Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 63

Tổng truy cập: 1363652

BẠN CÓ PHẢI LÀ ĐỨC GIÊSU KHÔNG?

BẠN CÓ PHẢI LÀ ĐỨC GIÊSU KHÔNG?

 

(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)

Trong một lớp học giáo lý dành cho các em lớp Sáu mới chuyển cấp, một thầy giáo muốn dạy về Chúa Giêsu nên khai mào bằng những lời sau đây: “Hôm nay thầy muốn giới thiệu với các em về một nhân vật mà tất cả chúng ta đều phải gặp mặt. Nhân vật đó là một người rất yêu thương và quan tâm đến các em còn hơn cả cha mẹ, anh chị, hay bạn bè của các em. Ngài là người rất nhân từ và sẵn sàng tha thứ cho dù lầm lỗi của các em có khủng khiếp đến đâu đi chăng nữa. Dù các em có xấu xa thế nào thì ngài vẫn đón nhận, cảm thông và yêu mến.”

Đang khi nói, thầy giáo để ý thấy một đứa bé chăm chú lắng nghe và tỏ vẻ thích thú lắm. Thế rồi, dường như không cầm lòng được, cậu ta buộc miệng thốt lên: “Ồ, em biết thầy đang nói về ai rồi. Có phải là cha quản nhiệm của chúng ta không?”

Chẳng biết thầy giáo trả lời với em bé thế nào, nhưng câu nói của em đã khiến tôi giật mình. Em đã nhìn thấy nơi vị linh mục quản nhiệm hình ảnh của Đức Giêsu mà thầy giáo đang muốn trình bày. Không biết các hành vi, thái độ, lối sống nơi con người tôi có làm toát lên dung mạo của Đấng Cứu Thế không? Người ta sẽ thấy và nghĩ tôi là ai, một người có Chúa Giêsu hay một kẻ vô đạo?

Ngày xưa, khi Gioan sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”, Ngài đã không trả lời bằng những câu rất dễ như: “Đúng vậy” hay “Ta là Đấng các ngươi mong chờ.” Trái lại, Đức Giêsu đã hướng hai ông đến với các việc Ngài làm. Những gì mà xưa kia Isaia tiên báo về Đấng Cứu Thế thì nay đang thành sự. Ấy là: “Mù được sáng mắt, què được đi, phong hủi được sạch, điếc được nghe, kẻ chết sống lại, và người nghèo khó được loan báo tin vui.”

Đúng là trăm nghe không bằng mắt thấy. Lời nói dễ hơn việc làm, nhưng hành động mới chinh phục mạnh hơn ngôn từ. Đức Giêsu đã khẳng định Ngài là Đấng phải đến không phải chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng hành động. Và Ngài mời gọi hai môn đệ hãy nhìn vào bao sự lạ lùng đang xảy ra để thuật lại cho Gioan, hầu củng cố niềm tin của ông vào Đức Mesiah.

Chắc hẳn niềm tin này không mang ông ra khỏi bao tù của vua độc gài và gian dâm Hêrôđê, người đã loạn luân khi lấy vợ của anh mình; niềm tin đó cũng chẳng giúp ông thoát được cái chết đớn đau cô độc, nhưng nó lại có sức trợ lực ông vững bước đến cùng trên hành trình rao giảng và bênh vực cho Chân lý. Đây là phúc lộc lớn lao mà Đức Giêsu muốn trao tặng cho vị tiền hô của mình: “Phúc cho người không vấp ngã vì Ta.” (Mt 11:6)

Có thể nhiều khi trong đời, tôi phải trải qua những bế tắc của chốn “lao tù” thế gian, chung quanh chỉ là bóng tối của khốn khổ lao đao. Nào là tai ương ập xuống, vợ chồng mất việc, tài sản hư hao, con cái bệnh tật… rồi bao cảnh trái tai gai mắt dường như muốn đánh gục niềm tin của chính mình. Và có lẽ đã không ít lần tôi hỏi Chúa: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không, hay tôi phải tìm đến người nào khác? Có lẽ thầy này, bà kia, hay chiêm tinh gia này, tử vi bói toán nọ còn có thể cứu tôi, chứ theo Đức Giêsu… sao chẵng thấy được gì.” Phải chăng không ít lần tôi cũng đã đặt vấn đề như thế?

Trước bao tăm tối và nghi nan nơi ngục tù, lời nói của Chúa Giêsu – “Phúc cho người không vấp ngã vì Ta” đã trở thành lời an ủi khích lệ lớn lao cho Gioan. Cuối cùng, ông đã đóng trọn vẹn vai trò tiền hô cho Đấng Cứu Thế bằng những giọt máu hành anh của mình.

Không mong được giải thoát bằng phép lạ, nhưng chỉ khát khao được đỡ nâng để đi đến cùng hành trình đức tin của mình chính là mẫu gương cho tôi nhắm tới. Khi nền luân lý bị nhiễu nhương, khi đam mê xác thịt quật ngã bao lớp người, khi tình trạng rối vợ rối chồng xảy ra như cơm bữa, tôi phải có can đảm lội ngược dòng đời, dù như thế sẽ bị cô độc lẻ loi, dù như thế sẽ bị giam hãm đọa đày, nhưng chỉ có sống như thế, tôi mới làm sáng tỏ dung nhan Đức Kito, Đấng là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống.

