Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 42

Tổng truy cập: 1360496

BẤT NGỜ VÀ KHÔNG BẤT NGỜ

BẤT NGỜ VÀ KHÔNG BẤT NGỜ

 

(Suy niệm của Lm. Minh Anh)

“Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?”.

Kính thưa Anh Chị em,

Bất ngờ và không bất ngờ là những gì chúng ta sẽ chứng kiến trong phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay; các bài đọc, Thánh Vịnh đáp ca và bài Tin Mừng sẽ cho chúng ta những bất ngờ và không bất ngờ đầy thú vị.

Bất ngờ đầu tiên là nhân vật đến đặt vấn đề với Chúa Giêsu. Đó không phải là một tân tòng xin học đạo, cũng không phải là một người trẻ vốn thường có nhiều vấn nạn; nhưng đến với Chúa Giêsu là một học giả luật. Ông đặt một câu hỏi khá bất ngờ, “Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng nhất?”; dẫu biết mình bị gài bẫy, Chúa Giêsu vẫn điềm tĩnh trả lời một cách bất ngờ bằng một câu trích chẳng bất ngờ chút nào, “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa, Chúa Trời ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”; nhưng quá bất ngờ, Ngài chua thêm, “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.

Sẽ không bất ngờ khi chúng ta nghe, “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn” vì Thiên Chúa đáng được như thế; nhưng sẽ rất bất ngờ khi hiểu rằng, câu nói đó muốn nói, phải yêu mến Thiên Chúa với hết trí, hết tri, hết tâm, hết lực; nghĩa là yêu mến với toàn bộ xác hồn; Thiên Chúa phải là trước hết, trên hết, không ai hơn Chúa, không chi bằng Chúa.

Thiên Chúa đó là ai mà chúng ta phải yêu tuyệt đối đến thế? Câu hỏi này khá bất ngờ và câu trả lời lại càng bất ngờ hơn. Đó là một Thiên Chúa toàn năng vô cùng, quyền phép vô song, cao cả vô lường… tuy điều này chẳng có gì bất ngờ; nhưng sẽ rất bất ngờ khi Thiên Chúa đó còn là một Thiên Chúa xót thương, hạ mình sâu thẳm đến nỗi Người chăm chút đến từng bà goá, từng khách ngoại kiều, từng người nghèo như bài đọc Xuất Hành diễn tả. Chúng ta sẽ ngạc nhiên đến sững sờ khi nghe những lời từ miệng Người phán ra, “Ngươi chớ làm phiền lòng và ức hiếp khách ngoại kiều”; “Đừng làm hại cô nhi quả phụ”; “Nếu các ngươi hà hiếp những kẻ ấy, Ta sẽ nổi cơn thịnh nộ, sẽ dùng gươm giết các ngươi, vợ các ngươi sẽ phải goá bụa và con cái các ngươi sẽ phải mồ côi”; ‘Ngươi hãy trả lại chiếc áo cho người nghèo trước khi mặt trời lặn, vì nó chỉ có một áo ấy để che thân, không còn chiếc nào khác để mặc mà ngủ; nếu kẻ ấy kêu van đến Ta, ngươi sẽ chết với Ta’; ‘Ngươi hãy liệu hồn!’, “Vì Ta là Đấng xót thương”.

Một câu hỏi bất ngờ khác có thể đặt ra, vậy thì làm thế nào để chúng ta có thể yêu mến Thiên Chúa tới mức tuyệt đối đến thế? Câu trả lời sẽ không quá bất ngờ là, chúng ta phải biết Đấng chúng ta yêu mến, cũng là Đấng chúng ta dám phó thác toàn bộ đời mình cho Người là Đấng nào, Người là ai? Một khi xác tín Đấng ấy là một Thiên Chúa toàn hảo, toàn năng và toàn thiện thì không còn gì để nghi ngờ, cũng không có gì quá bất ngờ khi chúng ta chọn lựa Người, yêu mến Người và hoàn toàn tin cậy mà phó dâng đời mình cho Người. Một cách trìu mến, Thánh Vịnh đáp ca hôm nay đã bộc lộ tâm tình yêu thương đầy xác tín đó, “Lạy Chúa là dũng lực con, con yêu mến Ngài”.

Vậy thì điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa đến mức ‘vô cực’ như thế? Câu hỏi này quá bất ngờ và câu trả lời lại càng bất ngờ hơn. Chính ngọn lửa yêu mến Thiên Chúa sẽ đốt cháy trái tim của chúng ta, trái tim chúng ta sẽ nồng nàn, sẽ xót thương như trái tim Người; tắt một lời, chúng ta sẽ yêu như Thiên Chúa yêu, xót thương như Thiên Chúa xót thương, hành động như Thiên Chúa hành động. Điều này có nghĩa là, chúng ta sẽ cảm nhận được rằng, chính Chúa Thánh Thần làm những điều kỳ diệu trong tâm hồn mình; chính Thánh Thần sẽ hành động và biến đổi chúng ta ngày càng nên giống Thiên Chúa, nên giống Chúa Giêsu hơn. Và kìa, chính Thiên Chúa sẽ gánh vác và làm những điều lớn lao trong chúng ta như một ngọn lửa tình yêu đang rừng rực cháy. Sẽ không bất ngờ khi Thánh Phaolô vui mừng nói với các tín hữu Êphêsô hôm nay, “Với lòng hân hoan trong Thánh Thần, đến nỗi anh em đã nên mẫu mực cho mọi kẻ tin đạo. Vì từ nơi anh em, lời Chúa vang dội không những trong xứ Macêđônia và Akaia, mà còn trong mọi nơi; lòng tin của anh em vào Thiên Chúa đã quá rõ rồi, đến nỗi chúng tôi không còn nói thêm làm gì nữa”.

Bất ngờ lớn lao nhất là tác động của ngọn lửa Thánh Thần đang rực cháy trong tâm hồn để chúng ta làm những điều lớn lao trong cuộc sống cho những anh chị em chung quanh và đó cũng là giới răn thứ hai Chúa Giêsu nói đến. Thật quá bất ngờ! Thế nhưng, bấy giờ, sẽ không còn là bất ngờ khi chúng ta chứng kiến chính Thiên Chúa cùng Thánh Thần của Người đang hoạt động và ngày mỗi ngày, chúng ta sẽ tận mắt chứng kiến dũng lực siêu phàm và tình yêu Thiên Chúa sẽ biến đổi mọi sự thông qua chúng ta, những tôi tớ hèn mọn được yêu thương. Và đó chính là quà tặng cho những ai yêu mến Người, một quà tặng quá bất ngờ.

Một cô gái mù rất hận chính bản thân, bởi vì cô bị mù. Cô hận mọi người, ngoại trừ người bạn trai khả ái; anh luôn ở đó vì cô. Cô nói với anh, “Nếu tôi có thể nhìn thấy thế giới, tôi sẽ lấy anh”. Một hôm, thật bất ngờ, có ai đó đã hiến tặng cô đôi mắt; khi các miếng băng được tháo ra, cô đã có thể thấy mọi sự, kể cả người bạn trai. Anh hỏi cô, “Bây giờ em đã nhìn thấy thế giới, em có chịu kết hôn với anh không?”. Người thiếu nữ nhìn người bạn trai, thấy anh bị mù; nhìn thấy các mí mắt khép kín của anh, cô bị sốc. Cô không chờ đợi điều này, quá bất ngờ. Ý nghĩ là cô sẽ phải nhìn khuôn mặt ấy, với đôi mắt ấy suốt đời đã đưa cô đến chỗ từ chối kết hôn với anh. Người bạn trai rơi lệ và ít ngày sau, bất ngờ, anh đã viết cho cô một bức thư ngắn, nói rằng, “Em thân yêu, em hãy chăm sóc kỹ càng đôi mắt của em, vì trước khi chúng là của em, thì chúng là của anh”.

