Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 64

Tổng truy cập: 1362230

BIẾN ĐỔI

BIẾN ĐỔI

 Trầm Thiên Thu
Mỗi người chỉ có một cuộc sống, tức là chỉ sống một lần và chết một lần, không ai có thể sống lại. Đó là điều ai cũng biết dù chưa bao giờ trải nghiệm. Dù có sự sống lại nhưng cũng không xảy ra. Điều đó chỉ có Thánh sử Luca kể lại: Chuyện La-da-rô nghèo khổ và phú hộ (x. Lc 16:19-31).
Nhưng sự sống lại đã xảy ra thật: Đức Kitô bị giết chết trên Thập Giá và Ngài đã sống lại. Nếu Đức Kitô không sống lại, niềm tin của chúng ta chỉ là hoang đường! Nhưng Đức Kitô đã thực sự sống lại, như vậy đức tin của chúng ta đã được “đóng ấn tín đời đời”. Điều đó đã được Thánh Phaolô minh chứng (x. 1 Cr 15:17).
Là con người bình thường thì ai cũng có nỗi nhớ. Gọi là nỗi nhớ thì không có giới tính. Vậy tại sao lại gọi là nỗi nhớ đàn bà mà không là nỗi nhớ đàn ông? Phải chăng vì phụ nữ có “khoảng nhớ” lớn hơn nam giới? Có phần đúng. Theo khoa học, MỘT bộ óc nhưng có HAI bán cầu não. Phụ nữ “nói nhiều” hơn nam giới vì họ sử dụng cả hai bán cầu não một lượt, còn nam giới chỉ sử dụng một bán cầu não.
Như vậy, có thể nói rằng “khoảng nhớ” của phụ nữ lớn hơn nam giới. Trong tình trường bình thường, khi bị phụ tình (hoặc tình phụ), nỗi nhớ ở phụ nữ vẫn “lâu dài” hơn ở nam giới là vậy. Khoa học không có gì trái ngược với đức tin Công giáo. Phụ nữ được Thiên Chúa ưu đãi nhiều điều lắm!
Thánh Phêrô xác nhận: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào” (Cv 10:34). Điều này vừa đáng mừng vừa đáng lo. Thật “đáng mừng” vì chúng ta không sợ bị thua thiệt: Thiên Chúa công minh, không thiên vị. Nhưng lại “đáng lo” nếu chúng ta ảo tưởng mà tự nhận mình “ngon” hơn người khác.
Thánh Phêrô nói về biến cố đã xảy ra tại Giu-đê, bắt đầu từ miền Ga-li-lê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng, và nói về lai lịch về Đức Giêsu xuất thân từ Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Ngài. Đi tới đâu là Ngài thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Ngài.
Các tông đồ đã can đảm làm chứng về mọi việc Đức Giêsu đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem: “Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính Người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội” (Cv 10:39-43).
Đức Kitô sống lại và chúng ta cũng sẽ được sống lại như Ngài, một ân huệ quá lớn, vì thế chúng ta phải “tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:1). Chính “tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” nên tử thần đã chiến bại ê chề, mất khả năng hoành hành như trước. Do đó, tác giả Thánh Vịnh hân hoan: “Tôi không phải chết, nhưng tôi sẽ sống, để loan báo những công việc Chúa làm” (Tv 118:17). Sự kỳ diệu nối tiếp nhau: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta” (Tv 118:22-23). Chỉ có Thiên Chúa mới khả thi những điều như vậy!
Thánh Phaolô xác định và nhắc nhở: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới” (Cl 3:1-2). Thật vậy, Đức Kitô là nguồn sống của chúng ta, Ngài xuất hiện thì chúng ta cũng được xuất hiện với Ngài và cùng Ngài hưởng phúc vinh quang (Cl 3:3-4).
Thánh Phaolô nói thêm: “Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật, mà ăn mừng đại lễ” (1 Cr 5:7-8). Tất cả đều biến đổi hoàn toàn, điều đó có thể là được biến đổi hoặc tự cố gắng biến đổi.
