Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1360982

BƯỚC ĐỘT PHÁ CỦA LÒNG TIN

BƯỚC ĐỘT PHÁ CỦA LÒNG TIN

 

Người ta thường nói "có gan mới làm giàu". Đúng vậy, trong đời sống khi muốn tốt hơn thì lắm lúc ta cần phải có sự liều lĩnh. Liều lĩnh để vượt qua những khó khăn thử thách. Liều lĩnh để có thể vượt qua những rào cản của dư luận... Dĩ nhiên, sự liều lĩnh ấy cần được đặt trên một tiêu chuẩn nào đó. Một trong những tiêu chuẩn cần thiết là lòng tin. Khi có lòng tin người ta mới dám thực hiện bước đột phá.

Đoạn Tin mừng Chúa nhật hôm nay cho ta chiêm ngắm một bước đột phá của người đàn bà xứ Canaan. Như ta biết, thời Chúa Giêsu người Do thái và người ngoại giáo có một sự ngăn cách rất lớn. Họ rất ngại tiếp xúc với nhau. Thế nhưng người đàn bà này dường như không cần chú ý đến điều ấy. Bà ta đến thưa với Chúa Giêsu: "Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!". Sau một hồi thinh lặng Chúa Giêsu trả lời: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Ít-ra-en mà thôi.". Bà ta vẫn tiếp tục nài xin "Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!". Như một gáo nước lạnh Chúa Giêsu tiếp tục nói với bà: "Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con". Nếu như với người khác, có thể họ đã bỏ ra về. Nhưng bà không ngần ngại trả lời:"Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.". Với câu trả lời này có thể nói được là Chúa Giêsu phải "tâm phục khẩu phục" nên đã nói: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy."

Như thế, ta thấy nếu không có lòng tin mạnh vào Chúa thì người đàn bà này đã không thể nào thực hiện được bước đột phá này. Nhờ đó, con của bà đã được chữa khỏi.

Những ngày gần đây, ở miền Bắc nước ta xảy ra nhiều thiên tai do bão và lũ gây ra. Thông thường những cây nào sau những trận mưa bão mà còn trụ lại được thì những cây đó mới thực sự có giá trị. Thánh Giacôbê đã nói: "Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều.Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn" (Gc 1, 2 - 3).

Có thể nhiều lúc trong đời sống đức tin ta thấy dường như Chúa hoàn toàn thinh lặng thậm chí không ngó ngàng gì tới mình. Hãy tin là những lúc ấy chính là những cơ hội Chúa đang chờ ta thực hiện những bước đột phá như người đàn bà này. Chắc chắn Chúa sẽ không quên ta trong những lúc ấy.

 

48.Ơn cứu độ được ban cho mọi người

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

Trong tập sách “Những mẩu bánh vụn” của Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, đã kể lại một câu chuyện: Một người bạn tù với Ngài là người ngoại giáo, nhưng ông ta rất cảm mến Đức Hồng Y. Ông ta được ra tù trước và sau này kể lại: Nhà ông ở gần Trung tâm Lavang, vì thế mỗi ngày, ông đều đến với Đức Mẹ Lavang để cầu nguyện cho Đức Hồng Y Thuận. Khi được hỏi: Ông là người ngoại, ông cầu nguyện thế nào? Ông đáp: Tôi nói với Bà Ấy (Đức Mẹ) rằng: Thưa bà, tôi chưa biết Bà là ai, song tôi đến đây để cầu xin Bà thương đến một người bạn của tôi là ông Thuận còn ở trong tù, xin Bà thương cứu giúp ông ấy. Thế là không bao lâu sau, Đức Hồng Y Thuận cũng được ra tù và hai người gặp lại nhau trong sự xúc động.

Người ngoại có tin Chúa và có cầu nguyện không? Trong thực tế, có nhiều người được gọi là ‘bên lương”, là dân ngoại, song họ lại có một niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa, mặc dù họ chưa thực sự theo Chúa. Đối với những người dân ngoại này, chỉ cần một lòng tin đơn sơ chân thành, thì Thiên Chúa vẫn ghi nhận sự chân thành ấy và ban ơn trợ giúp cho họ. Nếu có dịp đến Lavang, Tàpao, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự thành tâm của những người ngoài Công Giáo. Họ đến đây với lòng tin vào quyền năng của Thiên Chúa và sự trợ giúp của Đức Mẹ. Họ thành tâm xin Chúa và Đức Mẹ che chở, chữa lành.