Anh Chị em,

Thiên Chúa đã trao tặng chúng ta đôi mắt, trái tim và toàn bộ sự sống; tất cả những gì chúng ta có đó chỉ tồn tại, chỉ có giá trị và ý nghĩa cũng như thể hiện hết chức năng của chúng khi chúng được gắn kết với Đấng trao tặng chúng; cùng lúc làm theo ý của Đấng đã trao ban. Với Thiên Chúa không có gì là bất ngờ, Người yêu thương, Người trao tặng; có bất ngờ chăng là từ phía con người, bất ngờ khi nó không gắn kết với Thiên Chúa, không yêu mến Người cũng như đôi mắt của cô gái được trao tặng chẳng có ý nghĩa gì đối với cô khi cô không yêu người đã trao tặng nó.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, chẳng bất ngờ khi Chúa trao tặng cho con toàn bộ sự sống và những gì con có; nhưng quá bất ngờ khi Chúa còn cho con cả mạng sống và mỗi ngày còn hiến mình cho con trên các bàn thờ. Xin đừng để con bất ngờ mang tiếng phụ tình khi không yêu mến Chúa đủ và cũng không yêu thương anh em đến mức Chúa mong”, Amen.

 

52.Yêu thương là đón nhận sự sống

Anh chị em thân mến.

Một lần tôi chứng kiến hai con gà đá nhau. Hai con gà vừa nhìn thấy nhau, chúng không thể chấp nhận nhau, chúng vươn những bộ lông của mình ra biểu lộ sự uy nghi trước đối phương, đôi mắt đỏ ngầu hướng về nhau. Chúng nhìn nhau tìm sơ hở của, bất ngờ chúng tung những cú đá, những cú cắn xé, dường như có mối thù truyền kiếp từ lúc nào. Bỗng có một con ngã lăn ra, nhưng vì không có trọng tài nên con kia vẫn còn hung hăng, chạy đến bên đối phương cho dù đã ngã quỵ, tiếp tục cho những ngọn đòn thù bằng chiếc mỏ sắc bén và đôi chân vững chắc của mình. Tôi chợt nhớ đến hình ảnh cảnh gà mẹ ấp ủ đàn con, sao êm đềm quá, thân thương quá. Biết đâu hai chú gà vừa một mất một còn với nhau đây, cũng đã từng được ấp ủ chung cùng một người mẹ. Nếu những chú gà biết yêu thương nhau, chúng lo bảo vệ cho nhau, như gà mẹ bảo vệ cho đàn con, thì chúng đâu tìm cách loại trừ nhau như thế. Một chú gà phải chết đi vì chúng không biết yêu thương nên muốn loại trừ nhau. Yêu thương là sống, còn không biết yêu thương thì không thể tồn tại được, chỉ có đi đến cái chết mà thôi.

Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất.

Ngươi phải yêu thương tha nhân như chính mình. Tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tóm về hai giới răn đó.

Người ta đến hỏi Chúa Giêsu về giới răn để sống theo thánh ý Chúa, Ngài cũng trả lời thật sự cho họ như thế. Tất cả lề luật đều tóm trong giới răn Yêu Thương. Sống yêu thương là sống theo lề luật, vậy mà khi người ta đến hỏi về sự sống lại muốn đưa Chúa Giêsu vào con đường chết. Nhưng Ngài đưa con người đến sự sống, Ngài đưa con người đến nguồn yêu thương. Tất cả lề luật đều giúp cho con người sống, nên lề luật được gồm tóm trong luật yêu thương. Không biết yêu thương là không giữ tròn lề luật, nghĩa là không thể sống được.

Chúng ta là những người đang sống, những người đang được yêu thương và cũng là những người đang biết yêu thương. Hơn thế nữa, chúng ta còn là những người Công Giáo, chúng ta biết mình được Thiên Chúa yêu thương như thế nào, đồng thời chúng ta cũng biết mình phải yêu thương như thế nào cho hợp thánh ý Chúa. Nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta hành động giống như những luật sĩ và biệt phái của thời xưa, muốn đưa người khác vào con đường chết, muốn loại trừ người khác ra khỏi sự sống con người.

Trong cuộc sống đời thường có những lần con người không chấp nhận nhau được, vì người khác được ưu đãi, được hạnh phúc, được thành công hơn mình, nên tìm cách loại trừ để đưa người đó vào con đường chết. Khi đó nếu con người nhớ đến mình đã từng được yêu thương, được chăm sóc như bao người khác, tại sao mình không yêu thương, như đã từng được yêu thương. Khi đó chúng ta giống như hai chú gà đá nhau mà không cần biết mình đang làm gì và muốn gì. Không cần biết mình đang đi trên con đường sống hay đang bước đi trên con đường chết.

Nếu trong cuộc sống mà chúng ta biết đặt câu hỏi: mình đang yêu thương hay đang loại trừ, đang sống hay đang chết. Nếu câu hỏi đó thường xuyên có trong đời sống để biết trả lời thật chính đáng, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.

Nếu chúng ta nhìn thấy được người khác như là một con người thật sự đang hiện diện trước mắt, để biết đối xử cho xứng đáng với nhân phẩm của họ với tất cả những gì cần thiết có thể được. Khi đó chúng ta đang sống, vì biết dùng tình yêu thương. Nếu trong mỗi công việc mà nhớ đến lề luật Chúa Giêsu dạy, để biết thi hành cách chính đáng trong mọi trường hợp, thì thật là hạnh phúc cho chúng ta, vì chúng ta đang biết yêu thương và thi hành lề luật yêu thương. Nếu chúng ta chấp nhận được người khác với tất cả những gì là con người của người đó, để cùng nhau bước đi trên con đường yêu thương. Khi đó lề luật Chúa không phải chỉ ở trên môi miệng, nhưng nó là chính cuộc sống của con người, mà chúng ta đang sống, đang hành động.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, đốt nóng tình yêu Chúa trong mỗi người, để biết yêu thương thật sự như Chúa đã yêu thương.

 

53.Chúa Nhật 29 Thường Niên

(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

TIN MỪNG NHẮC NHỚ HÃY BIẾT QUAN TÂM VÀ YÊU THƯƠNG NHỮNG NGƯỜI HÈN MỌN Ở GIỮA CHÚNG TA

Các bài đọc Chúa nhật XXX Thường niên hôm nay rất quan trọng, thúc đẩy chúng ta phải đặt ra những câu hỏi về việc quan tâm đến những người dễ bị tổn thương cũng như cách thức con người đối xử với nhau để cổ võ tình yêu.

Trong bài đọc thứ nhất, trích sách Xuất Hành, dân Israen đi qua hoang mạc hướng về miền đất hứa. Sau khi xuất hành khỏi Ai Cập, họ đã đón nhận  lề luật, đầu tiên là Mười Điều răn và sau đó là hàng trăm luật lệ bổ sung. Bản thân các bộ luật được viết ra sau khi họ định cư tại vùng đất này, và chúng bao gồm những suy nghĩ, nguyện vọng và nhắc nhở về kinh nghiệm xuất hành cho các thế hệ mai sau.

Bài đọc nêu bật những nhóm người dễ bị tổn thương và lạm dụng nhất: ngoại kiều, góa phụ và trẻ mồ côi. Lề luật được ban hành để bảo vệ những người này và trừng phạt những kẻ áp bức họ. Tinh thần của luật là để nhắc nhở dân Israen quan tâm đến những người bị gạt ra bên lề xã hội và thiếu thốn nhất. Bài đọc cho thấy tầm quan trọng của sự đồng cảm và ký ức, khi dân Israen phải chăm sóc những ngoại kiều họ nhớ lại ký ức đau khổ của chính họ “vì các ngươi cũng là khách ngoại kiều ngụ trong đất Ai Cập”. Khi phải  chọn lựa các nhà lãnh đạo, hãy cân nhắc xem ai quan tâm đến những người yếu thế và đâu là những chính sách bảo vệ những người đang có nhu cầu cấp thiết nhất?

Trong bài  Tin mừng, Chúa Giêsu phải đương đầu với một thử thách khác của những người Pharisêu. Một luật sư trong nhóm họ hỏi Chúa về điều răn trọng nhất, và Ngài trả lời bằng cách diễn giải hai điều luật: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Đây là một phần trích dẫn của kinh Shema Yisrael (“Hỡi Israel, hãy nghe”), là một lời cầu nguyện của người Do Thái khẳng định tính duy nhất của Thiên Chúa và tầm quan trọng của việc trung thành thờ phượng Ngài (x. Đnl 6,4-5). Chúa Giêsu còn thêm “Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” trích từ  Lv 19,18.