Trình thuật Ga 20:1-9 rất ngắn gọn. Chàng Gioan cho biết: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ và thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp người “tổ trưởng” Phêrô và người môn đệ được Đức Giêsu thương mến – tức là chàng trai trẻ Gioan, người tựa đầu vào ngực Thầy Giêsu và nghe được “nhịp tình thổn thức” của Thầy ngay trong Bữa Tiệc Ly.
Bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu”. Thật tội nghiệp, chắc hẳn Bà buồn lắm, và Bà thấy nhớ Thầy Giêsu da diết. Các môn đệ nghe nói vậy cũng cảm thấy hoang mang. Vì trong thời gian này, “vụ án Chúa Giêsu” vẫn còn gây chấn động mạnh, chưa thể nào lắng xuống, ai cũng sợ người Do-thái khủng bố và áp bức, thế nên chẳng ai dám đi lại nhiều, có ở nhà thì cũng đóng cửa kín mít, đi đâu thì phải mắt trước mắt sau, đi như chạy, vội vàng như bị ma đuổi vậy.
Sau khi nghe Bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói, ông Phêrô và Gioan liền đi ra mộ xem sự thể ra sao. Cả hai người cùng chạy, nhưng Gioan còn trẻ nên chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước. Ông Gioan cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào, đợi cho Phêrô đến nơi và vào trước, “kính lão đắc thọ” theo phép lịch sự.
Ông Phêrô vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. Bấy giờ Gioan cũng đi vào, đã thấy và đã tin. Lúc này hai người tin thật rồi, chứ không như trước đó. Và hai ông đã hiểu rằng Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết theo như Kinh Thánh đã nói.
Hai năm rõ mười, mọi điều đã tỏ tường, ai cũng hân hoan tột độ, và cũng không còn sợ hãi nữa. Chính Đức Kitô Phục Sinh đã biến đổi họ, từ con người nhút nhát thành can đảm, từ con người yếu đuối thành mạnh mẽ, ngay cả các phụ nữ cũng biến thành những chứng nhân sống động của Đức Kitô Phục Sinh. Phụ nữ có thể “hấp tấp” một chút, dẫu cho “sâu sắc như cơi đựng trầu”, nhưng họ vẫn có những điều khiến chúng ta học hỏi.
Hai hành động THẤY và TIN có liên kết với nhau. Có người thấy mà không tin, vậy là vô ích. Ai thấy và tin thì mới đáng nói. Đó là sự biến đổi mau chóng và thực sự là điều kỳ diệu.
Lạy Thiên Chúa, xin củng cố đức tin nơi chúng con để chúng con được biến đổi mau chóng khi chúng con thấy những điều kỳ diệu mà Ngài vẫn không ngừng thực hiện trong cuộc đời của chúng con, xin giúp chúng con can đảm làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh trong suốt cuộc đời. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
Về mục lục

NẤM MỒ VỠ NÁT

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Chiều thứ sáu Chúa tử nạn, màu tang tóc phủ kín khắp không gian. Mây u ám như trùm lên nhân gian lên một nỗi buồn đau sầu tủi. Bóng tối bao phủ trái đất in mờ bóng ba cây thập giá trên nền trời đen thẳm. Theo lối nhìn bình thường ở đời, cái chết của Đức Giêsu là một thất bại lớn. Thập giá là một tủi nhục đến tột cùng.
Đức Giêsu đã an nghỉ trong mộ. Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Thân xác Người nằm trong mộ như hạt lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang nhú?
Trước khi rời nghĩa trang, các phụ nữ đã có ý nhìn xem nơi người ta đặt xác Đức Kitô, Thầy dấu yêu của họ. Mong mau hết ngày hưu lễ, họ sẽ trở lại xức dầu thơm theo đúng nghi lễ. Họ im lặng canh thức và mua hương liệu chuẩn bị. Đêm dài quá! Họ chỉ mong trời mau sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được. Họ chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác thân của Thầy nằm đó.
