Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 61

Tổng truy cập: 1361836

BIẾT ĐỨC GIÊSU CHÍNH LÀ BIẾT CHA NGÀI

BIẾT ĐỨC GIÊSU CHÍNH LÀ BIẾT CHA NGÀI (*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Phục Sinh tập trung đề tài vào Giáo Hội.

Cv 6: 1-7

Bài Đọc I, trích từ sách Tông Đồ Công Vụ, cho chúng ta biết rằng Giáo Hội sáng tạo cơ cấu đầu tiên của mình: lập “nhóm Bảy Người” là một hình thức mới của công việc phục vụ.

1Pr 2: 4-9

Thánh Phê-rô viết rằng Giáo Hội đặt nền móng trên viên đá sống động là Đức Giê-su Ki-tô. Những người Ki-tô hữu cũng là những viên đá sống động, vì họ tiếp tục xây nên Đền Thờ của Chúa Thánh Thần.

Ga 14: 1-12

Tin Mừng hôm nay là phần đầu bài diễn từ cáo biệt của Đức Giê-su với các môn đệ Ngài trong Tiệc Ly. Đức Giê-su giải thích cho họ biết nơi mà Ngài dẫn những người tin vào Ngài đi là nhà Cha của Ngài.

BÀI ĐỌC I (Cv 6: 1-7)

Bài Đọc I tường thuật một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của Giáo Hội tiên khởi: việc lập “nhóm Bảy Người” khác với “nhóm Mười Hai”. Giữa cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, bảy thành viên được chọn nhằm mục đích phụ giúp công việc với các Tông Đồ. Thánh Lu-ca đưa ra hai lý do cho quyết định nầy: trước tiên, số các tín hữu ngày càng đông khiến cho các Tông đồ không thể nào đảm đương công việc điều hành cộng đoàn được. Thêm nữa, sự bất hòa giữa những “Ki-tô hữu Do thái bản địa” và những “Ki-tô hữu Do thái hải ngoại”.

Trong cộng đoàn Giê-ru-sa-lem, có những Ki-tô hữu Do thái sinh trưởng ở Pa-lét-tin và nói tiếng A-ram, và những Ki tô hữu Do thái sinh trưởng ở hải ngoại, trở về định cư ở Giê-ru-sa-lem và nói tiếng Hy-lạp. Ở Giê-ru-sa-lem có những hội đường, ở đó phụng vụ ngày sa-bát được cử hành bằng tiếng Hy-lạp, Kinh Thánh được sử dụng là bản Bảy Mươi, bản dịch Hy-lạp. Số người Ki-tô hữu Do thái hải ngoại nầy chắc chắn là thiểu số.

*1.Mối bất hòa:

Chung chung người phụ nữ Do thái lập gia đình rất sớm và thường vẫn còn sống sau khi chồng đã qua đời. Vì thế, số lượng các bà góa có thể là khá đông. Bổn phận giúp đỡ các bà góa phát xuất từ lòng đạo đức truyền thống. Trong việc phân phát lương thực hằng ngày, những cuộc tranh cãi nổi lên giữa các bà góa: các bà góa thuộc khối Do thái hải ngoại nghĩ rằng mình không được quan tâm bằng các bà góa thuộc khối Do thái bản địa. Chính mối bất hòa nầy tạo cơ hội cho các Tông Đồ siêu thoát những bận lòng vật chất để “chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”.

*2.Việc tuyển chọn Nhóm Bảy Người:

Chính cộng đoàn chỉ định bảy người: “Họ chọn các ông… đưa các ông ra và giới thiệu với các Tông Đồ”. Các tiêu chuẩn để chọn lựa nhóm bảy người là “được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan”. Nếu con số “Mười Hai” tượng trưng cho mười hai chi tộc Ít-ra-en (Mc 3: 14) thì con số “Bảy” được ấn định chắc chắn vì tính thánh thiêng và ý nghĩa viên mãn của nó, nhưng cũng có thể vì con số bảy tượng trưng cho bảy dân tộc ngoại giáo ở xứ Ca-na-an (Cv 13: 19). Như vậy, việc thiết lập nhóm Bảy Người nói lên hướng đi mới của Giáo Hội, đã đến lúc Giáo Hội và Tin Mừng Đức Ki-tô không còn bị giới hạn nơi những anh em Do thái, nhưng phải được phổ biến rộng rãi nơi các dân ngoại.