Có một suy nghĩ thường xảy ra nơi người Do Thái và nơi chúng ta hôm nay, đó là chúng ta thường đóng khung Thiên Chúa trong những người có đạo, cho mình là những người độc quyền chiếm giữ Thiên Chúa và loại trừ người khác ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Tuy nhiên Lời Chúa hôm nay cho thấy, Thiên Chúa không hề giới hạn tình yêu của Ngài. Bất cứ ai, dù là là dân ngoại hay Do Thái, nếu tin tưởng vào Thiên Chúa, thì đều được Ngài ra tay cứu độ. Tiên tri Isai đã loan báo về ơn cứu độ của Thiên Chúa ban tặng cho nhân loại, không chỉ người Do Thái, mà người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa, phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cũng trở nên tôi tớ của Người. Những ai tuân giữ lề luật, thì cũng được lên núi thánh của Chúa… và Thiên Chúa sẽ ưng nhận lễ toàn thiêu của họ. Với lời này của Isai, quả thật đã phá đổ hoàn toàn suy nghĩ của người Do Thái, vì họ tự hào mình là dân riêng của Chúa, và ngược lại, Chúa là của riêng Israel mà thôi. Isai cho thấy, Thiên Chúa không hề bị giới hạn, hay nói đúng hơn, ơn cứu độ của Thiên Chúa được ban tặng không chỉ cho Israel, mà là cho tất cả nhân loại. Những ai tin và tuân giữ giới răn lề luật của Chúa thì trở thành dân của Chúa.

Câu chuyện Thánh Matthew thuật lại hôm nay khiến cho nhiều người thắc mắc: Chúa Giêsu đi về vùng Tia và Sidon, tức là vùng đất của dân ngoại, thì có một người đàn bà chạy đến và kêu lên: Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm. Với lời kêu cầu này, bà đã thể hiện lòng tin vào Đức Giêsu. Bà tin Đức Giêsu là Con vua Đavít, tức là Đấng cứu thế. Tuy nhiên Thánh Matthew cho thấy, Chúa Giêsu dường như dửng dưng trước lời kêu cầu này. Khi các môn đệ lên tiếng giùm bà, thì Chúa Giêsu còn trả lời: Thày chỉ được sai đến với con chiên lạc nhà Israel thôi. Đến khi bà ấy nài nỉ thì Chúa đã nói với bà: Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó con.

Có nhiều nhà chú giải đã cố gắng giải thích những lời lẽ xem ra từ chối nặng nề này của Chúa Giêsu. Chúng ta không đi sâu và những giải thích này, nhưng chúng ta nhìn vào đức tin và sự kiên nhẫn của người phụ nữ trong khi cầu xin. Người đàn bà này đang gặp đau khổ, đó là con bà đau bệnh gần chết. Trong lúc tuyệt vọng, bà chỉ còn biết chạy đến với Thày Giêsu, mà có lẽ bà đã từng nghe biết về Ngài. Tuy nhiên khi đến với Chúa Giêsu, bà dường như lại gặp một thử thách khác, đó là sự im lặng làm ngơ của Thiên Chúa trước lời cầu xin của bà. Người phụ nữ này vẫn không thất vọng, dù có lúc bà như bị Thiên Chúa không chỉ im lặng mà còn từ chối thẳng thừng lời cầu xin của bà. Thế nhưng, bà vẫn kiên trì trước câu trả lời của Chúa, bà thưa lại với Chúa: Thưa Ngài đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống. Với câu trả lời này, bà đã thể hiện lòng tin của bà nơi Chúa Giêsu dù trước đó bà đã bị từ chối.

Người phụ nữ Canaan không hề tự ái trước lời từ chối của Chúa. Trái lại, bà càng khiêm tốn hơn để “lý lẽ” với Chúa như thế, vì tin rằng con của bà chỉ có thể được chữa lành nhờ quyền năng “dư thừa” của Thày Giêsu. Bà còn nhận mình không xứng đáng được đồng bàn hoặc được chia sẻ tấm bánh ân phúc của Chúa, mà chỉ dám nhận mình là đám chó con, chờ đợi và cầu xin một chút ân lộc dư thừa từ bàn ăn của chủ rơi xuống, chứ cũng không dám mong được ông chủ ném cho một miếng bánh. Chúa Giêsu hết sức ngạc nhiên trước lý lẽ và lòng tin của bà và ngài đã không thể không đáp ứng lời cầu xin của bà: Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi bệnh. Có thể nói, Chúa Giêsu đã phải xiêu lòng và chịu thua trước đức tin mạnh mẽ của một người phụ nữ như thế.

