trự, Đền thờ là nơi dành để dân thập phương qui tụ lại để cầu nguyện và dâng tiến lễ vật cho Thiên Chúa nhưng người Do thái đã biến thành nơi buôn bán.

Thật vậy, từ thời Cựu ước, dân Thiên Chúa đã đặt niềm tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Đền Thờ. Niềm tin đó dựa vào những sự kiện sau đây:

Sự kiện thứ nhất là giấc mơ của tổ phụ Gia-cóp tại Bết Ên: Sau khi ra khỏi Bơ-e Se-va và đi về Kha-ran, Gia-cóp đến một nơi kia và nghỉ đêm tại đó vì mặt trời đã lặn. Gia-cóp lấy một hòn đá để gối đầu và nằm ngủ ở đó. Gia-cóp chiêm bao thấy một chiếc thang dựng dưới đất, đầu thang chạm tới trời, trên đó có các sứ thần của Thiên Chúa lên lên xuống xuống. Thiên Chúa đứng bên trên thang và hứa với ông nhiều điều: ban đất cho ông, dòng dõi ông đông đúc như sao trên trời, sẽ ở với ông, gìn giữ ông…(x. St 28, 10-22). Sau giấc mơ, tổ phụ Gia-cóp đã thốt lên rằng: “Quả thật, có ĐỨC CHÚA ở nơi này mà tôi không biết!”; “Nơi này đáng sợ thay! Đây là nhà của Thiên Chúa, là cửa trời, chứ không phải là gì khác.”;

Sự kiện thứ hai là Nhà xếp: Sau khi giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ Ai-cập, ông Mô-sê được lệnh bởi trời dựng Nhà xếp tức là thánh đường di động để dành riêng cho Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn luôn hiện diện trong Nhà xếp để đồng hành với dân Người. Cho nên, ông Mô-sê mới khẳng định rằng: “Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người?” (Đnl 4,7);

Sự kiện thứ ba diễn ra tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem: Khi Sa-lo-mon vừa cung hiến thánh đường Giê-ru-sa-lem mà ông đã xây xong, ông truyền đem Hòm bia giao ước vào Đền thờ thì có áng mây sà xuống bao phủ nơi cực thánh, hình ảnh đó là dấu chỉ Thiên Chúa ngự xuống giữa dân Người (x. 1V 8,10-11).

Tuy nhiên, Bết Ên, Nhà xếp hay Đền thờ Giê-ru-sa-lem chỉ là hình bóng của Nhà thờ (Thánh đường) công giáo ngày nay. Người công giáo tin tưởng có Chúa ngự thật trong Nhà thờ. Vì nơi Nhà thờ đã được làm phép hay cung hiến luôn có cất giữ Thánh Thể, tức là có Đức Giêsu hiện diện cả nhân tính lẫn thần tính.

Vì sự hiện diện của Chúa nơi Nhà thờ nên người giáo giáo luôn gắn bó với Nhờ thờ. Hầu hết các sinh hoạt quan trọng trong cuộc đời của người công giáo đều diễn ra tại Nhà thờ: Khi mới sinh ra, chúng ta được cha mẹ đem đến Nhà thờ để lãnh nhận Bí tích Rửa tội, trở thành con cái Thiên Chúa. Khi đến tuổi khôn, chúng ta được học giáo lý và lãnh nhận Bí tích Giao hòa cũng tại Nhà thờ. Sau khi lãnh nhận Bí tích Giao hòa lần đầu chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Từ đó, chúng ta có thể đến Nhà thờ hằng ngày để tham dự thánh lễ Misa và lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Khi đến tuổi trưởng thành, chúng ta được lãnh nhận Bí tích Thêm sức với đầy đủ bảy ơn cả của Chúa Thánh Thần cũng tại nhà thờ. Các anh chị đến tuổi lập gia đình cũng đem nhau đến nhà thờ để thề nguyền chu toàn các bổn phận vợ chồng, cha mẹ trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh. Những người sống đời dâng hiến được cam kết với Chúa và Giáo hội bằng một nghi thức truyền chức hay khấn dòng cũng được diễn ra tại Nhà thờ. Khi kết thúc cuộc đời trần thế, mỗi người công giáo cũng được đem đến Nhà thờ để được linh mục dâng thánh lễ và cử hành các nghi thức sau hết.