Nói tôi có đạo, dễ quá. Chứng minh tôi có niềm tin vào Thiên Chúa bằng lối sống ngay chính và bằng hành vi yêu thương quả là một thách đố không nhỏ bé gì.

Song, “Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi,” ngôn sứ Isaiah đã nói như thế, bởi vì rồi đây “Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy (ánh quang chân lý), tai người điếc sẽ được nghe (Tin mừng cứu độ), người què sẽ nhảy như nai (trên lối đường công chính)…người ta sẽ hoan hỉ triền miên và vui mừng khoái trá. Họ sẽ không còn đau buồn nữa, và rên siết sẽ trốn xa.” (Is 35)

Sự đỡ nâng lớn lao nhất cho người Kitô hữu chính là Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ai siêng năng rước Chúa sẽ nhận được sức mạnh vượt thắng bao giông tố của dòng đời. Ai thường xuyên tiếp đón Ngài sẽ được trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”, và lúc ấy, “Tôi sống nhưng không phải tôi sống nhưng Đức Kitô sống trong tôi.” (Ga 3:20)

 

38.         Ai là “Thầy” của tôi? – Lm. Hà Ngọc Đoài

 

“Thầy có phải là Đấng phải đến, hay chúng con phải đợi Đấng khác?” (Mt 11:3).

Niềm vui của cha mẹ là sinh con ra đời, và ước muốn cũng như sự quan tâm của cha mẹ là tìm trường có thầy giỏi để gửi con theo học. Ai cũng biết rằng gia đình là “mái trường” đầu tiên cho mọi người con và cha mẹ là “thầy” có nhiều ảnh hưởng nhất cho con từ thuở nhỏ. Nhưng khi con lớn, thì cần những khả năng chuyên môn để vào đời. Nhiều lãnh vực cha mẹ không giúp con được, nhất là những phương diện làm người trong xã hội cần có thầy cô dạy dỗ. Cho dù ở nhà hay đi tới trường, tương lai của người học sinh đều chịu ảnh hưởng của sự giáo dục.

Trong lãnh vực tôn giáo, sự ảnh hưởng lại còn quan trọng hơn vì tôn giáo tạo nên những con người tốt cho xã hội. Nếu may mắn, ta được giáo dục trong một Tôn giáo chân chính, thì đời của ta sẽ sống trong hạnh phúc và trọn đầy ý nghĩa. Những thử thách chỉ là cơ hội để rèn luyện và tăng cường niềm tin cho ta mà thôi. Nếu không may, ta gặp những thầy không chân chính, họ là những “tiên tri giả”, thì đời của ta bồng bềnh như con thuyền vô định hướng và đi tới chỗ nguy hiểm.

Hiện nay có nhiều “tiên tri giả” xuất hiện để lôi cuốn thị hiếu của nhiều người. Những người thích nghe theo các tôn giáo mới thường tìm nơi đó những thỏa mãn của cảm tình tạm thời, hoặc những “mặc cả – thương lượng” xoa dịu ý riêng của ta! Chẳng hạn, chúng ta thấy có nhiều tôn giáo mới “Doomsday” xuất hiện lôi cuốn nhiều tín đồ vào chỗ chết tập thể bởi những hứa hẹn không căn bản. Trong số tín đồ đó, đa số lại là những người tài giỏi chuyên môn về các ngành của khoa học tân kỳ. Chúng ta làm học trò một lần trong đời. Nếu học sai bài của “tiên tri giả” thì đời chúng ta sẽ bị nhiều thiệt thòi vô ích. Biết tìm đâu được “Thầy” chân chính? Muốn phân biệt thầy chân chính hay tạm thời, chúng ta hãy nhìn cách sống của họ. Thầy giả thì khai thác tín đồ, còn thầy chân chính thì đem ích lợi cho tín đồ. Gương sống động của Đức Kitô cho ta biết Thiên Chúa sai Con của Người xuống để ở với chúng ta “Emmanuel”. Ngài trả lời câu hỏi muôn người bằnt việc làm và sự cứu độ. Ngài mời chúng ta đến chứng kiến, “Kìa nhìn xem, người mù được thấy, người què đi được, người phung hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại” (Mt 11:4) Ai làm được như vậy, nếu không phải là Đức Kitô, một người Thầy chân chính mà chúng ta đang chờ đợi trong Lễ Giáng Sinh?

 

THỰC HÀNH:

“Lạy Chúa, xin đến cứu độ chúng con ” (Is 35:4).

Mọi người đang sống trên trần gian là một khách hành hương. Có những người đang bơ vơ lạc lõng mà không biết kêu cứu ai! Phúc thay cho các Kitô hữu được Thiên Chúa đến đồng hành và hướng dẫn về nơi vĩnh cửu.