Dường như tất cả bảy cộng tác viên nầy được chọn giữa khối Ki-tô hữu Do thái hải ngoại, chắc chắn chủ yếu cốt là làm dịu đi sự bất đồng của khối này. Quả thật, tất cả tên của bảy cộng tác viên đều tên Hy-lạp. Dù thế nào, sự chọn lựa nầy chứng thực rằng cộng đoàn Giê-ru-sa-lem chấp nhận mở rộng mình ra hơn nữa với thế giới ngôn ngữ và văn hóa Hy-lạp. Thật đáng chú ý khi mà trong số bảy cộng tác viên, có một người tên là Ni-cô-la quê An-ti-ô-ki-a, gốc dân ngoại, đã theo đạo Do thái, đoạn Ki-tô giáo. Ông là người Ki-tô hữu gốc dân ngoại đầu tiên đón nhận thừa tác vụ chính thức trong Giáo hội.

*3.Nghi thức đặt tay :

“Sau khi cầu nguyện, các Tông đồ đặt tay trên các ông”. Việc đặt tay có nghĩa truyền đạt quyền hành hay phẩm chất đặc biệt. Trong đạo Do thái, nghi thức nầy đã được thực hành từ xa xưa. Ông Mô-sê đã đặt tay trên ông Giô-suê và “ông đã được đầy tràn thần khí khôn ngoan” (Đnl 34 : 9). Để là thành viên Thượng Hội Đồng, phải được Thượng Tế đặt tay.

Việc đặt tay trên bảy cộng tác viên chứng thực rằng ngay từ đầu người ta thấy trước rằng công việc của họ sẽ không bị giới hạn ở nơi “việc phân phát lương thực hàng ngày”. Quả thật, sau đó vì nhu cầu mục vụ đòi hỏi, bảy cộng tác viên ấy cũng tham dự vào việc phục vụ Lời Chúa như các Tông Đồ; và rồi do hoàn cảnh bách hại, họ chạy trốn ra ngoài xứ Pa-lét-tin và trở thành những nhà truyền giáo đầu tiên.

*4.Nhiều tư tế đón nhận đức tin :

Thánh Lu-ca không bao giờ quên nhấn mạnh đức tin Ki-tô giáo phát triển rất nhanh, vì thế thánh ký nêu ra một số lượng lớn các tư tế Do thái đón nhận đức tin Ki-tô giáo. Chi tiết này rất quý báu vì nó giúp cho chúng ta hiểu biết hơn nỗi lo lắng của giáo quyền Giê-ru-sa-lem và cuộc bách hại sắp giáng xuống trên cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, khởi đi với việc sát hại một trong bảy cộng tác viên là thánh Tê-pha-nô.

BÀI ĐỌC II (1Pr 2 : 4-9)

Đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô hôm nay, hòa hợp với hai bài đọc khác, nói với chúng ta về Giáo Hội, cơ cấu của Giáo Hội, sứ mạng của Giáo Hội và nền tảng của Giáo Hội là Đức Ki-tô.

Chúng ta nên nhớ rằng thư nầy được gởi đến cho những Ki-tô hữu đang chịu đau khổ, bị vu khống và ít nhiều bị loại bỏ. Vì thế, thánh Tông đồ nhắc họ nhớ rằng đức tin kiên vững đặt nền tảng trên Đức Kitô, “viên đá sống động” bị con người loại bỏ, nhưng được Thiên Chúa chọn.

*1.Ẩn dụ của đá :

Một mặt, “đá” tự nhiên gợi ra ngay tức khắc yếu tố vững chắc, bền vững trước mắt chúng ta. Vì thế, chẳng có gì phải ngạc nhiên khi thấy phần lớn các dân tộc liên kết đá với việc cúng tế các vong nhân, như niềm hy vọng vào cuộc sống bất diệt. Mặt khác, Đức Ki-tô được gọi là “viên đá sống động”, chính vì Ngài đã chiến thắng sự chết và phân phát sự sống vô tận. Thêm nữa, đây là hình ảnh mang chiều kích thiên sai mà Kinh Thánh đã nhiều lần gợi lên: viên đá quí giá (Is 28 : 16), đá tảng góc tường (Tv 118 : 22), phiến đá độc nhất (Dcr 3 : 9). Vì thế, “đá” trước tiên phải là Đức Ki-tô, rồi đến chính vị lãnh tụ của Giáo Hội, người mà Đức Giê-su  gọi là “Kepha”, nghĩa là “đá tảng”.

*2.Viên đá sống động :

“Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên ngôi đền thờ của Chúa Thánh Thần”, nghĩa là được Chúa Thánh Thần ở cùng, theo kiểu nói của thánh Phao-lô : “Anh em là ngôi nhà Thiên Chúa xây lên” (1Cr 3 : 9). Ở đây, chúng ta có thể nhấn mạnh động từ “xây” mà thánh Phê-rô sử dụng cũng là động từ mà Đức Ki-tô sử dụng khi Ngài nói với Phê-rô : “Con là đá, trên đá nầy Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy”.