Chúa Giêsu khẳng định toàn bộ Lề luật và sách các tiên tri đều xoay quanh hai điều luật này, do đó, có những ứng dụng nổi bật với các thính giả thời Chúa Giêsu và cả các Kitô hữu hiện nay. Có thể cho rằng bài Tin mừng hôm nay nêu ra một trong những giáo huấn quan trọng nhất của Chúa Giêsu, trong đó Ngài dựa trên di sản người Do Thái để khẳng định truyền thống và soi sáng điều răn quan trọng nhất: tình yêu thương.

Như đã đề cập trong các bài trước, tiếng Do Thái và Hy Lạp có nhiều từ nói về  tình yêu. Các từ trong hai đoạn trích dẫn này là ahavah trong tiếng Do Thái và agape trong tiếng Hy Lạp, mà ý nghĩa của nó vượt khỏi tình cảm đơn giản đối với Thiên Chúa và tha nhân. Những từ này là lời kêu gọi thể hiện sự cam kết chân thành với Chúa qua việc phục vụ Ngài cũng như  việc phục vụ giữa con người với nhau.

Có những cách thức cụ thể  để thể hiện tình yêu. Tình yêu là thi hành các chính sách bảo vệ người yếu thế và trừng phạt những kẻ áp bức họ. Tình yêu là phê phán những kẻ chĩa vũ khí vào những người hành động cho công lý hơn là vỗ tay khen thưởng việc đe dọa cũng như xúi giục các hành vi thù hận. Tình yêu thương coi mọi người là người láng giềng chứ không chỉ là những người giống như bạn. Tình yêu là chiến đấu cho sự sống.

Thật là giả hình khi cho rằng ủng hộ sự sống của trẻ em chưa được sinh ra có thể miễn trách nhiệm của chúng ta lên tiếng bảo vệ những mảnh đời dễ bị tổn thương, hay ủng hộ những nhóm người sống bên lề xã hội có thể miễn cho chúng ta nhu cầu bảo vệ những trẻ chưa được sinh ra. Cũng là vấn đề khi coi thường nhiều người phải  sống và chịu đựng các tệ nạn do nghèo khổ, do phân biệt chúng tộc và do bạo lực mà vẫn cho rằng mình bảo vệ sự sống.

Vì vậy, nếu bạn đang nghĩ đến việc sử dụng Kinh thánh để giúp bạn quyết định những chọn lựa của mình thì sứ điệp của Chúa Giêsu hoàn toàn rõ ràng: yêu thương. Con người bị chia rẽ bởi những lời lẽ và hành động thúc đẩy thù hận và phân rẽ, những hành động đi ngược lại với lời mời gọi yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy để sứ điệp Tin mừng về tình yêu tác động lên những chọn lựa của bạn.

Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2020/09/18/gospel-reminds-us-care-and-love-least-among-us

 

54.Chúa Nhật 30 Thường Niên

(Suy niệm của Lm Augustine SJ.)

Gương mến Chúa và yêu người sống động nơi trại tập trung Ðức Quốc Xã

Nhật báo Kitô hữu Chứng Nhân (Témoignage Chrétien) kể lại một câu chuyện thật cảm động xảy ra năm 1941 trong thế chiến thứ hai.

Có một vị linh mục bị Ðức Quốc Xã giam trong trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao người khác, cha bị hành hạ và ngược đãi tàn tệ, còn hơn cả súc vật. Thế nhưng vị linh mục này vẫn vui vẻ tìm cách giúp đỡ anh em đồng cảnh ngộ đang bị khủng hoảng và tuyệt vọng.

Chính cha xin với viên cai tù cho đi lao động thay thế những người đau yếu. Phần bánh mì ít ỏi của cha có khi được dành cho những người có nhu cầu hơn. Ðối với người vận đồ rách rưới, cha cũng chia sẻ những chiếc áo cũ tương đối còn lành lặn.

Trong hoàn cảnh đầy nguy hiểm, cha vẫn lặng lẽ giấu kín lý lịch bản thân là người Công Giáo, hơn nữa còn là một linh mục! Chỉ có một vài người rất thân thiết mới biết rõ ngài là ai.

Trong số những người được vị linh mục này giúp đỡ, có một cậu thiếu niên vốn là một kẻ bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, không tin bất cứ ai, lại còn ngang tàng trộm cắp để kiếm sống. Cả ở trong trại tập trung, cậu cũng luôn cướp giật, quấy nhiễu mọi người.

Vị linh mục khả ái đã từng bước, tìm cách tiếp cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã hoán cải được con người tưởng đã trở nên chai lì và vô phương cứu chữa. Dẫu vậy, ngài thấy vẫn chưa đến lúc nói với kẻ mới hoán cải về Thiên Chúa.

Thế rồi, một hôm, cha được tin bản thân sẽ bị chuyển gấp tới trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ nghe danh xưng, trại viên cũng phải kinh hoàng khiếp sợ, vì đó là nơi hủy diệt con người bằng những hầm hơi ngạt và lò thiêu xác. Ngài cố giữ bình tĩnh khi vội vã chia tay mọi người. Ðứng trước mặt cậu thiếu niên vừa mới quyết định hoàn lương, ngài rất muốn giúp cậu hiểu biết về Chúa, tin Chúa và theo Chúa.

Cha nhìn thẳng vào mặt cậu, nhỏ nhẹ hỏi "Này, cháu yêu của bác, cháu có muốn tin vào một người tên là Giêsu không?" Cậu thiếu niên đứng thẳng người lên, trả lời cha bằng một câu hỏi chân thành: "Nhưng thưa bác, ông Giêsu là ai, để cháu có thể tin?" Biết mình không còn thời gian để cắt nghĩa Kinh Thánh và giới thiệu chi tiết về Ðức Giêsu, cha yên lặng một chút, ngẫm nghĩ rồi buột miệng nói với cậu: "Người đó giống như bác!" Cậu thiếu niên đăm đăm nhìn ngài rồi khẳng khái tuyên xưng: "Vâng, nếu ông Giêsu ấy là một người giống như bác, thì cháu tin!"

Sau thế chiến, người ta không còn gặp lại vị linh mục ấy nữa, nhưng chắc chắn một điều là câu chuyện này được một người sống sót, qua các trại tập trung thuật lại như một chứng từ sống động, người ấy chính là cậu thiếu niên năm xưa, giờ đã là một người tân tòng Công giáo.

Chúa Giêsu đưa hai điều răn ấy sống động nơi con tim con người

Câu chuyện có thực vừa kể giúp ta lãnh hội ý của Ðức Giêsu muốn nói với người thông luật là kẻ đã nêu vấn đề "Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn lớn nhất?" (Mt 22,35). Ý của người thông luật này là muốn biết điều răn nào là điều răn lớn nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Ðức Giêsu trả lời cho thấy không những điều răn lớn nhất là "Ngươi phải yêu mến Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi" (Ðnl 6,5), nhưng còn cho thấy điều răn cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như chính mình (Lv 19,18). Ðiều khiến cho hai điều răn này giống nhau là ở tình yêu được thể hiện nơi con tim con người. Ngang qua con tim, người tin vào Giavê Thiên Chúa mà yêu mến Ngài "hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn người đó, thì cũng ngang qua con tim, người đó phải phải yêu người thân cận như chính mình".

Như vậy, Ðức Giêsu đưa người thông luật từ ý niệm trừu tượng về điều răn lớn nhất tới hành động cụ thể nơi con tim người tín hữu. Mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, thì trong cụ thể, cũng phải yêu thương người bên cạnh như chính mình. Sau này thư thứ nhất của Gioan sẽ nói: "Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (4,20).

Nhưng cần phải trở về với Cựu Ước là bối cảnh nơi người thông luật nêu vấn đề, trước khi bàn tới Tân Ước.

Mười điều răn được công bố trên núi Sinai, tóm tắt các trách nhiệm dân Thiên Chúa. Giavê Thiên Chúa ban mười điều răn này cho dân Giao Ước khoảng năm 1450 trước Công Nguyên. Mười điều răn này được ghi khắc trên hai bia đá sau được lưu giữ trong một chiếc hòm, gọi là hòm bia, như là những vật thánh thiêng nhất trong đạo của Cựu Ước.