 

39.         Để khỏi vấp ngã vì Chúa Kitô

(Suy niệm của Lm Phạm Ngọc Ngôn)

Cái giá cho sự bảo vệ chân lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức truyền thống đã đẩy Gioan Tẩy Giả vào con đường ngục tù. Ở trong tù, điều Gioan Tẩy Giả băn khoăn lo lắng không phải là cái giá của lẽ phải mà ông đang phải gánh chịu, nhưng chính là những thắc mắc xung quanh Đấng mà ông vẫn hằng rao giảng. Chính vì thế, ông đem những thắc mắc này hỏi trực tiếp Chúa Giêsu khi sai các môn đệ đến hỏi Người: “Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?”

Chúng ta biết, Gioan Tẩy Giả không ngừng loan báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều gian ác, ném vào lửa đời đời.

Thế nhưng, những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương; Người cũng không giống như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ; đối với người nghèo khổ, bệnh hoạn tật nguyền, Người ra sức yêu thương, bao bọc chở che và chữa lành chứ không phải xa lánh vì sợ luật ô uế như các Rabbi. Chính vì thế, cuộc khủng hoảng về niềm tin của Gioan Tẩy Giả xảy ra cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, đối diện với cuộc khủng hoảng đó, cùng với hoàn cảnh ngục tù, đã không làm cho ông lún sâu vào đường hoang mang lo lắng. Ông tìm đến Đấng “gây nên” cho ông sự khủng hoảng đó để tìm sự giải đáp. Và ông đã tìm thấy.

Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp những thắc mắc của Gioan Tẩy Giả, Người mời gọi các môn đệ của ông chứng kiến những gì Người đang thực hiện. Các môn đệ Gioan Tẩy Giả đến với Chúa Giêsu đúng vào lúc Người đang thi hành sứ vụ rao giảng nước Thiên Chúa. Và vì thế, các ông đã tận mắt chứng kiến những việc Chúa Giêsu đang thực hiện- điều mà xưa kia, Ngôn sứ Isaia đã loan báo về thời của Đấng Mêsia: người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin mừng. Chắc một điều, khi nghe các môn đệ kể lại, Gioan Tẩy Giả sẽ hiểu hơn về Đấng mà mình loan báo. Giờ đây Gioan Tẩy Giả hiểu rằng Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại.

Bên cạnh đó, Chúa Giêsu còn biểu dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các môn đệ ông. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các Ngôn sứ; Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa, là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo: “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử vì đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó.

Mùa Vọng chỉ thật sự có ý nghĩa khi mỗi người chúng ta biết chạy đến với Chúa, không ngừng xin Chúa củng cố, nâng đỡ niềm tin; đồng thời xin Chúa hoá giải những hoang mang lo lắng trong cuộc sống nhân sinh để giữ vững niềm tin, ngõ hầu không một chướng ngại, thử thách nào có thể làm chúng ta “vấp ngã vì danh Chúa Kytô”.

 

40.         Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta

(Suy niệm của Lm Trần Thanh Sơn)

Ngày hôm nay, có lẽ không có gì nhiều hơn là quảng cáo. Quảng cáo có mặt khắp nơi: đơn giản như một tờ áp phích dán trên tường, một tờ bướm cho đến các phương tiện hiện đại hơn như truyền thanh, truyền hình… cũng đầy dẫy các tiết mục quảng cáo.

Các hình thức để quảng cáo thật phong phú, nhưng mục đích chỉ có một: sản phẩm đang được quảng cáo là thứ tốt nhất trong các sản phẩm cùng loại. Chúng ta có thể thấy rõ điều này trong cùng một chương trình quảng cáo, vừa giới thiệu thứ dầu gội đầu này là số một, thì sau đó lại giới thiệu một thứ dầu gội khác là hàng đầu thế giới. Thứ bột giặt này là “chuyên gia giặt tẩy vết bẩn”, còn thứ bột giặt kia thì lại được giới thiệu như là “một chọn lựa của người nội trợ đảm đang…” Nghe qua, tôi cũng không biết thứ nào là tốt thật, thứ nào chỉ là quảng cáo. Bởi lẽ, nếu thứ nào cũng số một, thì vị trí thứ hai dành cho ai?

Chính vì thế, con người chúng ta hôm nay như đang bị lạc lối giữa thật và giả. Có những điều tưởng là giả, nhưng lại là thật, và có những điều tưởng chừng như là đúng, nhưng lại là sai. Nhiều khi cái sai, điều xấu lại mang những dáng vẻ bên ngoài rất tốt đẹp. Do đó, để nhận ra được đâu là chân lý, đâu là cái tốt thật, chúng ta không thể chỉ nghe theo những lời quảng cáo, nhưng cần nhìn vào chính hiệu quả của sản phẩm. Tương tự như thế, lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta nhìn xem những dấu chỉ để nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa chúng ta.