Tảng đá to đã niêm phong cửa mồ rồi. Các Thượng tế và những người Pharisiêu xin Tổng trấn Philatô cắt đặt một tiểu đội binh sĩ đến canh ngôi mồ (Mt 27,62),  và “Thế là họ ra đi canh giữ mồ, niêm phong tảng đá, rồi cắt lính canh mồ” (Mt 27,66). Cận vệ đền thờ nghĩ rằng, dấu niêm phong của lãnh đạo Do Thái có khả năng thách thức được quyền phép Đấng Chịu Đóng Đinh?
Giêsu người thành Nagiarét đã yên nghĩ trong mồ sâu. Tảng đá đã lấp cửa mồ. Nỗi lo sợ và niềm đau xót đã giam hãm các môn đệ trong các căn phòng đóng kín. Hãy yên nghỉ và quên đi những đau khổ. Hãy quên đi những oan kiên và tất tưởi của phận người. Hãy quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ và bản án bất công. Hãy quên đi những tiếng búa nặng nề trên những đinh nhọn xuyên thấu tay chân. Hãy quên đi cơn hấp hối kinh hoàng. Và hãy quên đi đồi Golgotha loang máu chiều tử nạn thê lương.
Câu chuyện tưởng đã ngũ yên, người đời sẽ mau quên lãng, chẳng còn ai nhắc tới Giêsu Nagiarét nữa…
1. Nấm mồ mở toang
Vậy mà, khi ngày Sabat chấm dứt, vào rạng sáng tinh mơ ngày thứ nhất trong tuần, Maria Mađalêna và một số phụ nữ đang âm thầm lặng lẽ dưới sương mai, gió sớm se lạnh, hối hả bước đi, lòng trí chỉ còn những kỷ niệm xót xa đắng đót. Họ vội vã chạy ra mồ để thi hành cử chỉ thương yêu cuối cùng đối với Thầy.
Đến cửa mồ, họ phát hiện ngôi mộ mở toang, trống rỗng, và thân xác Thầy yêu quý đã không còn trong đó nữa. Dầu thơm và hương liệu khuếch tán vị ngọt ngào ra khắp vũ trụ. Họ hết sức sững sờ khi thấy mồ trống, hai thiên sứ mặc áo trắng canh gác mồ, một phía đầu, một phía chân, nhưng không thấy xác Thầy. Họ nghĩ lại mất Thầy lần nữa. Họ hối hả chạy về báo tin cho nhóm Mười Hai. Họ xúc động và âu lo: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Người ở đâu“.
Các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, nay càng thêm hốt hoảng khi nghe tin này. Phêrô và Gioan cũng bị lôi cuốn và muốn tìm ra sự thật. Cả hai bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng Gioan chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Phêrô cũng vừa tới nơi. Tảng đá niêm mồ đã trở thành thử thách đầu tiên đối với niềm tin các môn đệ vào Thầy Giêsu. Trông thấy tảng đá lăn qua một bên, cả ba người đã có thể nhận ra dấu chỉ Chúa đã sống lại. Cả ba đều hụt hẫng, chưa thể thấu đạt những lời Chúa đã báo trước.
2. Thấy và tin
Tuy Phêrô, Gioan và Mađalêna chưa nhận ra ý nghĩa của dấu chỉ tảng đá lấp cửa mồ, nhưng những trải nghiệm thân tình sống với Thầy đã thôi thúc họ tìm hiểu cặn kẽ những gì vừa xảy đến sáng nay.