Mười điều răn xuất hiện ở hai bản văn Cựu Ước (xh 20,2-17 và Ðnl 5,6-21). Mười điều răn này diễn tả cốt lõi của mối tương quan mà Giavê Thiên Chúa đòi hỏi dân Ngài phải duy trì đối với Ngài. Theo những điều Ngài đòi hỏi dân phải giữ, ta cũng biết được về chính bản thân Ngài. Vậy Mười điều răn không chỉ nói với dân Ítraen nhưng còn nói với cả loài người qua mọi thời về Thiên Chúa, Ðấng tạo thành nên mọi người và mọi sự. Các điều răn đều được lập lại dưới hình thức nào đó trong Tân Ước, với điều răn "giữ ngày sabát" trở thành điều răn "giữ ngày Chúa Nhật".

Có thể tóm tắt mười điều răn như sau:

Tấm bia thứ nhất dạy ta về tương quan đối với Thiên Chúa qua 4 điều răn là:

1. Không được thờ Thiên Chúa nào khác

2. Không được thờ ngẫu tượng.

3. Không được kêu tên Thiên Chúa vô cớ.

4. Phải giữ luật ngày Sabát.

Tấm bia thứ hai dạy ta về tương quan đối với đồng loại với 6 điều răn là:

5. Hiếu thảo đối với mẹ cha.

6. Không được giết người.

7. Không được phạm tội ngoại tình.

8. Không được lấy của người khác.

9. Không được làm chứng gian.

10. Không được ước ao của người khác.

Mười điều răn đều nhắm mục đích tích cực là hướng dân Thiên Chúa tới cuộc sống tròn đầy như được Thiên Chúa dựng nên, theo lời ông Môsê tuyên bố với dân: "Anh em hãy đi đúng con đường mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã truyền cho anh em, để anh em được sống, được hạnh phúc và được sống lâu trên mảnh đất mà anh em sẽ chiếm hữu" (Ðnl 5,33). Ai cũng cần được Thiên Chúa hướng dẫn hầu tránh những chọn lựa có hại cho bản thân và người khác, đồng thời hưởng được tình thương của Thiên Chúa.

Ðức Giêsu đến công bố Nước Thiên Chúa nhằm giúp người ta đạt tới các mối phúc thật (Mt 5,1-12). Các mối phúc thật này không dựa trên cơ sở một thứ tình yêu siêu việt trừu tượng. Con người hạnh phúc thật phải nghiệm thấy nơi con tim của mình sự tràn ngập do tình yêu Thiên Chúa, nhờ đó có sức mạnh để yêu tha nhân như chính mình.

Con đường của các mối phúc

Vậy mối phúc đích thực số một phải là sở hữu Nước Thiên Chúa. Con người nghèo tận căn sẽ "yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn "(Mt 22,37). Người đó không còn bị vướng mắc do đam mê nào, cho nên dễ dàng nhận ra mọi sự và cả tạo thành, đều do Thiên Chúa ban. Cho nên người đó, có thể nói, sở hữu được Nước Thiên Chúa như lời Chúa Giêsu dạy: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ" (Mt 5,3). Ðúng như lời người cha nhân hậu nói với con cả trong Tin Mừng Luca: "Con à, lúc nào cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 15,31).

Ðiều mà mối phúc thứ hai nhắm là "được đất Thiên Chúa hứa làm gia nghiệp" (Mt 5,4). Ðất hứa nói đây chính là Nước Thiên Chúa. Người thụ hưởng sẽ chẳng còn phải bon chen để tranh dành ảnh hưởng. Ngược lại, người đó chỉ còn sung sướng làm cho Nước đó được chan hoà dưới sự lãnh đạo của Ðấng kêu gọi mọi người học với Người để sống hiền hậu và khiêm nhường (x. Mt 11,29). Ðó là con đường tốt nhất để yêu tha nhân như chính mình.

Ðiều mà mối phúc thật thứ ba nhắm là được chính Thiên Chúa ủi an (Mt 5,5). Ðể được phúc lành đó, người thụ hưởng cần dựa vào sức mạnh của tình yêu của chính Thiên Chúa, để gánh vác trên vai biết bao hậu quả của tội đang hoành hành trên thế giới. Ðó thực sự là con đường thánh giá đưa tới vinh quang. Người đi trên con đường này, sẽ có thể yêu tha nhân như chính mình dưới sự lãnh đạo của Chúa Giêsu.

Ðó chính là con đường mà vị linh mục của trại tập trung Ðức Quốc Xã trong câu chuyện nói trên, đã đi và đã được chính Thiên Chúa ủi an trong Nước của Ngài.

 

55.Chúa Nhật 30 Thường Niên

(Suy niệm của Lm Nguyễn Bình An)

Vì yêu bà goá Simpson, Vua nước Anh Edward Đệ Bát đã bằng lòng bỏ ngai vàng để sống đời dân giả hạnh phúc với người yêu. Đây là cuộc tình lý tưởng và chân thật. Kẻ cho, người nhận thấu hiểu và thực thi lời Chúa Kitô dạy “tình cao thượng nhất là tình dám thí mạng cho người yêu” (Ga 15,13). Thế nào là thí mạng? Edward hy sinh và can đảm cởi bỏ vương miện và hoàng bào. Ông trả đời tiện nghi, rời cung điện, bằng lòng sống đơn giản và đạm bạc với người yêu. Nhiều người lắc đầu tắc lưỡi: “thằng khùng!” vì nhà cao bát vàng không hưởng. Nhưng Edward và Simpson đã hân hoan và sung sướng rũ sạch công danh và đời đời có nhau.

Chúa Kitô đã lấy thánh giá làm bằng chứng độc đáo nhất diễn tả tình của Ngài. Chúng ta sống trong hiểm họa và đang lao đầu vào cõi chết. Chúng ta thích thành công với danh, chức và tiên của. Chúng ta chen lấn, tranh giành, lật lọng, mưu mô và chà đạp trên mạng người. Chúng ta đánh giá tình bằng vẻ hào nhoáng và giả tạo bên ngoài. Chúng ta đang hôn mê trong bả phủ vân dẫn đến hư vô và tuyệt vọng. Các hình thức trên bộc lộ cái tình nhỏ bé, hạn hẹp, nông cạn một chiều và ích kỷ của nhân loại.

Chúa lấy thánh giá bắc qua miệng lửa, che đậy hố sâu nguy hiểm và thân thương dìu chúng ta bước qua hố an toàn. Chúa lấy máu và tình thương giập tắt ngọn lửa vô tình và bất nhân. Chúa dùng khổ đau đem lại sự thanh thản, an vui cho nhân loại. Một lần Chúa chết đi cho ức triệu người thoát vòng liên lụy và được giải thoát. Tình yêu cao vời này đã là nguyên nhân cảm hóa và dụ dẫn nhiều tâm hồn can đảm dấn thân theo Chúa. Họ kê vai san sớt gánh nặng và vui bước với Chúa. Họ là những chứng nhân sống, là hiện thân của Giêsu giữa đời. Họ đang nằm rên siết bên đường, đang hấp hối trong rừng sâu, đang thành công giữa đời và nhân ái trong mọi lãnh vực. Họ là những vị tử đạo vô tên tuổi và âm thầm hiến dâng. Nhờ họ mà đức tin được trưởng thành, tình yêu được thăng hoa và Lời Chúa được loan truyền.

Nhìn những người lính thủy quân lục chiến Hoa kỳ thực tập tại căn cứ 29 cây dừa (29 Palm), California: ngày ăn lương khô, uống nước lạnh, mặt mũi và áo quần dính đầy bụi, tay chân nứt nẻ, đêm nằm co ro trong túi ngủ trên bãi cát trong góc đá, và dưới đụm cây làm tôi cảm phục sự hy sinh cao độ của họ và chợt xót xa khi nghĩ đến cả trăm triệu người vô tình quên họ. Vì họ mà quốc gia này thành cường quốc. Vì họ mà dân chúng sống an ninh, tự do và độc lập. Vì họ mà trật tự thế giới được ổn định. Vì họ mà điện Capitol và Nhà Trắng tại Hoa thịnh Đốn thời danh và có thế giá trước Liên Hiệp Quốc và cộng đồng thế giới.

Người không có thánh giá là người chết. Người trốn chạy thánh giá là thiếu tài cao, đức trọng. Người rủa thánh giá là chưa hiểu ý nghĩa và mầu nhiệm thâm sâu của tình yêu. Người lợi dụng thánh giá là kẻ “đục nước béo cò” và “mượn đầu heo nấu cháo”. Họ giỏi khích lệ ai đó vác và vui chịu. Bản thân họ thì đong đưa ăn trên ngồi chốc. Tình chính chuyên và lý tưởng phải là tình như Đức Kitô, bằng lòng chết đi cho người mình yêu và trước khi vĩnh biệt còn gắng rán sức “tha cho họ, vì họ không ý thức việc họ làm.”