  1. Một thắc mắc của đời thường:

Ngay mở đầu bài Tin mừng, thánh sử Matthêu ghi lại một vấn nạn của Gioan về chính con người của Đức Kitô: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”. Khi nghe câu hỏi này của Gioan, có lẽ nhiều người trong chúng ta thắc mắc: Tại sao ngay trong Chúa Nhật vừa rồi, Gioan vừa làm phép rửa, vừa lớn tiếng giới thiệu Đức Kitô cho toàn dân Israel, như là Đấng Messia của Thiên Chúa, Đấng mà ông “không đáng xách giày Người”. Vậy mà giờ đây, ông lại cho người hỏi Đức Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng?”. Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cần biết rằng theo niềm tin và suy nghĩ của Gioan cũng như của toàn dân, khi Đấng Messia xuất hiện, Ngài sẽ thực thi công lý trên toàn cõi đất. Vậy mà giờ đây, Gioan đang ở tù vì can đảm tố cáo sự loạn luân của vua Hêrôđê, thế mà Đức Giêsu không hề có một tiếng nói nào. Điều này đã khiến cho Gioan bối rối, và ông phải sai các môn đệ đến đặt vấn đề trực tiếp với Đức Giêsu.

Thắc mắc của Gioan có lẽ cũng là thắc mắc của tôi và của quý ông bà anh chị em và của con người thuộc mọi thời đại. Chúng ta thường thích đi tìm những cái rõ ràng, cụ thể theo suy nghĩ của chúng ta. Trong khi đó hành trình của đức tin là một hành trình phó thác. Hành trình này đôi khi có vẻ như là đi trong đêm tối, nhưng nếu để ý, thì chúng ta sẽ luôn thấy có những ánh sáng, những dấu hiệu chỉ đường. Những dấu hiệu này, đôi khi cũng không dễ nhận ra nếu chúng ta không thật tâm chú ý. Do đó, thay vì trả lời trực tiếp cho câu hỏi của Gioan, Chúa Giêsu đã mời gọi các môn đệ của Gioan thuật lại cho Gioan những gì họ đã nghe và đã thấy, để Gioan tự đánh giá. Đức Giêsu đã không tự quảng cáo cho chính mình, nhưng Ngài mời gọi Gioan và mỗi người chúng ta hãy “nhìn quả để biết cây”.

Đức Giêsu nói với các môn đệ của Gioan: “Hãy về thuật lại với Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó”. Đến đây, chúng ta nhớ lại lời loan báo của ngôn sứ Isaia khi ông loan báo về ngày của Thiên Chúa trong bài đọc một. Trong ngày Thiên Chúa đến ban ơn cứu độ thì “Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ đuợc nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy như nai”.Và giờ đây, những điều đó đang được ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, thì điều đó là một minh chứng tỏ tường: Đức Giêsu chính là Đấng Messia mà Thiên Chúa đã hứa. Ngài chính là vị Thiên Chúa đang ở giữa nhân loại, ở giữa chúng ta.

  1. Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta:

Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta. Ngài vẫn đang nói và hành động trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có thấy việc Ngài làm và nghe được tiếng nói của Ngài hay không. Bởi vì có thể đôi khi chúng ta cũng giống như những người Do thái vào thời của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu (x. Mt 13, 13).

Thiên Chúa vẫn đang hiện diện giữa chúng ta. Ngài vẫn đang tiếp tục điều khiển lịch sử nhân loại ngang qua không chỉ những điều tốt lành mà cả những điều xem ra là sự dữ trước mắt chúng ta. Do đó, trong tâm tình chờ mong ngày Con Thiên Chúa lại đến, phụng vụ mùa Vọng gởi đến chúng ta một lời mời gọi tin tưởng, không nản lòng trước sự dữ, nhưng luôn kiên trì “bền chí và vững tâm”, như “người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu”. Chúng ta cần kiên nhẫn đợi đúng giờ, đúng khắc của từng con nước để cắm đăng, quay đáy. Nếu vội vàng, hoặc chậm trể, chắc chắn lưới của chúng ta sẽ không kéo được tôm cá như đáng phải có.

Chúng ta cần kiên trì, vì cho dù trước mắt và cuộc đời của chúng ta đang xảy ra điều gì đi nữa, thì Thiên Chúa vẫn đang ở bên cạnh, và đang sẵn sàng ra tay nâng đỡ chúng ta. Thiên Chúa vẫnđang hiện diện với chúng ta qua cha mẹ, anh chị em, bạn bè và mọi người mà chúng ta gặp gỡ. Mọi biến cố vui buồn xảy ra trong cuộc đời của chúng ta không phải là ngẫu nhiên, nhưng đó là điều tốt nhất để đem lại ơn cứu độ đời cho chúng ta, nếu chúng ta biết đón nhận với một tâm tình yêu mến và cậy trông (x. Rm 8, 28). Chính trong tâm tình đó, thánh Giacôbê khuyên nhủ chúng ta: “Anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến… Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa”

Như thế, hành trình đức tin không phải là một hành trình của “mì ăn liền”. Thiên Chúa luôn hiện diện ở giữa chúng ta, nhưng Ngài không làm thay cho chúng ta. Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác cách tự do và tích cực vào chương trình cứu độ của Ngài, để nhờ đó, mọi việc làm của chúng ta trở nên một hành vi nhân linh có giá trị. Thiên Chúa vẫn đang hiện diện bên cạnh và ngay trong đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Do đó, trong những ngày mùa Vọng này, mỗi người chúng ta hãy cố gắng chuyên chăm lắng nghe và suy niệm lời Chúa, và nhất là siêng năng và sốt sắng lãnh nhận Thánh Thể, bí tích của tình yêu, để có thể nhận ra bàn tay yêu thương của Chúa ngay trong cuộc đời mình. Đồng thời, bằng chính cuộc sống yêu thương, chia sẻ và công chính của mình, chúng ta hãy làm cho mọi người chung quanh cũng nhận ra rằng Thiên Chúa vẫn đang hiện diện ở giữa họ. Nhờ đó, tất cả chúng ta có thể hân hoan ra đón Chúa trong ngày Ngài ngự đến. Amen.