Ngoài ra, Nhà thờ là nơi người công giáo có thể đến để thi hành những nhiệm vụ khác liên quan đến phần rỗi đời đời, đó là việc thờ phượng Thiên Chúa. Thờ phượng Thiên Chúa không chỉ mang tính riêng tư mà còn mang tính tập thể, cộng đoàn. Vì Nhà thờ là nơi thích hợp nhất để cầu kinh, ca hát, xin ơn, cảm tạ, chúc tụng Thiên Chúa. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được bồi dưỡng bởi ơn trên bằng việc cầu nguyện và lãnh nhận các Bí tích. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được nghe Lời Chúa, được nghe giảng dạy để mọi người hiểu đúng giáo lý và sống tốt bổn phận của mình. Vì Nhà thờ là nơi chúng ta được sống hiệp thông với Thiên Chúa và liên kết với mọi thành viên trong cộng đoàn xứ đạo và trong Giáo hội.

Chính vì Nhà thờ là nhà của Chúa, là nơi Chúa ngự và là nơi diễn ra các sinh hoạt quan trọng trong cuộc đời người kitô hữu nên Nhà thờ rất cần thiết. Thông thường, mỗi giáo xứ, giáo họ đều có một Nhà thờ hay nhà nguyện. Nhà thờ hay nhà nguyện thường được xây dựng nên bởi công sức của mọi thành phần trong giáo xứ. Người công giáo thường rất quảng đại trong việc đóng góp công của để xây dựng Nhà thờ. Không những nhiệt tình khi xây dựng mà họ còn ra sức bảo vệ Nhà thờ có khi bất chấp cả tính mạng. Đúng như thánh vịnh: “Lòng nhiệt thành lo việc nhà Chúa làm hao tổn thân tôi” (Tv 68.10).

Tuy nhiên, trong thực tế không phải ai cũng có tinh thần đóng góp công của để xây dựng Nhà thờ hay nhiệt thành trong việc bảo vệ Nhà thờ. Đó là điều mà mỗi người công giáo chúng ta phải xét mình lại. Nếu ngày hôm nay, Đức Giêsu đến một số các Nhà thờ công giáo chắc chắn Ngài cũng sẽ nỗi nóng và xua đuổi nhiều người ra khỏi Nhà thờ hay khuôn viên Nhà thờ. Đó là thái độ của những người xả rác bừa bãi trong khuôn viên hay thậm chí trong Nhà thờ. Đó là thái độ của những người cố tình ngồi ngoài nhà thờ để tham dự thánh lễ trong khi bên trong nhà thờ vẫn còn nhiều chỗ. Đó là thái độ thiếu tôn kính của nhiều người khi vào Nhà thờ: đứng ngồi không ngay ngắn, nói chuyện riêng, nghe điện thoại, quay fim chụp hình và làm những việc riêng khác đang khi tham dự thánh lễ. Đó là chưa nói tới hiện tượng phá nhà thờ bởi các nhà chức trách tại một số nước thiếu tự do tôn giáo đây đó trên thế giới như tại Trung quốc.

Trên đây, chúng ta đề cập đến ngôi Nhà thờ vật chất. Nhưng có một Đền thờ quan trọng hơn Nhà thờ vật chất rất nhiều đó là tâm hồn của mỗi người chúng ta. Tất cả các Nhà thờ vật chất được xây dựng nên đều nhằm mục đích giúp ích cho đền thờ tâm hồn. Thật vậy, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, mỗi người chúng ta trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô nói: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao?”(1Cr 3,16). Tuy nhiên, cũng như nhiều Nhà thờ bị tàn phá bởi con người, nhiều Đền thờ tâm hồn cũng đang bị tục hóa trở thành nơi tôn thờ Ma quỷ. Đó là những người ham mê tiền của nên tham ô, tham nhũng, chiếm đoạt tài sản của người khác. Đó là những người tham quyền, nên bất chấp mọi thủ đoạn kể cả giết người để đạt được mục đích. Đó là những người ham mê sắc dục nên đã bán rẻ thân xác của mình cũng như làm hại thân xác của tha nhân. Và nhiều hình thức khác tương tự đang làm tục hóa Đền thờ của rất nhiều tâm hồn.