Phim “Người chết đang đi” (Dead-man walking) giới thiệu một nghĩa cử cao thương của chị dòng. Chị nhận diện Chúa trong tên tử tội. Chị chối bỏ thù oán của Cựu Ước và loan báo ơn tha thứ của Tân Ước. Chị cảm hóa được tù nhân và yêu cầu tử tội trước giờ thứ 24, nhìn vào chị, hiện thân của tình Chúa hầu an bình ra đi. Chị lên án chính sách giết người man rợ bằng ghế điện, hơi ngạt, thuốc độc và xử bắn. Theo chị, tình chân thật phải là tình tái sinh bằng mọi giá, như Chúa trên thập tự, đã thăng tiến và công chính hóa nhân loại thay vì kết án và nguyền rủa.

Như vậy tình “ông ăn chả, bà ăn nem” là tình ích kỷ. Tình “ong bướm” là tình tắc trách và trốn chạy. Tình “ly dị” là tình hèn nhát và thiếu thủy chung. Những mẫu tình này hình thành do sự bất toàn, đam mê, ích kỷ và hưởng thụ của con người. Đồng thời nó đang phá hủy tận gốc tình yêu cao đẹp Chúa đã khắc ghi trong tâm hồn. Bài học sống và chết cho tình yêu cần được mổ xẻ, phân tích, suy tư và thực hiện trong đời mỗi tín hữu. Nhờ đó mà tình của “cái thủa ban đầu lưu luyến ấy” sẽ “ngàn năm chưa dễ mấy ai quên”.

 

56.Yêu thương là truyền giáo

(Suy niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng)

"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn ngươi. Và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy ví dụ: bạn có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: "Con học bài đi, con phãi siêng học". Sở dĩ bạn bảo con mình chịu khó học là vì nó chưa chăm học. Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa yêu Chúa và cũng chưa yêu người. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn. Yêu như Chúa muốn đó là: "Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khốn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình".

Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả linh hồn, cả trí khôn. Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất của con người. Nếu thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một cái xác. Nếu không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù mang hình dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đần. Yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng, cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con người là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ. Nhưng chỉ có lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác bổ túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa. Chính Chúa Giêsu nói: "Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Yêu Chúa và yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối.

Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp đỡ người khác là bằng chứng chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa.

Tuần trước chúng ta cử hành ngày thế giới truyền giáo. Nhưng tôi nghĩ, sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết yêu thương. Lòng yêu thương anh em là phương thế truyền giáo hữu hiệu, vì nhân loại luôn luôn cần đến tình yêu. Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của một hành vi đạo đức nào đó, nên đạo Công giáo cũng là đạo của tình yêu. Không thể nói với ai, rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu thương. Đó là sự mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi. Nếu ta không biết yêu thương thì cũng không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương thật sự, tử tế, vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc làm tốt đó, tự bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là truyền giáo rồi.

Nhưng không thể lúc nào cũng có thể nói về Chúa được. Lấy ví dụ: một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học nào đó, chắc chắn thầy cô đó không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa được. Nhưng điều mà người thầy hay cô đó có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của mình như: vui vẻ với đồng nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò... Trong đời sống hằng ngày, mọi người có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm một cục đá trên đường bỏ vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các cụ già không bị té. Hoặc là ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi ra đường, ở nơi công cộng... tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ thể, ai cũng làm được.

Với tất cả những phương thế thực hành vừa đề nghị bên trên, không phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao? Đó cũng không là phương thế truyền giáo hay sao? tin rằng bạn và tôi đều luôn là những người cố gắng sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh hay chị ấy sống tốt vì họ là người Công giáo.

 

57.Điều răn nào trọng nhất?

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)

Điên rồ hay là đơn giản

Sau nhóm Xađốc, đến nhóm Pharisêu đặt câu hỏi với Đức Giêsu cũng với ý định bắt bẻ Người. Trước câu hỏi được nêu lên như một cái bẫy, Đức Giêsu đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ. Chỉ trong một câu ngắn, Đức Giêsu đã rút gọn toàn bộ lề luật, đổng thời cho thấy tinh thần cũng như nét phong phú của luật pháp.

Xưa kia, bộ luật Do-thái gồm những quy định phức tạp, chặt chẽ với 613 điều -368 điều cấm và 245 điều phải làm, nay được Đức Giêsu đơn giản hoá thành 2 điều, hay đúng hơn chỉ là một: "yêu mến Thiên Chúa và người thân cận." Qua việc nối kết lòng yêu mến Thiên Chúa với tình yêu thương đồng loại, Đức Giêsu đã tóm tắt toàn bộ Kinh Thánh, coi đó như giá trị luân lý nền tảng hay quy tắc của đời sống. Khi tuyên bố điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ nhất, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng tình yêu thương đồng loại có giá trị ngang hàng với lòng yêu mến Thiên Chúa.

Thế là từ nay, những khoản luật phức tạp, những chi tiết khắt khe đã được đơn giản hoá và trở nên thật dễ dàng. Tất cả bộ luật được thu tóm lại trong hai điều răn có liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Nói cách khác, toàn bộ các điều răn khác được đặt nền trên hai điều răn này như là những điều cơ bản không thể thiếu, đồng thời cũng hướng tới hai điều răn này như là mục đích sau cùng, như tiêu chuẩn phán đoán. Tất cả những khoản luật đi ngược với tinh thần của hai điều răn này đều trở thành vô giá trị.

Như vậy, Đức Giêsu mở rộng cánh cửa hướng đến sự công chính. Luật pháp chỉ là phương tiện và chỉ có được ý nghĩa khi nó diễn tả được điều cốt yếu là sự thánh thiện nội tâm, là đức tin sống động, là tình yêu nổng nàn thúc đẩy mọi hoạt động.

Thế nhưng, chính tóm tắt có vẻ đơn giản và dễ dàng này lại buộc những người theo Đức Kitô phải sống tích cực hơn và mỗi ngày một hơn. Người ta sẽ không chỉ tuân thủ những chi tiết luật pháp, nhưng là tình yêu mến. Mà lòng yêu mến không thể bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Đức Giêsu không nói: "Hãy yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bao nhiêu có thể", nhưng Người đã trích dẫn luật Mô-sê: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi."Tại sao Thiên Chúa lại đòi buộc con người phải yêu mến "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn"? Bản tính con người vốn yếu đuối, giới hạn và hay thay đỗi: điều này Người quá biết. Tại sao Người lại yêu cầu con người phải vượt quá khả năng của mình?

Thật ra, nếu đứng trên quan điểm sự khôn ngoan loài người, thì Tin Mừng toàn là những đòi hỏi vô lý, điên rổ. Những ai mong muốn tìm thấy trong Tin Mừng những câu châm ngôn hợp lý và dễ dàng, người ấy sẽ thất vọng. Quan niệm loài người sao có thể chấp nhận nỗi "Bài giảng trên núi", trong đó người nghèo được đề cao, người hèn kém được vào Nước Thiên Chúa, còn những người được coi là đạo đức lại bị loại trừ? Lý luận của con người làm sao có thể hiểu nỗi câu nói: "Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ giữ lấy được". (Mt 10,39)? Và sau cùng, còn gì gây chướng kỳ hơn khi chứng kiến con người tự nhận là Đấng Cứu độ, Đấng ban sự sống, lại chịu treo trên thập giá? Toàn là những chuyện điên rồ!

Nên nhớ rằng, Kitô giáo không phải là một tôn giáo có thể lý luận được cách có hệ thống. Tinh thần Kitô giáo luôn hàm chứa một khả năng gây bất ngờ, và cả khó khăn nữa. Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo trong đó mọi sự được sắp xếp cách trật tự và hoàn hảo như một tài sản được quản lý tốt. Trái lại, Kitô giáo luôn là một sự hướng tới: hướng tới vô biên, tới Đấng mà "tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của các ngươi không phải là đường lối của Ta."(Is 55,8). Đó là một sự điên rồ, điên rồ của tình yêu và đó cũng là tình yêu, tình yêu đối với Thiên Chúa và với đồng loại.