 

41.         Thầy có thật là đấng phải đến không?

(Chú giải và gợi ý suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)

Đức Giêsu tôn trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người.

 

Ngữ cảnh

Với các chương 11–12 này, chúng ta đến một khúc quanh trong Tin Mừng Mt. Trong mười chương trước, Nước Trời đến gần, dường như không hề gặp trở ngại nào; ở đây, có điều mới xuất hiện: các câu hỏi chính xác được đặt ra cho Đức Giêsu.

Gioan Tẩy Giả phái các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (11,3). Phía họ, những người Pharisêu cùng với các kinh sư (x. 12,38) đã ngỏ lời lần đầu tiên trực tiếp với Đức Giêsu với giọng trách móc và phê phán: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát” (12,2). Đó là những câu hỏi quan trọng vừa xuất hiện. Đứng trước bản thân và hoạt động của Đức Giêsu, người ta phải lấy lập trường. Dường như Đức Giêsu có thể là “đối tượng gây vấp phạm” (11,6), còn “thế hệ này” không sẵn sàng đón tiếp Nước Trời đang đến gần, các thành ở bờ hồ không hoán cải (x. 11,20), phong thái của Đức Giêsu thực sự bị tranh luận (x. cả ch.12), và người ta đã “bàn bạc để tìm cách giết Đức Giêsu” (12,14).

Bầu khí ngờ vực và đặt vấn đề này là bầu khí mới so với những gì xảy ra trước đây. Quả thật, cho tới nay, chúng ta đã thấy Đức Giêsu tỏ mình ra dần dần như là Đấng Mêsia; các chặng chính được Đức Giêsu trình bày với một nội dung huấn giáo phong phú:

  1. Như một đoạn văn tổng quát báo trước, các ch. 1–2 đã giới thiệu xuất xứ của Đức Giêsu, con cháu vua Đavít và tổ phụ Abraham; ngay vào thời thơ ấu, Người đã tỏ ra là Đấng Kitô, là Đấng Mêsia, hoàn tất lịch sử thánh của Israel nơi bản thân và bằng số phận của Người.

  2. Ở ch. 3–4, Vị Tiền Hô mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, đã ban phép rửa cho Đức Giêsu: dịp này, Đức Giêsu đã đăng quang làm Đấng Mêsia; sau khi đã được Chúa Cha ban chứng từ thánh hiến, đã chịu quỉ thử thách, Người đã đi loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.

  3. Trong các ch. 5–7, qua huấn giáo của Đức Giêsu, người ta đã nhận ra quyền lực của Nước Thiên Chúa và đòi hỏi phải dấn thân; Bài Giảng trên núi đã khiến cho các đám đông phải kinh ngạc và thán phục.

  4. Xuyên qua các phép lạ chữa bệnh mà Đức Giêsu đã thực hiện cũng như lời nói đầy hiệu năng của Người, các ch. 8–9 giúp khám phá ra uy quyền được ban cho Người cũng như quyền lực đầy năng động của Nước Thiên Chúa.

  5. Ở ch. 10, qua bài sai ban cho Mười Hai Tông đồ và bài diễn từ truyền giáo, ta khám phá ra rằng các sứ giả của Nước Thiên Chúa được thực sự chia sẻ uy quyền của Đức Giêsu, do các ông được liên kết mật thiết với bản thân Người.

Xuyên qua tất cả các chương này, ta thấy danh tiếng của Đức Giêsu ngày càng lan rộng, bay sang cả các miền chung quanh (x. 4,24; 9,26.31). Sự chống đối chưa lộ rõ bao nhiêu, chỉ có một vài lời chỉ trích phát xuất từ nhóm Pharisêu (x. 9,11) hoặc các môn đệ của ông Gioan (x. 9,14), dưới dạng những câu hỏi lịch sự, chỉ có một phản ứng quyết liệt hơn lộ ra ở 9,34, nhưng cũng còn ngắn ngủi, để rồi chỉ được nhắc lại và triển khai ở 12,24. Nói đúng ra, trong tất cả những chuyện này, chưa có tranh luận, và ngôn ngữ ẩn dụ của các dụ ngôn chưa được sử dụng, ngoại trừ câu truyện về hai loại nhà kết luận Bài Giảng trên núi (x. 7,24-27).