Chính vì thế, mỗi người chúng ta hãy tự xét mình để quyết tâm gìn giữ Đền thờ tâm hồn bằng cách giữ gìn thân xác sạch sẽ và tâm hồn sạch tội, nhất là tội trọng. Vì khi phạm tội trọng tức là chúng ta đuổi Thiên Chúa ra khỏi tâm hồn mà rước Ma quỷ vào. Để bảo vệ đền thờ tâm hồn cần phải tuân giữ lề luật của Thiên Chúa, đó là Mười điều răn, Cựu ước gọi là “Thập Giới”. Đó là điều mà Thiên Chúa đã ban bố cho Môi-sê và ông đã truyền lại cho dân chúng rằng: “Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta. Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt. Ngươi hãy nhớ thánh hoá ngày Sabbat. Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người; chớ phạm tội ngoại tình; chớ trộm cắp; chớ làm chứng dối hại anh em mình; chớ tham lam nhà của kẻ khác; chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.” (x. Xh 20, 1-3. 7-8. 12-17).

Xin cho tất cả mỗi người chúng ta luôn biết đóng góp công của xây dựng, tu sửa và bảo vệ Nhà thờ vật chất. Đồng thời, xin cho mỗi người chúng ta luôn biết tôn trọng tâm hồn của mình là Đền thờ của Thiên Chúa bằng cách năng đến Nhà thờ cầu nguyện, tham dự thánh lễ và lãnh nhận các Bí tích. Amen.

 

9.Yếu tố con người.

Paganini là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng của Ý vào thế kỷ XIX. Trong một cuộc trình diễn, ông linh cảm như có một điều gì bất ổn và khi nhìn kỹ cây đàn, ông khám phá ra đó không phải là cây đàn quen thuộc đã từng đưa ông lên đài danh vọng. Ông đứng lặng trong giây lát, rồi lên tiếng: Vì lý do kỹ thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong giây lát, vì tôi đã cầm lộn cây đàn. Nói xong, ông vào hậu trường bước thẳng đến nơi ông vẫn để cây đàn quen thuộc. Ông bàng hoàng nhận ra có người đã đánh cắp cây đàn quý giá của ông và đã đặt một cây đàn rẻ tiền thay thế vào đó. Trong lúc còn bàng hoàng thì bỗng một ý tưởng loé lên trong đầu, khiến ông mạnh dạn cầm lại cây đàn rẻ tiền kia mà bước ra sân khấu. Ông nói vơi khán giả: Kính thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng trong buổi trình diễn này tôi muốn chứng minh cùng quý vị là vẻ đẹp và nét tinh tuý của âm nhạc không nằm trong nhạc khí, nhưng hàm ẩn nơi chính con người của nhạc sĩ. Phải yếu tố con người mới là quan trọng.

Từ câu chuyện này chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta thấy Chúa Giêsu xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ, vì họ đã biến đền thờ, nơi cầu nguyện thành một chốn buôn bán, thành một hang ổ trộm cướp. Và những người Do Thái đã vặn hỏi: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy? Chúa Giêsu đã trả lời: Các ông cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại. Và Phúc âm đã ghi nhận: Đền thờ Ngài muốn nói đến ở đây chính là thân xác Ngài. Lần khác, bên bờ giếng Giacóp, Ngài đã nói với người phụ nữ Samaria: Không phải thờ phương Thiên Chúa ở núi này hay núi nọ, mà phải thờ phượng trong tinh thần và chân lý.