Từ "và" đến "trong"

Vào thời Đức Kitô và cả ngày nay nữa, vẫn có những trường phái tự cho rằng mình có quyền ưu tiên đưa ra giải thích đúng đắn về chân lý. Họ cho rằng quan niệm của mình là có lý còn của người khác thì sai lầm. Có lẽ con người ngày nay không cần quan tâm đến việc tìm hiểu những chi tiết trong các cuộc tranh luận của người Do-thái. Thế nhưng, khi suy niệm lời giải thích của Đức Giêsu, người ta sẽ thấy đòi hỏi luân lý được sáng tỏ và tìm ra được nét thống nhất cho mọi hoạt động và suy nghĩ của mình. Phải yêu mến Thiên Chúa "hay là" yêu mến người thân cận? Nên theo chủ trương chiều dọc "hay là" chiều ngang? Đó là những câu hỏi con người thời nay thường nêu lên. Với một số người, sự quan tâm đến những vấn đề cụ thể của con người có thể gây nguy hại cho lòng tin vào Thiên Chúa. Với những người khác, thời giờ dành cho Thiên Chúa có nguy cơ làm quên lãng người thân cận. Thật ra, ngày nay cũng như ngày xưa, Đức Giêsu luôn mời gọi và bó buộc phải vượt ra khỏi những song quan luận theo kiểu này. Chúng chỉ là những thứ mặt nạ che dấu thái độ từ khước cũng như những nỗi sợ hãi của con người. Trả lời cho nhà thông luật về điều răn trọng nhất, Đức Giêsu đã khẳng định đó là lòng yêu mến Thiên Chúa. Tuy vậy, Người còn đưa ra, hay đúng hơn, còn nối kết tình yêu thương đồng loại với lòng yêu mến Thiên Chúa, "cũng giống điều răn ấy".

Điều răn thứ hai này "cũng giống" điều răn thứ nhất, tức là cả hai đều quan trọng. Nói cách khác, điều răn thứ hai có bản chất và tầm quan trọng cũng "lớn" như điều răn thứ nhất. Dầu vậy, giống nhau chứ không phải là đồng nhất: hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, không thể đổi qua đổi lại với nhau như thể yêu đồng loại cũng là yêu mến Thiên Chúa, và yêu mến Thiên Chúa tức là yêu mến đồng loại: Thiên Chúa luôn ở phía chân trời và luôn mời gọi con người tiến xa hơn; đồng loại là thực tại gần gũi với những giới hạn cụ thể. Giáo huấn của Đức Giêsu có ý nhấn mạnh rằng yêu mến đồng loại cũng có tính cách khẩn thiết như là yêu mến Thiên Chúa, và không được xao lãng nhiệm vụ nào.

Do đó, không có vấn đề bên này hay bên kia. Không được quyền nói "hay là", nhưng phải nói "và". Một cách chính xác hơn: chỉ có thái độ mở ra với Thiên Chúa mới dẫn đến tình yêu thương đồng loại cách đích thực; và chỉ có thái độ sẵn sàng với người khác mới cho phép con người nói rằng mình yêu mến Thiên Chúa mà không dối trá. Sau đó, "và" sẽ biến thành "trong": con người yêu mến Thiên Chúa "trong" người thân cận, và yêu mến người thân cận "trong" Thiên Chúa. Huyền nhiệm và con người hành động không phải là kẻ thù của nhau, nhưng là anh em của nhau.

Bài học phải thuộc lòng

Bài Tin Mừng này con đã thuộc lòng con biết rất rõ điều răn phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bắt nguồn từ một tâm tình duy nhất. Thế nhưng, hình như bản Tin Mừng chỉ là một thứ kỷ niệm, tựa những câu chuyện cổ tích thời thơ ấu, như một điều không có thực. Làm sao con có thể yêu nỗi mình và cả người khác đang vắng mặt?

Không, con chỉ mới thuộc mặt chữ, con quên rằng chính Thầy đang thì thầm trong hồn con, và đang thúc đẩy con ra khỏi mình. Con đã quên rằng lề luật không phải là nhà tù, cũng không phải là một sự sắp xếp. Trái lại, đó là một lời mời gọi hướng tới tình yêu, đó là lời kêu mời hãy nhận ra rằng: bàn tay con được dựng nên để nắm lấy, và trái tim con được dựng nên để thứ tha. Lắng nghe lời Thầy, con sẽ không cảm thấy gì khác hơn là con đang mang trong mình một khát vọng vô biên. Con nghĩ rằng mình thuộc lòng bài Tin Mừng, nhưng con đã không hiểu thấu Thầy là ai, cũng chẳng hiểu rõ các điều răn. Thầy là tình yêu, và con đã quên mất - Thầy đã đến gặp con để con được sinh ra, và cũng trở thành tình yêu. Thầy biết rõ con không hiểu về chính con, cũng không hiểu về người khác, về Thiên Chúa. Chính vì vậy, Thầy đã đến trần gian. Hãy đến và sống theo Thầy bấy giờ con sẽ thuộc và hiểu rõ về Tin Mừng.

 

58.Yêu như Chúa yêu

(Suy niệm của Lm. John Nguyễn Văn Tươi. Utica-NY)

Con người luôn khao khát và tìm kiếm hạnh phúc, vì hạnh phúc mang lại cho ta niềm vui, sức sống và nghị lực. Để hiểu thế nào là tình yêu và hạnh phúc, thì chúng ta cần phải biết yêu thương và sống cho tha nhân, đó cũng là giới luật yêu thương của Chúa Giê-su. Người ta không thể có tình yêu và hạnh phúc nếu người đó không biết yêu thương. Lời yêu thương luôn là lời êm đẹp, quyến rũ và hấp dẫn. Yêu và được yêu là niềm hạnh phúc nhất của con người.

Ngày nay, người ta nói rất nhiều về tình yêu, tình yêu được diễn tả trong thơ ca, trong âm nhạc, trong phim ảnh v.v. Tình yêu thì rất đẹp. Nhưng để hiểu và sống đúng với giá trị của tình yêu là điều mà chúng ta cần đáng quan tâm và chia sẻ với nhau qua thông điệp Lời Chúa hôm nay. Như nhà thông luật đặt ra câu hỏi với Chúa Giê-su:" Thưa Thầy, trong sách luật Mô-sê, điều răn nào là quan trọng nhất?" Đức Giê-su đáp:" Người phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng hết linh hồn và hết trí khôn người và yêu người thân cận như chính mình vậy." Lời Chúa Giê-su giải thích rất rõ ràng, yêu Chúa chính là yêu người. Yêu người chính là yêu Chúa. Vì người ta không thể yêu Chúa mà không yêu thương người anh em thân cận. Như lời Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô nói rằng, đạo đức không phải là một thứ sản phẩm để người ta quảng cáo, nhưng là để sống và thực hiện đời sống đức tin, nó được biểu hiện trong mối tương quan với tha nhân và Thiên Chúa.

Người ta có thể dễ dàng nói lời yêu với Chúa, nhưng lại rất khó nói lời yêu thương với một người phản bội, đối nghịch và là kẻ thù với mình. Hằng ngày, có những người hàng xóm đang sống chung quanh ta, họ đang làm cho ta phải sự ganh tỵ và ghen ghét vì họ giàu có, tài năng và hạnh phúc hơn ta. Những thứ cám dỗ đó làm cho ta nhìn người thân cận như là đối thủ cạnh tranh hơn là đón nhận và cảm phục họ, và tha nhân trở thành địa ngục cho mình. Hơn nữa, trong đời sống gia đình, có biết bao gia đình hôm nay đang tan vỡ và ly dị. Họ không có hạnh phúc vì có quá nhiều sự khác biệt trong cuộc sống hôn nhân. Họ không còn cảm nhận được tình yêu và hy sinh dành cho nhau, thì lời nói tha thứ, khoan dung lại càng trở nên khó khăn hơn. Họ phải sống trong đau khổ, uẩn ức và chịu đựng, đó là những nguyên nhân dẫn đến sự tan vỡ hạnh phúc trong đời sống gia đình. Cuộc sống gia đình hôm nay đang gặp phải những thách đố và khó khăn, vì họ có quá nhiều áp lực bởi sự so sánh giàu nghèo, tính toán hơn thua. Tình yêu được đặt trên cung bậc bởi sự đánh giá giàu nghèo và địa vị. Cho nên, con người luôn đi tìm hạnh phúc trong cái hoàn hảo, và kiếm tìm tình yêu trong ảo tưởng hơn là những gì họ đang có. Đó là thứ tình yêu "ảo" qua các trang mạng, sách báo và phim ảnh mà người ta cho đó là thật. Trong khi đó, gia đình mái ấm hạnh phúc thì lại coi thường và bị bỏ rơi. Người ta thường coi hạnh phúc là được hưởng thụ hơn là sự hy sinh. Thật sự, không có hạnh phúc tột đỉnh nào trên trần gian này lại phải không phải trả giá để đạt được nó.