Tuy nhiên, nên ghi nhận phương diện đe doạ và xung đột đã được mười chương đầu này của Tin Mừng nêu lên: ý định nham hiểm của vua Hêrôđê (x. 2,16), cuộc chiến đấu chống các cám dỗ (x. 4,1-11), lời loan báo những bách hại (x. 5,10-12.44; và nhất là 10,16-23.38). Nhưng đấy là một sự đối kháng mà Đức Giêsu luôn chiến thắng, hoặc là một lời Đức Giêsu kêu gọi đừng sợ hãi, mà hãy nhận ra mối phúc của Nước Thiên Chúa ngay giữa cuộc đối đầu gian khổ. Dù sao, dường như ơn cứu độ đã được đảm bảo cho người nào đứng vững tới cùng (x. 10,22). Do giọng điệu tha thiết của Đức Giêsu nhằm giúp các môn đệ đối phó với những khó khăn và trở ngại họ sẽ gặp, Bài diễn từ truyền giáo đã mở ra một viễn tượng mới: đó là cuộc thử thách đức tin sẽ phải trải qua.

Đã đến lúc phải tự hỏi về ý nghĩa của hoạt động của Đức Giêsu, như Mt đã trình bày khá dài: phải nghĩ gì về những “việc Đức Giêsu làm” (11,2.19)? Phải hiểu thế nào về những “cử chỉ quyền lực” ấy (11,20.21.23)? Thật ra đây là câu hỏi về tư cách Mêsia của Đức Giêsu: từ ngữ “Kitô” mà Mt đã sử dụng trong ch. 1–2, đến đây mới xuất hiện lại (x. 11,2). Dường như bây giờ chúng ta đã rơi vào tình trạng lưỡng lự: ơn cứu độ vẫn còn được trình bày như có thể đạt được mà thôi, trong khi đó rõ ràng các lần từ khước, các chống đối, các tranh luận lại nối tiếp nhau đặt Đức Giêsu thành vấn đề. Tác giả sẽ trình bày phần Tin Mừng còn lại như câu truyện về một sự từ khước. Chính là theo chiều hướng này mà chúng ta có thể nói đến một khúc quanh trong diễn tiến của Tin Mừng Mátthêu.

2- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (11,2-3);

2) Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (11,4-6);

3) Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (11,7-11; ở trong TM, thì đọc tới c. 15).

3- Vài điểm chú giải

– Đấng phải đến (3): dịch sát ho erchomenos là “Đấng đang đến”. Chúng ta nhớ đến lời rao giảng trước đây của Gioan: “Đấng đến sau tôi thì mạnh hơn tôi (ho opisô mou erchomenos)” (3,11). Lời này đưa chúng ta trở lại với sấm ngôn Isaia 40: “Kìa Đức Chúa đến với sứ mạnh [quang lâm hùng dũng], tay nắm trọn chủ quyền” (Is 40,10). Do đó, Đấng Mêsia cũng được gọi là “Đấng được chờ đợi”, “Đấng sẽ đến”, “Đấng Thẩm phán” (x. Dcr 9,9; Tv 118,26; St 49,10). Gioan đã so sánh sức mạnh của Đấng Mêsia với việc người tiều phu dùng rìu hạ cây (x. 3,10), rồi với người nông dân sàng sảy sân lúa (3,12). Ông mời gọi người tội lỗi hoán cải và ban một phép rửa giúp bày tỏ lòng sám hối, trước khi Đấng ấy đến, là Đấng ban phép rửa trong Thánh Thần và trong lửa để tiêu diệt (3,11). Đây chính là vị Thẩm phán đáng sợ sẽ dùng lửa không hề tắt mà tiêu diệt tất cả những kẻ tội lỗi không chịu hoán cải (x. Ml 3,2-3).

– phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi (6): “Cớ vấp phạm”, skandalon, là “cái bẫy đặt trên đường; chướng ngại vật làm cho người ta té ngã”; và nghĩa bóng là tất cả những gì làm cho người ta rơi xuống về mặt luân lý hay tôn giáo. Đức Giêsu tiên liệu rằng câu trả lời của Người có thể làm cho Gioan thất vọng, bởi vì quan niệm của ông về Đấng Mêsia quá khác với cách Đức Giêsu đang thực hiện hình ảnh Đấng Mêsia của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến phản ứng của Phêrô khi nghe loan báo Thương Khó (Mt 16,22-23) hoặc Giôna sau khi thấy Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).

4- Ý nghĩa của bản văn

Gioan Tẩy Giả đã loan báo là đến sau ông, sẽ có một người mạnh hơn ông và vượt xa ông về phẩm cách. Người ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và sẽ tách lúa với vỏ trấu ra (3,11t; x. Is 40,10).

Bây giờ Vị Tẩy Giả đang ở trong tù. Do bởi thái độ cứng rắn và những lời nói đanh thép của ông, vua Hêrôđê Antipa đã phải ra lệnh bắt giam ông. Nhưng vì ông nổi tiếng là đạo đức, ông được đối xử đặc biệt; các bạn bè có thể đến thăm ông, cho ông biết những tin tức ở bên ngoài. Ông đặc biệt quan tâm đến Đức Giêsu Nadarét.