*3.Chức tư tế thánh:

“Hãy để Người đặt anh em hàng tư tế thánh, dâng những lễ tế thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Ki-tô”. Bản dịch của nhóm CGKPV nầy có thể khiến chúng ta nghĩ rằng đây cốt là chức tư tế thừa tác. Trái lại, bản văn này gợi lên chức tư tế của toàn thể Giáo Hội: Chức Tư Tế Cộng Đoàn. Bản TOB dịch chính xác hơn: “Anh em được xây dựng thành ngôi nhà của Chúa Thánh Thần để hình thành nên một cộng đồng tư tế thánh”.

*4.Hiến lễ thiêng liêng :

“Dâng những hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Người, nhờ Đức Giê-su Ki-tô”. Cách diễn tả nầy rất gần với tư tưởng của thánh Phao-lô, ví dụ như trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Tôi khuyên anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 12 : 1).

*5.Lương dân hoán cải và người Do thái cứng lòng tin :

Biểu tượng “đá” thúc đẩy thánh Phê-rô đề cập đến một vấn đề đau đớn tận đáy lòng mình : việc dân Ít-ra-en loại bỏ Đức Ki-tô. Thật cảm động khi thấy rằng thánh nhân đau xót biết bao trước sự lòng cứng tin của dân mình: thánh nhân cố gắng hiểu, trong ánh sáng Kinh Thánh, tại sao sự chọn lựa của Thiên Chúa lại không đạt đến đích. Biểu tượng “đá” chứa đựng một biện chứng: căn nguyên của ơn cứu độ hay cớ vấp ngã. Đức Ki-tô là dấu chỉ mâu thuẫn. Ngài đòi buộc một sự chọn lựa: Ngài là điểm tựa cứu độ hay tảng đá vấp ngã.

*A-Căn nguyên của ơn cứu độ:

Trước hết, “đá” có thể là hình ảnh về một sự vững chắc của toà kiến trúc: đá nền hay đá góc tường (đá này có thể chỉ đá chóp đỉnh để đảm bảo sự cố kết của tòa nhà). Theo ngôn ngữ biểu tượng: một phần thay cho toàn thể, đá có nghĩa toàn khối kiến trúc. Bản văn Is 28: 16: “Này đây Ta đặt tại Xi-on một viên đá quý được lựa chọn, làm đá tảng góc tường: kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng” mà thánh Phê-rô trích dẫn, thật dễ dàng ủng hộ cách giải thích theo chiều hướng thiên sai. Viên đá quý giá mà Đức Chúa tuyển chọn để xây dựng dân Ngài sẽ là Đấng Thiên Sai, Đấng Mê-si-a của Ngài.

“Kẻ tin vào đó sẽ không phải thất vọng. Vậy, vinh dự cho anh em là những người tin”, trong câu này, chữ “vinh dự” đối lập với chữ “thất vọng”; nhưng đồng thời chữ “vinh dự” theo từ Hy lạp nầy cũng có nghĩa là “giá trị” vì thế gợi lên viên đá quý chính là Đức Ki-tô; nghĩa là trong Đức Ki-tô, những người tin cũng trở nên những viên đá quý. Những sắc thái ngữ nghĩa của bản văn khó diễn tả cho hết được.

*B-Cớ vấp ngã:

Thánh Phê-rô tiếp tục tìm kiếm trong Kinh Thánh tại sao dân Do thái cứng lòng tin. Thánh nhân kết hợp Tv 118: 22: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường” với Is 8: 14: “Một hòn đá làm cho vấp, một hòn đá làm sẩy chân” vào trong cùng một câu trích dẫn. Thánh Phê-rô lấy lại hình ảnh nầy để chứng minh trước Thượng Hội Đồng, sau khi thánh nhân bị bắt: “Nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, người Na-da-rét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã làm cho chỗi dậy từ cõi chết… Đấng ấy là tảng đá mà quý vị là thợ xây loại bỏ, chính tảng đá ấy lại trở nên đá tảng góc tường” (Cv 4 : 10-11).

Thánh nhân nói trong bài đọc hôm nay, “Họ đã vấp ngã vì không tin vào Lời Chúa. Số phận của họ là như vậy”. Đây không là chứng nhận số phận đã định trước, nhưng lời ta thán buồn phiền trước việc lời các ngôn sứ được ứng nghiệm, các ngài đã thấy trước sự loại bỏ nầy.