Thánh Phaolô đã nhận ra sự kỳ diệu trong kế hoạch của Thiên Chúa, khi dân ngoại được mời gọi chia sẻ niềm tin và thừa hưởng lời hứa ban ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho người Do Thái. Mặc dù dân Do Thái đã được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn để thừa hưởng gia nghiệp Nước Trời, thế nhưng dường như, họ đã coi thường ân phúc này. Họ đã từ chối ân huệ của Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã dành ân huệ ấy cho dân ngoại và cho tất cả những ai có lòng tin. Phúc lành mà Thiên Chúa hứa ban cho dân Do Thái qua các tổ phụ, giờ đây lại được ban cho dân ngoại. Theo Thánh Phaolô, những người Do Thái muốn được hưởng ân phúc này đòi phải có một điều kiện tiên quyết, đó là quay trở lại với thái độ vâng phục Thiên Chúa.

Thưa quý OBACE, cũng đã có một thời, vì tự mãn với ơn gọi làm con Thiên Chúa, được hưởng ơn cứu độ của Thiên Chúa qua Giáo Hội, chúng ta cũng rơi vào tình trạng cực đoan, loại trừ những người dân ngoại, khi tuyên bố rằng: Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi. Từ quan niệm này, nhiều người sống đạo không khác gì dân Do Thái, tức là giữ đạo thụ động, không cố gắng, không hoán cải. Nhiều người khác rơi vào tình trạng giữ đạo theo công thức, theo thói quen, thiếu chiều sâu của đức tin, không thực hành đạo, vì thế khi gặp khó khăn thử thách, họ thất vọng oán trách Thiên Chúa.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn vào đức tin của những người bị coi là dân ngoại, để biết tôn trọng đức tin chân thành của họ và còn để rà xét lại đời sống đạo và đức tin của mình. Thiên Chúa cho chúng ta rất nhiều cơ hội và ân phúc, nhưng nhiều khi chúng ta lại coi đó là những điều tự nhiên, may mắn, hơn là nhận ra tình yêu thương ban tặng của Chúa. Giống như người Do Thái, chúng ta thờ ơ với ơn cứu độ của mình, từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không hoán cải đời sống, thì cũng sẽ có ngày người từ đông chí tây được mời vào dự tiệc nước Thiên Chúa, còn chúng ta bị loại ra ngoài.

Kế đến, hãy học nơi tấm gương tin tưởng kiên trì và khiêm tốn của người phụ nữ Canaan hôm nay: đừng bao giờ thất vọng trước sự im lặng của Thiên Chúa. Vì để tôi luyện, thử thách đức tin của chúng ta, đôi khi Chúa dường như im lặng hoặc từ chối lời kêu cầu của chúng ta; nhưng nếu chúng ta cứ kiên trì, cứ nài xin, chắc chắn Chúa sẽ ra tay và cho chúng ta được như sự thỉnh cầu.

Người phụ nữ hôm nay quả là tấm gương cho các bậc làm cha mẹ. Nhiều người, nhiều gia đình đang rơi vào cảnh cùng quẫn, đau khổ vì vợ chồng đau yếu, con cái ngỗ nghịch hư hỏng; nhiều người đã ngã lòng vì thấy lời cầu xin của mình chưa được Chúa nhận lời. Họ trách Thiên Chúa: Tôi đi lễ mỗi ngày, đã đi xin khấn ở nhiều nơi mà vẫn chẳng được… Nhiều người thì xin những người đạo đức, thánh thiện thêm lời kêu khấn cho mình. Đó là điều tốt, thế nhưng đừng quên chính bản thân cần phải hoán cải, cần lắng nghe để nhận ra tiếng nói và sự chỉ dẫn của Chúa qua từng biến cố xảy ra trong cuộc sống. Hãy tin tưởng, kiên trì để thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con và gia đình con. Chúa sẽ nghe lời chúng ta.