Tình yêu chỉ có giá trị và mang lại hạnh phúc đích thực khi người ta biết chấp nhận và sống cho tình yêu. Như lời Chúa Giê-su dạy: " Không có tình yêu lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình vì người mình yêu." Chỉ có tình yêu nơi Đức Giê-su là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu làm xóa tan hận thù. Tình yêu làm biến đổi thù thành bạn. Tình yêu là sự tha thứ cho kẻ đã giết mình. Tình yêu đã chữa lành biết bao con người tội lỗi quay trở về. Tình yêu Thiên Chúa vượt lên trên tất cả. Thiên Chúa yêu thương con người và muốn con người hạnh phúc, nên Ngài đã ban Con Một của Ngài là chính Đức Giê-su đã chết cho nhân loại và phục sinh để ban ơn cứu độ cho con người. Ai tin thì sẽ được sống và hạnh phúc đời đời.

Tóm lại, nếu chúng ta muốn được yêu và sống yêu thương như Chúa yêu, thì chúng ta hãy vượt lên trên chính mình, đi ra khỏi sự "cái tôi" thấp hèn và ích kỷ. Tình yêu là sống. Sống là để yêu. Tình yêu mang lại hạnh phúc, nhưng tình yêu phải được gắn liền với tình yêu thạp giá Chúa Ki-tô, thì mới đơm hoa kết trái của đức ái trọn hảo. Như Thánh Phao-lô viết: " Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả và chịu đựng tất cả".

Yêu như Chúa yêu. Tình yêu là không chỉ biết đón nhận mà còn phải biết cho đi. Cho và nhận là bản chất của tình yêu, như vị thánh Đức Giáo Hoàng Gioan PLII đã nói với kẻ đã sát hại ngài rằng: "Tôi luôn cầu nguyện cho người anh em đã bắn vào tôi, người tôi đã chân thành tha thứ". Vì lời tha thứ luôn là điều cao quý nhất làm xóa tan lòng hận thù và chữa lành vết thương tâm linh, để ta có sức mạnh tiếp tục yêu thương. Amen.

 

59.Chúa Nhật 30 Thường Niên

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Mọi người đều biết, các giới răn của đạo ta quy về hai việc mến Chúa và yêu người. Nhưng muốn biết phải mến Chúa thế nào và yêu người làm sao thì phải dựa vào Thánh Kinh. Những bài đọc Thánh Kinh hôm nay cũng nói về hai điều đó. Tuy là những bài viết ở những thời đại khác nhau và đã xưa rồi; nhưng suy nghĩ, chúng ta càng nhận thấy tính cách trường cửu của Lời Chúa.

Bài sách Xuất hành đưa chúng ta trở về thời Cựu Ước xa xưa. Chúng ta sẽ ngạc nhiên về tính cách nhân đạo của nếp sống đạo đức thời bấy giờ. Và chúng ta sẽ hiểu bối cảnh của bài Tin Mừng hơn để nhận ra uy tín của Ðức Kitô khi khẳng định về luật mến Chúa yêu người. Cuối cùng thư Phaolô sẽ cho chúng ta thấy gương sáng của một giáo đoàn biết đón nhận và thi hành Lời Chúa.

A. Trước Hết, Thời Xưa Ðã Có Nhân Ðạo

Chúng ta thường nghĩ rằng ngày xưa người ta chỉ biết lấy mắt trả mắt, răng đền răng. Hơn nữa chúng ta còn dám so sánh và cho rằng ở những thời đại xa xưa của Abraham, Môsê và Ðavít, người ta chỉ cư xử với nhau bằng luật rừng, chứ không thể cư xử với nhau theo tình bác ái. Bài sách Xuất hành hôm nay khiến chúng ta phải dè dặt hơn.

Dĩ nhiên đây không phải là những luật đã được ban bố vào thời Xuất hành. Người ta quen lấy những luật ở những thời đại về sau đem cắm vào những thời đại trước và đặt nơi môi miệng của nhà luật pháp trứ danh là Môsê để chúng được thêm uy tín. Tuy nhiên chúng vẫn căn cứ vào biến cố Xuất hành như ta thấy ở ngay câu đầu tiên trong bài đọc hôm nay.

Chúa truyền cho dân: "Khách cư ngụ, ngươi không được ngược đãi và áp bức nó, vì các ngươi đã là khách cư ngụ ở đất Aicập". Và Người dạy không được ức hiếp mẹ góa con côi, kẻo nó kêu lên Người thì khí nộ Người bốc lên làm cho người ta rơi vào cảnh vợ góa con côi.

Chúng ta thử đặt các lệnh truyền này vào thời đại của chúng cách đây ít nhất cũng phải gần 3,000 năm. Ðó không phải là nhân đạo và văn minh sao? Nhất là luật tiếp theo. Phải cho vay mà không được lấy lãi. Ðược giữ vật thế chân để tránh sự lạm dụng, nhưng những đồ cầm đó phải trả lại trước khi mặt trời lặn, kẻo đêm lạnh người nghèo không có áo làm mền.

Thật, ngày xưa đã có những luật không cho phép người ta bóc lột nhau. Nhưng ở đây không phải chỉ có vấn đề nhân đạo, mà còn có cơ sở đạo đức. Chúa dạy dân phải giữ các lệnh truyền bác ái, không phải vì mọi người là đồng loại, hoặc vì phải nhớ lại hồi trước dân đã từng là nạn nhân của nhiều sự bóc lột, nhưng nhất là vì Thiên Chúa là Ðấng lân tuất. Người luôn luôn xót thương và bênh vực những kẻ khó nghèo và yếu thế. Người chống lại bóc lột. Người đòi cho mọi người được bình đẳng vì tất cả đều là hình ảnh của Người. Người ta muốn đẹp lòng Người thì phải săn sóc đến tha nhân. Người không tách rời lòng đạo đức và tình đồng loại. Người không đồng hóa hai vấn đề mến Chúa và yêu người; nhưng Người chỉ chấp nhận những lòng mến Chúa đồng thời cũng thương người.

Ý định của Thiên Chúa thì rõ rệt như vậy; nhưng thường khi người ta lại không thi hành. Ngay ở trong Dân Chúa, bất công xã hội và bóc lột những kẻ yếu hèn là chuyện không hiếm hoi. Các tiên tri của Chúa phản ứng mạnh mẽ, nhưng cho đến thời Chúa Yêsu vẫn còn có những khuynh hướng pháp luật muốn tách rời hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Thậm chí người ta còn muốn căn cứ vào lòng mến Chúa để coi nhẹ bổn phận thương người. Ðọc kỹ bài Tin Mừng hôm nay chúng ta sẽ thấy như vậy.

B. Cả Hai Giới Răn Ðều Quan Trọng

Mở đầu, thánh Matthêô đã cho chúng ta thấy bầu khí tranh chấp đố kỵ của thời Ðức Yêsu. Người theo Biệt phái, kẻ theo Sađốc phái. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ gặp nạn. Từ lãnh vực chính trị xã hội, cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp có tới 613 khoản: 248 lệnh truyền và 365 điều cấm. Nhưng khoản nào trọng hơn khoản nào và khoản nào quan trọng hơn hết? Ðó là vấn đề sôi bỏng. Tùy theo người ta nghiêng về phụng vụ hay xã hội, về Ðền thờ hay về đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ Biệt phái hay Sađốc phái, thái độ dè dặt hay hợp tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Ðức Yêsu. Lập trường của Người rất quan trọng, vì dân chúng sẽ tùy đó mà biểu lộ cảm tình với phe nào. Nhưng tuyên bố lập trường ấy ra cũng thật nguy hiểm cho Người. Phe đối địch sẽ có thêm chứng cớ để tiêu diệt Người.