Đức Giê-su đã trích dẫn cũng chính lời tiên báo của Tv 118 sau khi đã kể dụ ngôn những tá điền sát nhân: “Các ông chưa bao giờ đọc câu nầy trong Kinh Thánh sao ? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Bởi đó, tôi nói cho các ông hay : Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (Mt 21: 42-43).

Dân Thiên Chúa mới nầy, dân mà thánh Phê-rô viết cho họ, đó là những dân ngoại trở lại đạo rất đông. Chính đó là những tước hiệu tuyệt vời mà xưa kia Đức Chúa đã trao tặng cho dân Ít-ra-en, từ nay được áp dụng cho dân mới nầy: “Còn anh em là dòng giống được tuyển chọn, là hàng tư tế vương giả, là dân tộc thánh thiện, dân riêng của Chúa…”.

TIN MỪNG (Ga 14 : 1-12)

Đoạn văn nầy được định vị ở phần đầu của diễn từ cáo biệt mà Đức Giê-su ngỏ lời với các môn đệ của mình trong bữa ăn cuối cùng mà Ngài tham dự với họ.

*1.Bối cảnh:

Trước khi rời bỏ họ để bước vào cuộc Khổ Nạn của mình, Ngài nói với họ thật thân thương và trìu mến: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”. Ngài cố làm cho các ông hiểu biết hơn con người của Ngài và sứ mạng của Ngài. Ngài gợi lên tương lai theo cung bậc ngôn sứ. Ngài vừa mới loan báo cho họ một người trong họ phản bội Ngài và cho Phê-rô biết ông sẽ chối Ngài.

Nỗi buồn phiền chắc chắn hiện lên trên gương mặt của họ, vì Đức Giê-su nói với họ: “Anh em đừng xao xuyến!”. Tiếp đó, Ngài ra sức cũng cố niềm tin của họ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Là những người Do thái mộ đạo, các Tông đồ tin vào Đức Chúa, nhưng họ không thể nào hiệp nhất giữa Đức Giê-su và Đức Chúa, vị Thiên Chúa mà họ tôn thờ. Có thể nào Đấng Mê-si-a là chính Thiên Chúa sao? Vì thế, Đức Giê-su sẽ nhấn mạnh sự duy nhất của Ngài với Cha Ngài. Diễn từ của Ngài sẽ xoay quanh sự duy nhất này. Độc thần giáo tuyệt đối của Do thái giáo bất khả chuyển lay, nhưng đó không là một điều hiển nhiên.

Đức Giê-su sẽ trấn an các môn đệ theo hai cách: khi gợi lên rằng họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần nầy) và khi loan báo cho họ rằng Ngài sẽ hiện diện bên cạnh họ theo hình thức khác qua việc sai phái Thần Khí của Ngài (Tin Mừng Chúa Nhật tuần tới).

*2.Họ sẽ hội ngộ với Ngài trong nhà Cha Ngài:

“Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở”. Căn nhà ở miền Pa-lét-tin có kích thước nhỏ bé, vì thế để làm cho các môn đệ hiểu rằng có chỗ cho nhiều người trong nhà Cha Ngài, Đức Giê-su gợi lên nhiều chỗ ở, nhưng Ngài không đặt bất kỳ thứ bậc của những chỗ ở nầy, không nói về nhiều cấp độ khác nhau trong hạnh phúc thiên giới. Ngài xác định rằng chính Ngài sắp xếp: “Thầy đi dọn chỗ cho anh em”.

“Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Đức Giê-su không hứa hẹn một cuộc hội ngộ với các môn đệ vào thời cánh chung, nhưng cái chết sắp đến của Ngài sẽ mở rộng nhà của Cha Ngài, như thế cái chết là lối vào sự sống. Chúng ta đọc các bản văn nầy chính xác sau lễ Vượt Qua bởi vì biến cố vượt qua soi sáng những lời nầy. Tuy nhiên, các môn đệ chưa nhận được ánh sáng nầy, vì thế họ không hiểu, họ xao xuyến. Thánh Tô-ma là một con người thực tiển, thích những chính xác cụ thể, hỏi: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu?”.

Đây không phải là lần đầu tiên Đức Giê-su gặp phải sự ngộ nhận này. Ngài thường lợi dụng sự ngộ nhận nầy để khai triển cuộc đối thoại đi xa hơn và dẫn đưa người đối thoại của Ngài vào trong thế giới của những thực tại vô hình.