Nhiều người trẻ vì bị mê hoặc bởi khoa học công nghệ, bị mãnh lực của đồng tiền chiếm trọn cả thời giờ và ưu tư, khiến họ không còn chỗ cho Thiên Chúa. Họ đã để cho đức tin của mình bị mờ nhạt, èo uột khi rời xa gia đình hoặc khi lăn xả vào vòng quay của xã hội. Họ đánh mất thói quen cầu nguyện mỗi ngày, bỏ qua việc xưng tội rước lễ, xa rời với những sinh hoạt của cộng đoàn giáo xứ. Những dấu hiệu ấy cho thấy một đức tin đang bị khô héo, mất sức sống. Chúng ta cùng cầu xin Chúa củng cố đức tin của chúng ta, đặc biệt cho những người đang lung lạc đức tin vì thử thách, và xin Chúa giúp chúng ta luôn tin tưởng, cậy trông nơi Chúa dù lúc vui hay lúc buồn, khi thành công hay thất bại. Chúng ta tin rằng, Thiên Chúa luôn ở bên và sẵn sàng cứu giúp chúng ta. Amen.

 

49.Chúa cần một tấm lòng

Trình thuật Chúa Giêsu chữa khỏi quỷ ám cho con gái người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay bao hàm hai ý nghĩa: một đàng Chúa Giêsu xác nhận Dân Israel chính là dân được tuyển chọn, dân của Lời hứa (x. Mt 15,24); đàng khác, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, dành cho tất cả những ai có lòng tin vào Người (x. Mt 15,28).

Là Đấng Thiên sai, Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Mục Tử duy nhất được Chúa Cha sai đến để chăn dắt Israel (x. Ez 34,23). Nhưng thái độ của Dân Do Thái làm cho Chúa thất vọng. Họ tự phụ vào truyền thống là dân riêng, dân được chọn của Chúa, nên thường không tin Ngài.

Chúng ta cũng thường tự hào mình là người Công giáo, những người nắm giữ đức tin chân thật. Lý lịch công giáo của chúng ta được xác nhận qua Sổ Rửa Tội, Thêm sức, Hôn phối. Chúng ta thuộc về một cộng đoàn Họ đạo. Chúng ta giữ Lễ Chúa Nhật hàng tuần... rồi thôi. Chúng ta cho rằng mình chỉ cần giữ một số Luật quy định thì đã xong bổn phận giữ đạo của mình rồi. Ngoài ra thì cuộc sống của chúng ta chẳng thể hiện một đức tin tích cực nào cả: thiếu một tấm lòng với Chúa và với anh em. Tóm lại, chúng ta là người Công giáo theo sổ sách, nhưng không phải trong đời sống.

Chúa cần nơi mỗi người chúng ta một tấm lòng: "yêu Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình". Chỉ có tấm lòng mới thể hiện đích xác chúng ta là con cái Thiên Chúa. Bởi vì tin Chúa, có nghĩa là gắn bó toàn vẹn con người chúng ta vào Chúa, sống theo và cho Chúa.

Người đàn bà Canaan được Chúa ban phép lạ theo lời khẩn cầu, vì bà đã tin. Biết bao anh em lương dân chung quanh chúng ta, chưa nhận biết Chúa, nhưng đời sống luân lý của họ nhiều khi tốt hơn chúng ta. Họ ăn ngay, ở lành, thờ Trời và được bình an. Đời sống trong sáng của họ nên như nhắc nhở cảnh tỉnh chúng ta. Cánh cửa ơn cứu độ của Chúa vẫn dành cho họ. Trách nhiệm của chúng ta là phải sống xứng đáng, vì là con cái Thiên Chúa, và đem Tin Mừng Chúa đến cho những ai chưa được diễm phúc biết Người.

Xin cho chúng con biết yêu Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình. Amen.

 

50.Lòng tin của người đàn bà xứ Canaan

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin Mừng Mt 15: 21-28: Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho người Do Thái mà còn ban ơn cho cả dân ngoại. Người đàn bà Canaan là một người dân ngoại, đáng lẽ bà không được hưởng hồng ân Chúa ban vì Đức Giêsu chỉ muốn thi hành sứ mệnh của Ngài với dân Do Thái, nhưng Chúa không ngần ngại nhận lời cầu xin của người dân ngoại này.

Tại sao Chúa ban hồng ân cho bà ấy?

Vì bà có một đức tin rất khiêm nhường và hoàn toàn trông cậy vào Chúa. Đức Tin mạnh mẽ đã làm phát sinh lòng can đảm, khiêm hạ và kiên trì. Bà đã can đảm, bởi vì bà là người ngoại giáo mà dám đến xin phép lạ cho con mình.