Tuy nhiên đó chỉ là những suy tính của người ta. Ðã nhiều lần họ gài bẫy Người. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Ðược hỏi ý kiến về giới răn trọng nhất. Người trả lời như hết mọi người Dothái đạo đức: Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi, và hết lòng trí ngươi. Ðó là câu trong sách Thứ luật (6,5), là kinh nguyện hằng ngày của Dân Chúa. Nhưng Ðức Yêsu không dừng lại ở đó. Người còn nói tiếp: Ðó là giới răn thứ nhất. Thứ đến cũng quan trọng như vậy, là ngươi phải thương đồng loại như chính mình. Người không đồng hóa hai việc mên Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau, nhưng quan trọng như nhau; và vì thế không được sao nhãng nhiệm vụ nào. Nét độc đáo trong câu trả lời tức là lập trường của Ðức Kitô là ở chỗ đó. Người ta vẫn nói phải mến Chúa và thương người, phải có thiên đạo và nhân đạo. Nhưng thông thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ rời nhau, những bổn phận không liên lạc gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong Ðền thờ và không thương người ngoài xã hội hoặc thương người nơi xã hội nhưng lại không mến Chúa trong Ðền thờ. Nhất là người ta quen coi thương người là thứ yếu sánh với nhiệm vụ phải mến Chúa.

Ðối với Ðức Kitô thì không được như vậy. Phải thương người cũng như mến Chúa. Ưu tiên là mến Chúa nhưng đồng thời cũng phải thương người. Sau này thánh Yoan sẽ giải thích: không thể có lòng mến Chúa vô hình nếu không thương người hữu hình (1Yn 4,20). Và khi dạy phải thương người như chính mình, Ðức Yêsu không có ý bảo phải thương mình trước, hay cũng phải thương cả tha nhân nữa. Câu nói của Người có nghĩa rằng: phải thương người hết mình như đã mến Chúa hết linh hồn.

Cuối cùng một nét độc đáo nữa trong câu trả lời của Ðức Yêsu là: tất cả Luật pháp và Tiên tri đều quy về hai giới răn mến Chúa và yêu người ấy. Và như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể mọi lời giáo huấn đều nhằm phát triển lòng mến Chúa và yêu người.

Vấn đề tranh chấp xưa nay giữa các phe nhóm đã được giải quyết. Chẳng phe nào thắng nhưng nhóm nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn Lề luật. Nói đúng ra phe nhóm nào cũng đã lầm lạc. Khi đã không coi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa và thương người như nhau, người ta đã làm mất quân bình, gây ra lệch lạc trong đời sống. Ðức Yêsu đã mang ơn cứu độ đến. Ai đón nhận thì phải mến Chúa nhưng đồng thời cũng phải thương người. Thái độ đó, một phần nào chúng ta có thể nhìn thấy nơi giáo đoàn Thessalônikê của thánh Phaolô, mà bài thư hôm nay như muốn nói lên.

C. Một Gương Thực Hành

Có thể nói đây là những đoạn văn đầu tiên của bộ sách Tân Ước. Phaolô đã viết bức thư này trước hết vào khoảng năm 51, tại nhà Aquila sau khi Timôthê đã mang mực và da thuộc đến. Lần đầu tiên biên thư cho một giáo đoàn, nên Phaolô có một thái độ trịnh trọng đạo đức, và hầu như phụng vụ nữa.

Người tạ ơn Chúa vì sự sống đạo nơi giáo đoàn ấy. Giáo đoàn Thessalônikê vừa bắt chước Chúa vừa bắt chước các Tông đồ. Họ sống kết hợp với Chúa nhưng cũng kết hợp với các Tông đồ vì họ đã thấy các Tông đồ đến lo việc của Chúa ở nơi họ nhưng đồng thời đã tỏ ra đầy tinh thần phục vụ họ. Mến Chúa và yêu người không phải là hai phận sự tách biệt, nhưng cũng quan trọng như nhau và phải tiến hành đồng đều. Chính vì vậy mà tiếng tăm của giáo đoàn này đã bay đi khắp nơi và Thessalônikê đã trở thành giáo đoàn gương mẫu. Mọi nơi đều ca ngợi họ về hai điểm: đón nhận Lời Chúa cũng như đón nhận các Tông đồ. Họ vừa mến Chúa vừa thương người, vừa kết hợp với Chúa vừa hiệp nhất với nhau.

Cảm động và chân thật hơn nữa là thái độ đón nhận này quả thật rất siêu nhiên, vì là đón nhận giữa bao nỗi gian truân, nhưng lại hoan hỷ trong Thánh Thần. Ðiều này làm chứng Tin Mừng mà Phaolô đem đến không phải là lời của loài người nhưng là Lời của Thiên Chúa. Dân Thessalônikê đón nhận không phải vì thấy đó là lời lẽ khôn ngoan xác thịt, nhưng là Lời có sức mạnh của Thần Khí. Họ phải lướt thắng nhiều khó khăn để đón nhận và đón nhận vui vẻ. Thế nên họ thật đã tham dự vào mầu nhiệm tử nạn phục sinh của Chúa. Họ đã lãnh nhận được chính ơn cứu độ của mầu nhiệm thập giá. Phaolô đánh giá việc họ đón nhận là việc bắt chước Chúa Yêsu và các Tông đồ; bởi vì khi đón nhận Lời Chúa trong gian truân mà vui vẻ thì rõ ràng người ta đã bắt chước các Tông đồ trong việc dạn dĩ rao giảng Lời Chúa giữa ngăn cấm và đe dọa. Nói cách khác, lòng mến Chúa và thương người nơi giáo đoàn Thessalônikê không theo lẽ thế gian nhưng tựa vào sức mạnh của Thánh Thần. Ðó là nếp sống đạo chân thật vì hoàn toàn siêu nhiên. Phaolô có lý do để hãnh diện vì nếp sống đạo ấy. Người tạ ơn Chúa thật là phải lẽ. Và người không nói sai khi tuyên bố đó là nếp sống phải trở nên gương mẫu cho mọi giáo đoàn.

Chúng ta nghĩ sao về các lời Kinh Thánh ấy? Chúng ta đã thâm tín tất cả Luật pháp và Tiên tri đều quy về hai giới răn mến Chúa và yêu người. Ðó vẫn là hai việc khác nhau: không thể coi mến Chúa là thương người; và cũng không được coi thương người là mến Chúa. Nhưng đó là hai việc quan trọng như nhau; phải thi hành cả hai, phải quý cả hai như một; phải kết hiệp với Chúa và đồng thời cũng phải hợp nhất với mọi người.

Giáo xứ chúng ta có được như giáo đoàn Thessalônikê không? Gặp gian truân, khó khăn, chúng ta có "bắt chước" Chúa và các Tông đồ không? Có giữ đạo và đời không? Có vừa làm tốt đời và đẹp đạo không? Biết đâu những lời trong bài sách Xuất hành không đang còn có giá trị khẩn trương? Chung quanh chúng ta có những đồng bào mới đến. Những anh chị em ấy có được lập tức đón nhận như đồng bào ruột thịt không? Những cảnh mẹ góa con côi cũng không hiếm ở giữa chúng ta. Và chắc chắn nhiều người đang lâm cảnh vay mượn và cần giúp đỡ. Lòng nhân đạo khi gặp khó khăn có vươn lên được nhờ sự giúp đỡ của đức tin không?

Các tín hữu ở Thessalônikê đã nhờ việc "bắt chước" Ðức Kitô mà có một nếp sống đạo chân thực và tốt đẹp. Giờ đây, Ðức Kitô đến hiện diện trong mầu nhiệm tử nạn phục sinh nơi bàn thờ. Chúng ta muốn tham dự vào mầu nhiệm của Người. Nhưng việc tham dự này chỉ chân thật khi chúng ta quyết tâm bắt chước cuộc đời của Ðức Kitô. Chúng ta sẽ làm chứng mình đã tham dự thánh lễ chân thật, nếu sau khi về nhà, chúng ta sẽ sống tốt cả hai nhiệm vụ mến Chúa và yêu người. Chúng ta sẽ là Kitô hữu tốt khi chu toàn các bổn phận đối với cả đạo và đời. Xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta.

 

home Mục lục Lưu trữ