*3. “Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống”:

Chữ “đường” thuộc từ vựng tôn giáo của Do thái giáo: chữ này chất nặng lịch sử, nhắc nhớ cuộc hành trình băng qua sa mạc và đám mây sáng chói soi lối chỉ đường về Đất Hứa. Vào thời trở về từ cuộc lưu đày, một sứ giả “đã chuẩn bị con đường cho Đức Chúa”. Đức Giê-su đã lấy lại hình ảnh nầy lần đầu tiên khi gợi lên rằng “con đường dẫn đến sự sống” thì chật hẹp, trong khi con đường dẫn đến họa diệt vong thì rộng mở thênh thang (Mt 7 : 8).

Trong Tin Mừng Gioan, chữ “đường” chỉ một thực tại sâu xa hơn. “Thầy là đường”: Chính Đức Giê-su là đường, không phải chỉ bởi giáo huấn của Ngài, nhưng bởi vì con người của Ngài là sự hiện diện thần linh. Ẩn dụ “Đường” nối kết với ẩn dụ Cửa: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu” (Ga 10 : 9).

“Thầy là Sự Thật”. Đức Giê-su đã mặc khải Chúa Cha và kế hoạch cứu độ của Cha Ngài cho con người. Ngài là phát ngôn viên của Cha: “Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra”. Ngài là chứng nhân của Sự Thật.

“Thầy là Sự Sống”. Đức Giê-su là Thiên Chúa đang sống giữa con người, vị Mục Tử đến cho chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10 : 10). Ngài là “bánh ban sự sống” và Lời Ngài cũng là sự sống: “Ai tuân giữ lời tôi sẽ không chết bao giờ”, vân vân.

Nói cho cùng, Đức Giê-su là “Đường” dẫn chúng ta đến “Sự Thật và Sự Sống”. Nhưng Ngài cũng là “Sự Thật và là Sự Sống”. Vì thế, ai đi theo Ngài, thật sự sống trong “Sự Thật và  Sự Sống” ngay khi còn sống trong trần thế rồi.

*4.Biết Đức Giê-su chính là biết Cha Ngài:

Vì muốn các môn đệ Ngài thấu hiểu hơn nữa mầu nhiệm con người của Ngài, Đức Giê-su tiếp tục gợi lên chân tính của mình. “Ấy vậy, chân tính của Ngài chính là Con Thiên Chúa”.

“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha của Thầy”. Trong Tin Mừng thứ tư, động từ “biết” có một ngữ nghĩa rất mạnh: động từ này diễn tả một nhận thức của trí tuệ được tình yêu soi sáng, một sự thông hiệp trong mối tâm giao thật sự. Sự hiểu biết tròn đầy là sự hiểu biết hổ tương giữa Cha và Con. Sau nầy, trong lời cầu nguyện của Ngài, Đức Giê-su nói : “Sự sống đời đời đó là họ nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là Đức Giê-su Ki-tô” (Ga 17: 3). Các môn đệ nhận biết Cha rồi vì họ tin vào Con, và sống trong tình yêu của Ngài. Đức Giê-su, nên một tròn đầy với Cha, nói : “Nếu anh em biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ anh em biết và đã thấy Ngài”.

Chính lúc đó thánh Phi-lip-phê góp phần vào câu chuyện. Chúng ta biết vị Tông Đồ nầy chỉ qua Tin Mừng Gioan, trong đó ông xuất hiện bốn lần: ơn gọi của Phi-líp-phê (Ga 1 : 43), bánh hóa nhiều (Ga 6 : 5), những người Hy lạp xin được gặp Đức Giê-su (12 : 21) và đoạn Tin Mừng hôm nay (Ga 14 : 8). Phi-líp-phê vốn bản tính ngay thẳng và nhiệt thành, ông đòi hỏi một cuộc “thần hiển”, ông muốn “thấy Thiên Chúa”. Như thế là mãn nguyện lắm rồi. Khát vọng nầy là khát vọng của tất cả mọi người: thấy Thiên Chúa, biết chắc chắn Ngài hiện hữu, thấu hiểu mầu nhiệm cao vời nhất.

Như khát vọng của tất cả mọi nguời Do thái, ông ao ước được thấy Thiên Chúa hiện diện trong uy nghi sáng chói như cuộc thần hiển trên núi Xi-nai xưa. Thế nhưng cuộc thần hiển theo kiểu ấy không còn nữa kể từ ngày Ngôi Lời Nhập Thể. Thiên Chúa sẽ không còn xuất hiện trong sấm chớp chói lòa khiến con người khiếp sợ không dám đến gần, nhưng hiện diện trong hình hài nhân loại của Đức Ki-tô, để từ đây ai thấy Chúa Giê-su là thấy Đức Chúa Cha.