Gioan cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất. Rồi Phêrô bước hẳn vào trong mồ. Cả hai đều thấy “Những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuộn lại xếp riêng ra một nơi”. Đây là một dấu hiệu mang nhiều ý nghĩa: Thầy đã chỗi dậy, tự mình gỡ và xếp ngay ngắn các băng vải liệm và khăn băng đầu. Chỉ có người đang sống mới làm những việc tỉ mỉ đó. Thầy không còn chết nữa. Thầy đang sống. Thầy đã đánh bại sự chết và bước ra khỏi nấm mồ rồi. Gioan “đã thấy và đã tin”. Không như khi nhìn thấy tảng đá lăn qua một bên, lần này Gioan tin Thầy đã sống lại. Lời tuyên xưng “đã thấy và đã tin”.  diễn đạt quá trình từ “thấy” đến gắn bó trọn vẹn niềm tin vào Đấng Phục Sinh.Gioan đã thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống, khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại. Khi Lazarô được Chúa cho sống lại, ông ngồi dậy, nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm, còn ở đây, mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu:Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Ngay giây phút thấy cũng là lúc Gioan nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: “Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại” (Ga 2,19). Gioan còn nhớ điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy” (Mt 12,40). Gioan vẫn nhớ như in, trên núi Tabor, Chúa hiển dung và căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9,9). Gioan luôn nhớ, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Thầy cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: “Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại” (Lc 18,31-33). Gioan ghi tạc vào lòng lời tâm sự của Thầy trong buổi tiệc ly: “Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay… Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê” (Mt 26,31-32)…Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.
3. Ánh sáng bừng tỏa
Từ ngôi mồ trống, ánh sáng Phục sinh bừng toả. Sáng sớm ngày thứ nhất đầu tuần mới, tảng đá cửa mồ vỡ nát ra. Nấm mồ bằng đá nặng nề đã vỡ tan như vỏ trứng. Nấm mồ lạnh lẽo, chật hẹp, tối tăm mở tung ra như cánh hoa hồng hay đôi môi thắm tươi của nụ cười thiếu nữ, đầy sức sống và bình an. Tảng đá lấp mộ làm sao niêm giữ được Người! Nấm mồ chỉ là giai đoạn chuyển tiếp. Nó giống như lối đi ngầm dưới mặt đất, sẽ mở lên một vòm trời vinh quang. Đức Giêsu dùng nó như cánh cửa mở vào miền đất tử thần và từ đó biến nó thành ngõ mở vào cõi sống trường sinh.
Mặt Trời Công Chính đã Phục Sinh. Tin vui làm ấm áp cõi lòng đang buồn phiền vì mất mát đắng cay. Tin mừng đã lau khô đôi mắt ngấn lệ khóc lóc tiếc thương của các môn đệ. Mầu nhiệm sự sống qua cái chết mà Thầy từng rao giảng thực sự được khai trương. Chúa đã chỗi dậy từ chính nơi đã được mai táng. Ánh sáng tràn ngập. Niềm hy vọng lớn lao đã được bắt đầu từ chính nơi hôm qua còn đầy đau thương tuyệt vọng.Từ đây các môn đệ bắt đầu một hành trình mới, loan báo Tin mừng Phục sinh.
4. Chúa đã sống lại thật! Allêluia!
Đó là niềm vui và tuyên tín của các Tông đồ. Niềm vui và tuyên tín đó đã được loan truyền cho tới ngày nay và mãi cho tới ngày tận cùng của nhân loại.
Chúa Giêsu Phục Sinh. Sự kiện lịch sử trọng đại này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại hơn hai ngàn năm qua. Phục Sinh là một biến cố làm nên lịch sử, và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin Phục Sinh và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin Phục Sinh. Giáo Hội làm chứng bằng tình yêu và sự xác tín dọc dài dòng lịch sử.
Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống, nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng vĩnh cửu, nên Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao vây bởi bóng tối? Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm chân? Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người đi về miền hạnh phúc. Ngài đưa cuộc sống trần gian hướng tới cuộc sống vĩnh cửu.
Chúa Kitô đã sống lại. Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của nhục nhã, nhưng là biểu tượng của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết không còn là ngõ cụt mà là cánh cửa mở về đời sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, chúng ta cũng được hưởng vinh quang với Ngài. Đó là niềm tin và hy vọng của chúng ta.