* Mở đầu cuộc tranh luận Kitô học (2-3)

Gioan nghe nói đến những hành động của Đức Giêsu. Phải nghĩ về Đức Giêsu như thế nào? Người có thật là Đấng mà ông đã loan báo là đang đến chăng? Quyền bính và năng lực của Người đang đang được biểu lộ ra ở đâu? Chẳng lẽ trong thân phận tù tội, ông không đáng được Đức Giêsu dùng quyền lực Người mà giải thoát sao? Người có thật đang tách hạt lúa khỏi vỏ trấu chăng? Ở đâu? Đức Giêsu là ai? Hẳn là Người phải nói năng và hành động cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn chứ?

Khởi đi từ hoàn cảnh cá nhân ông và sự hiểu biết của ông về các hoạt động của Đức Giêsu, Gioan nêu ra câu hỏi quyết liệt: Phải chăng đã đến lúc hoàn tất mọi sự? Chúng tôi có thể tín nhiệm vào Người chăng? Người là ai? Các môn đệ của Vị Tiền Hô đã đến gặp Đức Giêsu và nêu câu hỏi đúng như thầy họ đã dặn.

* Câu trả lời của Đức Giêsu về bản thân Người (4-6)

Đức Giêsu không cung cấp một câu trả lời rõ ràng và trực tiếp. Qua các môn đệ Gioan, Đức Giêsu đưa Vị Tiền Hô trở lại điểm xuất phát của câu hỏi của ông. Gioan phải diễn dịch ra được câu trả lời từ các việc Đức Giêsu làm, là chính những việc đã thúc đẩy Gioan đặt câu hỏi (11,2). Các môn đệ ông lại phải về làm chứng cho thầy về những việc Đức Giêsu đã làm (“Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt thấy tai nghe”) và Đức Giêsu mô tả các việc ấy ra bằng cách nhắc đến các lời hứa Cựu Ước (Is 35,5t; x. Is 35,4; 29,18-19; 61,1).

Đức Giêsu khẳng định rằng lời hứa ấy đang được hoàn tất nơi các hành vi của Người; qua các hành vi này, quả thực Thiên Chúa đang can thiệp để ban ơn cứu độ. Qua các hành động của Đức Giêsu, Nước Trời hay là quyền chúa tể của Thiên Chúa với quyền lực và ân sủng, đang thật sự trở nên gần gũi (4,17). Quyền chúa tể này trước tiên không được tỏ ra như là khả năng thắng vượt các quyền lực đối lập của loài người: Gioan sẽ bị chém đầu trong ngục (14,10); Đức Giêsu sẽ chết trên thập giá; các môn đệ Người sẽ bị bách hại (10,16-25). Triều đại Thiên Chúa cũng chưa tỏ hiện rõ ràng như việc tức khắc tách biệt lúa và vỏ trấu. Việc phán xét chung kết được dành cho ngày Con Người đến: khi đó kẻ dữ sẽ bị tách ra khỏi những người công chính (13,36-43.47-50). Nước Trời sẽ được biểu lộ nơi sự kiện những người sống trong cảnh cùng quẫn sẽ được Thiên Chúa trợ giúp (8,2–9,35) và nơi sự kiện Tin Mừng được loan báo với tất cả uy quyền (5,1–7,29). Đức Giêsu bắt đầu công việc rao giảng bằng cách loan báo mối phúc cho người nghèo (5,3); ở tại trung tâm của lời rao giảng này, có sứ điệp về vị Thiên Chúa quyền năng và nhân ái, sứ điệp về Cha Người và Cha của tất cả mọi người, Đấng muốn cho tất cả mọi người được hiệp thông mãi mãi trong vinh phúc với Ngài. Đức Giêsu tự giới thiệu mình như là Đấng cứu chuộc những người cùng khổ và như sứ giả làm chứng về niềm vinh phúc ấy. Trước tiên Người không đến như một người đấu tranh chống lại bạo lực và như thẩm phán nghiêm khắc.

Mỗi người phải tự nhận định và lấy lập trường đối với Người (x. 11,20-24). Đức Giêsu cũng giúp chúng ta ý thức về điểm này: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (11,6). Người không áp đặt cách hành động của Người nhờ sức thuyết phục của những sự kiện hoàn toàn hiển nhiên; Người dành không gian cho người ta đón nhận hoặc từ khước, cho người ta tin hoặc không tin.

* Bài tán dương của Đức Giêsu về Gioan (7-11)

Sau khi đã trả lời câu hỏi về thân thế Người, bây giờ Đức Giêsu đề cập đến công việc và bản thân của Vị Tẩy Giả (11,7-15). Người ca ngợi lối xử sự cương nghị và lối sống không ngạo mạn tự phụ của đấng không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý như một cây sạy cong người trước gió (x. 14,3-12) và không ăn mặc lụa là mềm mỏng. Chính sự trung tín và sự dơn giản của ông làm cho ông trở nên đúng là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa (x. 21,26.32) và đáng tin. Nhưng ông còn hơn là một ngôn sứ. Tất cả những vị đến trước ông đều thuộc về thời đại lời hứa, các vị ấy chỉ loan báo từ xa biến cố Đấng Mêsia đến trong quyền lực và mang theo ân sủng (11,13). Gioan là vị ngôn sứ của thời kỳ hoàn tất, nên cao trọng hơn tất cả các vị đi trước. Ông là sứ giả đi ngay trước Đức Chúa và chuẩn bị trực tiếp cho Người đến (11,10). Ông là Êlia đi trước Đức Chúa và chuẩn bị cho dân chúng đón tiếp Người (11,14; x. Ml 3,23; H c 48,10).