*5.Công việc của Ngài chính là chứng nhân:

Sau khi nhấn mạnh sự đồng nhất giữa Ngài và Cha Ngài, Đức Giê-su nói tiếp: “Anh em cứ tin Thầy đi: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không, thì ít ra hãy tin vì công việc Thầy làm”. Đức Giê-su nhắc cho những tâm trí quá thực tiển này nhớ công việc mà Ngài đã làm: đây không ám chỉ đến những dấu lạ của Ngài cho bằng sứ vụ và hành động cứu độ của Ngài. Đức Giê-su hứa với các môn đệ Ngài rằng họ sẽ làm những việc Ngài làm, nhưng còn làm những việc lớn lao hơn thế nữa, bởi vì công việc của họ sẽ được mở rộng khắp cùng cõi đất.

Từ nay, không ai có thể tin vào Thiên Chúa mà không tin vào Đức Ki-tô. Lời dạy nầy tóm gọn tất cả Tin Mừng.

CHÚA NHẬT V PHỤC SINH- A

SỐNG THỰC TẾ CỦA THẾ GIỚI- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

Sợi chỉ đỏ :

– Bài đọc 1 : Cộng đoàn tín hữu sơ khai gặp khó khăn ; giải quyết bằng cách lập định chế phó tế ; số tín hữu gia tăng.

– Bài đọc 2 : mỗi tín hữu là một viên đá sống động xây dựng đền thờ của Chúa Thánh Thần.

– Bài Tin Mừng : Sống theo Đức Giêsu là Đường, sự thật và sự sống.

*IDẪN VÀO THÁNH LỄ

Có một điều chúng ta hay quên nên Thánh lễ hôm nay muốn nhắc chúng ta nhớ. Đó là chúng ta tuy ở giữa thế giới này nhưng lại thuộc về một “dân thánh”, “dân được Thiên Chúa tuyển chọn”. Đây là một vinh dự, đồng thời là một trách nhiệm. Nếu như chúng ta cảm thấy mình chưa xứng đáng với vinh dự này và chưa chu toàn trách nhiệm này, thì hãy đến với Chúa trong Thánh lễ. Ngài sẵn sàng thanh luyện chúng ta và thêm sức giúp chúng ta.

*II. GỢI Ý SÁM HỐI

– Là thành phần của một cộng đoàn được Chúa quy tụ, nhưng chúng ta hay chia rẽ nhau.

– Là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng chúng ta ít quảng đại hiến thân cho Chúa.

– Đức Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Nhưng nhiều khi chúng ta không bước theo Ngài, học với Ngài và sống như Ngài.

*III. LỜI CHÚA

*1. Bài đọc I: Cv 6,1-7

Bài tường thuật này mô tả nếp sống của cộng đoàn tín hữu sơ khai, một cộng đoàn không thiếu những khó khăn nội bộ, nhưng đã biết cách giải quyết thỏa đáng nên vẫn tiếp tục lớn mạnh.

– Khó khăn phát xuất từ việc phân phối những nhu cầu đời sống, gây ra những sự kêu trách.

– Các tông đồ đã đưa vấn đề ra tập thể, đề nghị một giải pháp theo hướng chia sẻ trách nhiệm (chọn 7 phó tế lo việc đời sống), và tập thể đã nhất trí.

– Nhờ khéo giải quyết nên cộng đoàn lại đoàn kết yêu thương và tăng số.

*2. Đáp ca: Tv 32

Chúng ta có gì phải sợ trên con đường dương thế ? Đã có chính Đức Giêsu đi bên cạnh chúng ta ; Ngài dẫn chúng ta về nhà Chúa Cha ; Ngài nuôi chúng ta bằng tình yêu thương của Ngài ; Ngài luôn bênh vực chúng ta và cứu chúng ta thoát khỏi cái chết đời đời.

*3. Bài đọc II: 1 Pr 2,4-9

Thánh Phêrô nhắc tín hữu nhớ đến phẩm giá cao quý và trách nhiệm của họ :

– Phẩm giá : Tín hữu là dòng giống được Thiên Chúa tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự và là dân riêng của Thiên Chúa.

– Trách nhiệm : Hãy để Thiên Chúa dùng mình như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần ; hãy dâng những của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa ; hãy loan truyền những công trình vĩ đại của Ngài.