Phục Sinh là biến cố lạ thường, chưa từng có bao giờ trong lịch sử nhân loại. Mầu nhiệm Phục Sinh là mầu nhiệm Tình Yêu cứu độ. Những chứng nhân đâu tiên của Chúa Phục Sinh cũng là những chứng nhân Tình Yêu.Các môn đệ, bằng các cảm nghiệm bản thân đã tin vào sự Phục Sinh của Thầy mình. Cảm nghiệm thì mỗi người mỗi cách. Mỗi người đều có một kinh nghiệm về đức tin vào Chúa Giêsu một cách khác nhau.
Có người được Chúa ban cho một tình yêu mạnh mẽ như Gioan, cho dù phải sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng luôn giữ vững niềm tin. Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ“thấy cái tối thiểu”, tuy nhiên lại luôn“tin tối đa”.Tình yêu bồi bổ niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Có người được Chúa ban cho những kinh nghiệm như Phêrô: yêu mến Thầy nồng nàn, nhưng hay nóng vội, quá tin tưởng vào sức mình; khi gặp những hoàn cảnh khó khăn thì lại trở nên nhát đảm, không dám bày tỏ niềm tin của mình. Nhưng một khi được gặp lại Chúa Phục Sinh, niềm tin đã trở thành như núi đá, không gì có thể lay chuyển được. Sẵn sàng dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho đức tin.
Có người được Chúa ban cho một niềm tin đơn sơ như những người phụ nữ đạo đức. Họ chẳng cần lý luận, chỉ cần yêu mến Chúa và cảm nhận được lòng Chúa yêu thương. Họ sẵn sàng cho đi tất cả và chỉ mong được ở bên cạnh Thầy tôn kính.
Mỗi người có một cách thế tiếp cận niềm tin và biểu lộ đức tin; nhưng tất cả đều có một điểm chung là họ yêu mến Chúa và sẵn sàng làm chứng bằng cuộc sống và cả mạng sống của mình.
Hãy hát lên khúc hát Allêluia với những nột nhạc tin yêu và hy vọng. Hãy sống niềm vui Phục Sinh giữa đời và hãy làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng một đời sống chan hòa bình an và yêu thương.
Về mục lục

ĐẤNG PHỤC SINH HẰNG YÊU THƯƠNG TA

 Lm. Jos. DĐH, GP. Xuân Lộc
Có bình minh, thì có hoàng hôn, đó là chân lý; có tình yêu, ắt có hạnh phúc, đó cũng là điều dễ hiểu ! Còn có đau khổ liệu có vinh quang không ? đó còn tuỳ thuộc mỗi người sử dụng tự do của mình đúng hay sai, sử dụng thế nào nữa. Có sinh có tử, đó là qui luật; còn có chết đi, mới sống lại, điều ấy lại là vấn đề không đơn giản, nếu như người ta không được kiểm chứng !
Câu chuyện người chết trở về, vẫn được xem là câu chuyện thần thoại, câu chuyện cổ tích, đối với người có tư duy phong phú ; còn sẽ là nhảm nhí đối với người có đầu óc khoa học. Hai anh trộm chết treo cùng Đức Giêsu coi như chấm hết; còn Đức Giêsu đã chết thật, nhưng linh tính mách bảo những người tham gia giết Chúa là chưa hết, vì thế họ đặt lính canh gác cẩn thận.
Hay tin Ngôi mộ trống, với những ai yêu mến Đức Giêsu thì là hy vọng, là dấu hiệu của sự sống; Ngôi mộ trống, với các Luật sĩ và giới lãnh đạo Do Thái lại là điều lo sợ…. Có thể nói : sự ác độc của những ai liên quan đến bản án giết Đức Giêsu, họ đều phải đối diện với hậu quả : lương tâm bất an. Các phụ nữ ra mồ từ sáng sớm, các Tông đồ đang buồn chán lại đang được rung lên niềm hy vọng từ Đấng Phục Sinh. Nói  cách khác : sự sống, niềm vui, bình an luôn ở bên những tâm hồn có tình yêu, mà những tâm hồn có tình yêu không nhất thiết phải là tài giỏi.