Với cách đánh giá Vị Tẩy Giả như thế, Đức Giêsu một lần nữa trả lời gián tiếp cho câu hỏi của ông. Nếu Gioan ở rất sát thời kỳ hoàn tất, thì với Đức Giêsu, thời này đã đến. Nếu Gioan là vị sứ giả dọn đường, thì với Đức Giêsu, người ta đã đón được Đức Chúa đến: không chính xác theo kiểu ông hình dung và chờ đợi (x. 3,12), mà là theo cách Thiên Chúa đã định. Sánh với những người đã đến trước, ông là người cao trọng nhất. Sánh với những người đang thuộc về Đức Giêsu và có thể trải nghiệm sự gần kề của Nước Trời trong sự hiệp thông với Người, ông là người nhỏ. Sự vĩ đại và nhỏ bé ấy không liên hệ đến ơn cứu độ hoặc giá trị luân lý của con người, nhưng liên hệ đến thời gian và biến cố trong đó người ấy được tham dự vào. Chính vì thế Đức Giêsu bảo rằng các môn đệ có phúc so với nhiều ngôn sứ và người công chính (13,16t). Như thế, thời đại và công trình của Đức Giêsu có một ý nghĩa duy nhất.

 

+ Kết luận

Qua các môn đệ của Vị Tẩy Giả, Đức Giêsu cũng trả lời cho chúng ta: Người chính là Đấng Mêsia mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Chúa từ ngàn xưa. Thiên Chúa vẫn trung thành với lời Ngài hứa; chỉ có con người qua dòng thời gian, đã giải thích sai lạc lời Thiên Chúa hứa để đưa nhau đến những niềm chờ mong hão huyền, theo lòng dạ hẹp hòi của mình. Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta điều chỉnh lại cách chúng ta nhìn lịch sử cứu độ: không theo khuôn khổ các giấc mơ của chúng ta, nhưng đúng theo chương trình của Thiên Chúa. Và nếu qua Lời Chúa hôm nay, người môn đệ nhận ra rằng mình cũng được mời gọi làm Tiền Hô của Đức Kitô đối với con người hôm nay, thì chúng ta cũng cần nhớ rằng, chúng ta chỉ có thể chu toàn được sứ mạng nếu dựa vào phẩm cách cao quý của Đức Giêsu, Đấng chúng ta loan báo.

 

5- Gợi ý suy niệm

  1. Hôm nay, nhiều Kitô hữu vẫn đang mơ một ơn cứu độ không phù hợp với cách Thiên Chúa quan niệm. Việc Đức Giêsu chữa bệnh và nhất là việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo cho thấy rằng Người không phải là một thẩm phán nghiêm khắc nhưng là một vị Mêsia ân cần và từ bi. Thay vì trừng phạt những kẻ tội lỗi, loại trừ những kẻ gian ác, Người lại ban ơn chữa lành cả tâm hồn và thân xác, Người an ủi, Người soi chiếu, Người trợ giúp những ai đang đau khổ, Người đi qua giữa loài người để chỉ làm điều thiện (ch. 8–9), tha thứ tội lỗi (9,2). Hẳn là có những người khó chịu? Ngay chúng ta đây, chúng ta có chấp nhận được việc Thiên Chúa mạc khải tình yêu của Ngài ra trong sự khiêm nhường và yếu đuối chăng? Do đó Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Đây cũng chính là “cớ vấp phạm” do các Mối Phúc gây ra.

  2. Con đường tất cả các môn đệ phải theo là nhìn thấy các dấu chỉ mà biết giải thích đúng đắn, biết nhận ra đó là các công trình của Thiên Chúa. Đây là nẻo đường đức tin, khởi đi từ những điều thấy được và đưa tới chỗ khám phá ra Đức Giêsu là ai. Đây là con đường đưa từ bóng tối đến ánh sáng, đi từ những dấu chỉ đến với thực tại được ám chỉ. Nhìn Hài Nhi bé bỏng yếu ớt nằm trong máng cỏ, mà nhận ra đó là Cứu Chúa và Đức Chúa; nhìn Con người bị đóng đinh đau đớn và nhục nhã nhất mà nhận ra đó là Đức Vua Cứu thế, đấy là qua dấu chỉ mà khám ra được thực tại.

  3. Đức Giêsu tôn trọng tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người. Trái lại, chúng ta phải thấy thực sự Người là ai và Người đang làm gì, để rồi đón tiếp Người với niềm vui và tri ân, cho dù chúng ta phải sửa chữa và bỏ đi một vài ý tưởng hoặc sự chờ đợi sai lạc nào đó.

  4. Là những con người sống ở thời đại “cuối cùng”, chúng ta “có phúc” hơn là chính Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, chúng ta có biết trân trọng những ân huệ đang nhận và dùng những ân huệ đó mà xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho người khác chăng?

 

home Mục lục Lưu trữ