*5. Bài Tin Mừng: Ga 14,1-12

Bài Tin Mừng kêu gọi tín hữu đi theo Đức Giêsu, học với Ngài và sống với Ngài, bởi vì Ngài là đường, sự thật và sự sống :

– Đức Giêsu là đường vì Ngài dẫn tín hữu đến với Chúa Cha, nguồn hạnh phúc đích thực.

– Đức Giêsu là sự thật vì Ngài phát xuất từ Chúa Cha là nguồn chân lý, và Ngài dạy cho chúng ta biết Chúa Cha.

– Đức Giêsu là sự sống vì “sự sống đích thật là nhận biết Chúa Cha và Đấng Ngài sai đến” (Ga 17,3).

*IV GỢI Ý GIẢNG

*1. Giáo Hội vừa thánh thiện vừa tội lỗi

Bài đọc thứ hai (thư Phêrô) trình bày vẻ thánh thiện của Giáo Hội : Giáo Hội là “giống nòi được tuyển chọn, là hoàng gia chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa”. Vì thế tín hữu hãy “để Thiên Chúa dùng như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ của Thánh Thần… dâng những của lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa…”

Nhưng bài đọc 1 (sách Công vụ) cho thấy trong cộng đoàn Giáo Hội vẫn có bất công, sinh ra tranh chấp và kêu ca. Thành thử “ngôi đền thờ của Thánh Thần” cũng khó mà xây dựng, những “viên đá sống động” khó mà ăn khớp với nhau, và “những của lễ thiêng liêng” khó mà đẹp lòng Thiên Chúa.

Tuy nhiên, bài Tin Mừng khuyến khích chúng ta hãy an tâm, cứ vững tin và trung thành đi theo Đức Giêsu thì mọi sự sẽ ổn, bởi vì Ngài là đường, là sự thật và à sự sống.

*2. Xao xuyến

Có biết bao điều làm cho con người xao xuyến : bệnh tật, khủng hoảng kinh tế, xa cách người thân v.v.

Đức Giêsu biết tất cả những điều đó, nhưng Ngài vẫn khuyên “Lòng chúng con đừng xao xuyến”, vì Ngài nhìn mọi sự từ trên cao. Từ cao nhìn xuống, cái nhìn của Ngài bao quát hơn và thấy trọn vẹn hơn : Ngài không chỉ thấy hiện tại đang bế tắc mà còn thấy tương lai xán lạn. Nhờ cái nhìn ấy nên mặc dù trong Vườn Cây Dầu Ngài thấy hình như đang đứng trước ngõ bí nhưng Ngài vẫn tiến bước nên cuối cùng đã đến ánh sáng phục sinh.

Bởi thế, Ngài kêu gọi chúng ta : “Anh em đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”.

Nếu tin thì không còn xao xuyến nữa.

*3. Chia sẻ công việc trong Giáo Hội

Những công việc trong Giáo Hội rất là nhiều, nhưng số Giám mục và Linh mục lại quá thiếu. Nhìn trong phạm vi một giáo xứ cũng thế : giáo dân thì đông nhưng những người lo việc thì ít. Chỉ có Cha Xứ, vài tu sĩ và một ít thành viên Hội đồng giáo xứ. Khủng hoảng.

Nhưng cơn khủng hoảng này đã có ngay từ hồi Giáo Hội sơ khai. Và Giáo Hội sơ khai đã giải quyết một cách khéo léo bằng cách chia sẻ trách nhiệm : các tông đồ chuyên lo rao giảng Lời Chúa, các phó tế lo cho đời sống. Có lẽ từ kinh nghiệm này mà Thánh Phêrô đã đề ra nguyên tắc mọi người tham gia vào việc chung của Giáo Hội : “Anh em hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động xây nên ngôi đền thờ Thánh Thần”. Mỗi người đều là một viên đá. Người thì xây nền, người thì xây tường, người khác xây cổng v.v.

Thực ra, một cộng đoàn mà sinh động thì tất nhiên phát sinh thêm những công việc. Và nếu các thành viên của cộng đoàn thiết tha với sức sống của cộng đoàn thì sẽ biết cách thu xếp để chu toàn mọi công việc theo hướng cùng nhau chia sẻ trách nhiệm. Và được như thế thì chắc chắn “số các môn đệ sẽ ngày càng thêm đông”.

*5. Chuyện minh họa“Ta là đường, sự thật và sự sống”

*a/ Đường

Một người đố bạn mình :

– Đố anh trong Tin Mừng câu nào ngọt ngào nhất ?

– Thiên Chúa là Tình yêu.

– Không phải.

– Vậy chứ câu nào ?

– “Ta là đường”

– ! ! ! ? ? ?

*b/ Sự thật : Sự thật ở đâu ?