Các Tông đồ : đầy giới hạn thiếu sót, các Phụ nữ chân yếu tay mềm, nhưng những người thuộc về Đức Kitô ấy có chung một tình yêu, luôn cậy trông và Thiên Chúa. Những kẻ mạnh mẽ như các Thượng tế, Kinh sư, Kỳ mục họ lại…. mất ăn mất ngủ, đúng như câu tục ngữ : “chưa đánh được người thì mặt tăm mày tía, đánh được người thì hồn vía lên mây”.
Tin mừng cho biết sáng ngày thứ nhất trong tuần, mấy chị em phụ nữ ra mộ từ sáng sớm với một hành trang gọn nhẹ : Tình yêu và thuốc thơm, với hy vọng được thể hiện niềm tin tuyệt đối vào Thầy Giêsu. Tình yêu giải thoát các phụ nữ khỏi tảng đá to tướng và lính gác, nhưng lại không dẫn các bà tới mục đích gặp thân xác bất động, mà họ lại đối diện với Ngôi mộ Trống. Mađalêna đau khổ thốt lên :“người ta đã đánh cắp xác Chúa tôi rồi” ! Không  biết các bà có hy vọng gì chưa, Tin mừng chỉ nói là họ nhanh chóng về báo tin cho các Tông đồ.
Phản ứng của Phêrô là thinh lặng, ông phân vân, nếu người ta lấy trộm xác Thầy, tại sao lại mất công xếp đặt khăn liệm và dây băng thật gọn gàng như thế ? Có thể ông còn buồn đau về lỗi lầm chối Thầy 3 lần, nên ông không có thời gian tìm hiểu sống lại nghĩa là gì. Còn Gioan khi chứng kiến Ngôi mộ trống, ông “đã thấy và đã tin”.
Trước mưu toan của kẻ dữ, ưu tư nhớ thương và buồn chán của các môn đệ, Đức Kitô Phục Sinh chỉ biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm, không ầm vang giữa tiếng kèn trống, reo hò của toàn dân. Chúa đi con đường đau khổ thập giá và Phục Sinh không phải là để nhân loại nhờ đó mà được để sống lâu, sống mãi ở trần gian này. Con đường khổ đau thập giá là mầm sống hạnh phúc đời đời, không bao giờ chấm dứt, nhưng thực tế khiến người ta thất vọng, nếu thiếu ơn Chúa.
Tình yêu không thể bị chôn vùi trong huyệt mả của khổ đau, u sầu, thất vọng, nhưng sẽ chảy hoài chảy mãi niềm vui, vinh quang, và sự sống cho những ai tin tưởng theo Đức Kitô làm môn đệ. Câu chuyện Đức Giêsu sống lại sẽ nhạt nhoà với thời gian, với những ai theo Chúa cách hời hợt, đạo gốc cây, đạo ngoài nhà thờ….
Người xưa nói rằng : “hơn nhau tấm áo manh quần, thả ra bóc trần, ai cũng như ai”. Tất cả mọi người bất toàn giới hạn như nhau, tất cả mọi người có tự do để chọn lựa, tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương. Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng có thể vì còn lẫn lộn giữa hạnh phúc tạm thời và hạnh phúc đời đời. Hy vọng mỗi lần mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta lại trưởng thành hơn, nghĩa là thấy rõ hơn tâm hồn mình là một ngôi mộ trống. Ngôi Mộ Trống là ngôi mộ không còn xác Chúa nhưng còn dấu chỉ Đấng Phục Sinh. Tuy không thấy Chúa bằng mắt thường, chưa đủ cảm nghiệm như thế nào là vinh quang phục sinh; hiện tại bằng niềm tin, chúng ta thấy Ngôi mộ trống là thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Đấng Phục Sinh, khi ta ý thức chia sẻ sống yêu thương như Chúa yêu ta.

home Mục lục Lưu trữ