Với những lời xác quyết trên, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đặt nặng yếu tố con người. Con người với thân xác và tâm hồn chính là một đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị, chính là một nhạc sĩ làm vang lên muôn cùng điệu chúc tụng Thiên Chúa. Thực vậy, nhờ bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta trở thành ngôi đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa. Chính vì thế, chúng ta phải gìn giữ tâm hồn chúng ta khỏi mọi dấu vết của tội lỗi, để xứng đáng làm đền thờ của Ngài. Mặc dầu bên ngoài chúng ta nghèo túng, ốm đau, hay gặp phải những điều bất hạnh, thì trong thẳm sâu cõi lòng, trong ngôi đền thờ thiêng liêng ấy, luôn vang lên những lời ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa.

Thế nhưng, nếu lúc này Chúa Giêsu cũng đến và viếng thăm chúng ta, liệu Ngài có nhận ra tâm hồn chúng ta là một nơi cư ngụ lý tưởng cho Ngài hay là bằng những hành động tội lỗi, chúng ta đã biến tâm hồn chúng ta thành một hang ổ trộm cướp?

 

10.Đền thờ.

Những người quản lý đền thờ, lúc ban đầu, có thể đã tổ chức bán chiên bò, chim bồ câu, hay đổi tiền đổi bạc với tinh thần phục vụ, với ý hướng ngay lành là để giúp cho người lên đền thờ có sẵn lễ vật, khỏi phải mang theo từ xa. Cũng là một thứ dịch vụ, thế nhưng đồng tiền lại là một cái dốc, có thể nói được là êm ả và người ta cũng có thể bị tuột trên cái dốc này một cách êm ả không hay biết.

Có biết bao nhiêu việc khởi đầu là phục vụ, là cứu trợ, là bác ái, là từ thiện, là tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn, cho xã hội. Nhưng rồi theo hơi men của đồng tiền đã biến thành chuyện kinh tài thuần tuý, chạy theo lợi nhuận, mưu cầu địa vị, thanh danh hay quyền lực riêng cho mình. Lợi nhuận sẽ kéo theo gian dối, chèn ép, bất hoà và bất công.

Và như chúng ta đã thấy, đền thờ, mặc dù vẫn được coi là nơi thiêng liêng, nơi để con người hướng tâm hồn lên trên những cái quen được gọi là trần tục, chóng qua, nơi giúp con người tìm gặp cái vô giá, cũng có thể biến thành chợ búa, thành hang trộm cướp, nơi người ta cãi cọ nhau, giành giật nhau.

Trước cảnh tượng như vậy, cùng với lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa, Ngài đã lấy dây thừng làm roi để xua đuổi phường buôn bán và quân đổi tiền ra khỏi đền thờ. Ngài đổ tung tiền của họ xuống đất và xô nhào bàn ghế của họ.

Với chúng ta cũng thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta đã trở nên như một đền thờ, một gian cung thánh sống động, một nơi cho Thiên Chúa ngự trị. Thế nhưng, cùng với thời gian, lòng đam mê tiền bạc, của cải vật chất đã xô đẩy chúng ta vấp phạm hết tội này đến tội khác. Bởi vì như chúng ta thường nói: tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng nó lại là một ông chủ hà khắc, khả dĩ bóp nghẹt những tình cảm cao đẹp nhất của chúng ta.

Đúng thế, vì đam mê chạy theo tiền bạc mà chúng ta sao lãng những bổn phận đối với Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng gian tham, chèn ép và đối xử bất công với những người chung quanh. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng ăn trộm, ăn cắp, ăn gian, ăn quỵt, cũng như ăn hối lộ. Tất cả những tội lỗi phát sinh từ lòng đam mê chạy theo tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng ta trở nên như một cái chợ, một hang ổ trộm cướp, chứ không còn phải là một gian cung thánh, một ngôi đền thờ sống động cho Chúa nữa.

Nếu như bây giờ Chúa bước vào trong tâm hồn chúng ta thì liệu, Ngài sẽ vui mừng hay là sẽ nổi nóng vì tất cả những sai lỗi đã làm cho tâm hồn chúng ta trở thành ô uế và nhơ nhớp?

 

home Mục lục Lưu trữ