– Một tai nạn xe hơi xảy ra trong một thành phố nhỏ. Đám đông vây kín nạn nhân khiến một nhà báo không sao nhìn thấy được. Anh ta chợt nảy ra một ý nghĩ và kêu lên “Tôi là bố của nạn nhân đây. Tránh ra”. Đám đông tránh lối cho anh ta lại gần. Khi chứng kiến cảnh tượng, anh ta mới vô cùng mắc cỡ, vì nạn nhân là một con lừa ! (Anthony de Mello, “Lời kinh của con ếch”)

– Một nhà xuất bản gởi tới tác giả của một bản thảo lời từ chối sau đây : “Chúng tôi đặc biệt thích thú đọc bản thảo của ông. Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng nếu chúng tôi xuất bản tác phẩm của ông, chúng tôi sẽ hoàn toàn không bao giờ còn có thể xuất bản một tác phẩm nào khác ngang tầm giá trị được với nó. Và chúng tôi không thể hình dung được làm sao trong vòng một trăm năm nữa lại có một tác phẩm nào khác có thể sánh được với tác phẩm của ông. Vì thế chúng tôi rất tiếc phải buộc lòng gởi lại ông bản văn tuyệt vời này. Và ngàn lần chúng tôi xin ông tha lỗi cho vì sự thiển cận và yếu kém của chúng tôi”. (Anthony de Mello, “Lời kinh của con ếch”)

*c/ Sự sống

Một bà đạo đức áy náy vì một vài tật xấu bà đã cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Ban đến than thở với cha linh hướng. Ngài nói : “Con có để ý thấy không, vào mùa đông, lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh cũng không làm chúng rụng xuống. Nhưng khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng nhường chỗ cho lá non mẩy lộc. Vậy cái gì làm cho chúng rơi rụng ? Thưa đó là sự sống mới lưu chuyển trong thân cây. Với chúng ta cũng vậy, khi sự sống mới của đức Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến trên đường đạo đức.”

*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

CT : Anh chị em thân mến

Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Người. Tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.

1- Một trong những mục tiêu Hội Thánh luôn theo đuổi / là tạo được sự hiệp nhất giữa những người cùng tin vào Đức Kitô / Chúng ta hiệp lời cầu xin / cho công trình đại kết của Hội Thánh / sớm đạt được kết quả mong muốn.

2- Trên thế giới ngày nay / có biết bao người đang noi gương Đức Kitô / xả thân phục vụ những người nghèo khổ nhất trong xã hội / ở các trại phong / các bệnh viện tâm thần / nơi những vùng rừng thiêng nước độc đầy dẫy hiểm nguy / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / luôn gìn giữ và nâng đỡ những con người quảng đại ấy.

3- Con người vốn bản tính yếu đuối nên rất dễ nản lòng / tuyệt vọng trước những đau khổ / những khó khăn trong đời sống thường ngày / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những anh chị em đang gặp thử thách / luôn biết tin tưởng vào tình yêu vô biên / và sự quan phòng kỳ diệu của Chúa.

4- Ngay trong một xứ đạo / nhiều khi sự chia rẽ / mất đoàn kết / vẫn còn rất trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết dẹp bỏ mọi tị hiềm / để sống hiệp nhất và yêu thương nhau như Chúa đã dạy.

CT : Lạy Chúa, thánh Phêrô đã bảo chúng con “Anh em là giống nòi được tuyển chọn, là hoàng tộc chuyên lo tế tự, là dân thánh, dân riêng của Thiên Chúa, để loan truyền những công trình vĩ đại của Người”. Xin cho chúng con luôn sống xứng đáng với tình thương của Chúa và thực hiện trọn vẹn vai trò chứng nhân của mình. Chúng con cầu xin nhờ…

*VI. TRONG THÁNH LỄ

– Kinh Tiền tụng : Nên dùng Kinh Tiền Tụng Phục sinh 5 vì có nói tới Đức Giêsu như của lễ, bàn thờ và tư tế.

– Trước kinh Lạy Cha : Đang khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy có những tâm tình của chính Đức Giêsu : mong cho Nước của Chúa Cha trị đến trên trần gian này, một nước đầy tình thương, công chính và bình an.

*VII. GIẢI TÁN

Anh chị em là thành phần của một xã hội trần thế nhưng đồng thời cũng là thành phần của một dân thánh được Thiên Chúa tuyển chọn. Anh chị em hãy trở về lo xây dựng xã hội nhưng đồng thời cũng đừng quên xây dựng Nước Thiên Chúa.

home Mục lục Lưu trữ