Vào thời Chúa Giêsu người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách lại càng xa hơn, thế mà người phụ nữ này đã vượt qua mọi rào cản để đến với Chúa. Bà đã kiên trì và khiêm nhường xin cho được một ân huệ, bất chấp sự hững hờ của Chúa Giêsu.

Các Tông đồ muốn đuổi bà đi, và chính Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói hơi nặng lời "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.

Bà sụp lạy trước mặt Ngài hơn lũ chó con nằm chờ chực vụn bánh từ trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa: ”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”.

“Con cái” ở đây được  hiểu về dân Do Thái, “chó con” được hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do Thái chứ không có ý mỉa mai. Chúa dùng chữ “chó con” mà không dùng chữ “chó” xuông. “Chó con” là giống nuôi trong nhà được vỗ về, còn chó chạy lang thang ngoài đường phố mới có nghĩa khinh bỉ. Và chính tiếng “chó con” này đã gợi cho bà một lời thỉnh cầu đầy khiêm nhường và tin tưởng.

”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những vụn bánh từ trên bàn rơi xuống”.

Sở dĩ người đàn bà Canaan có  lòng can đảm khiêm nhu và kiên trì như thế bởi vì bà rất thương yêu đứa con của bà. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, bất chấp sự dửng dưng lạnh nhạt và ngay cả sự khinh khi nhục mạ nữa.

Tôi còn nhớ một câu chuyện xảy ra ở Đông Âu vào tháng 2 năm 2002: Có hai mẹ con chưa thật sự thấu hiểu nhau. Đứa con gái 13 tuổi luôn cho rằng địa vị người mẹ thấp hèn, có người mẹ như vậy không thể ngẩng đầu lên nhìn ai được. Một ngày kia, người mẹ rủ con gái đi trượt tuyết trên núi Alpes. Trong lúc trượt tuyết, do thiếu kinh nghiệm, hai mẹ con đã lạc đường, rồi một trận lở tuyết dữ dội xảy đến. Mẹ con họ chống chọi hai ngày hai đêm trên núi tuyết, mấy lần trông thấy trực thăng cứu hộ đang đi tìm họ, nhưng đều không thể phát hiện ra họ bởi vì cả hai mẹ con đều mặc bộ đồ màu trắng bạc như tuyết. Cuối cùng, người con gái ngất đi do sức yếu, khi tỉnh dậy cô bé thấy mình đang nằm trong bệnh viện, còn người mẹ của cô đã qua đời.

Các bác sĩ nói với cô rằng, người mẹ đã dùng cả sinh mạng để cứu cô. Thì ra, người mẹ đã tự cắt động mạch lấy máu nhuộm đỏ một vùng tuyết trắng để các trực thăng cứu hộ phát hiện ra con gái mình. Tình thương của người mẹ là như thế đó, và tình thương của người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Bà yêu thương đứa con nhỏ yếu đuối, không tự làm được gì để cứu mình, nên bà đã làm mọi cách để cứu đứa con của mình. Yêu con nên bà đã tin Chúa.

Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ.

Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa.

Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo.

Yêu con nên bà đã tín thác vào Chúa. Bà tin chắc chắn Chúa sẽ cứu chữa con bà.

Một đức tin mạnh mẽ đã làm phát sinh lòng can đảm, khiêm nhu và kiên trì và đức tin mạnh mẽ ấy đã khiến Đức Giêsu không thể từ chối.

Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa. Đó chính là điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.

 

51.Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

TIN YÊU SỐNG BÍ TÍCH THÁNH THỂ THEO GƯƠNG ĐỨC MẸ

Đoạn Tin Mừng hôm nay thật lôi cuốn. Lôi cuốn trước hết ở diễn tiến bất ngờ của phép lạ. Bất ngờ đầu tiên: người phụ nữ ngoại đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách càng xa diệu vợi. Thế mà người phụ nữ này dám vượt qua hết những rào cản để đến với Chúa. Bất ngờ thứ hai: Chúa đã có thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối bằng im lặng không trả lời. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói quyết liệt: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi”. Và căng thẳng đến tàn nhẫn: “Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Bất ngờ thứ ba: người phụ nữ chấp nhận tất cả những thử thách, và đã có câu trả lời thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin tưởng. Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ.

Lôi cuốn ở nét đẹp tâm hồn người phụ nữ. Ẩn sâu trong vẻ đẹp của thái độ người phụ nữ ngoại đạo, ta thấy nổi bật hai phẩm chất cao quí đó là: Tin và Yêu. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, không chỉ sự mệt nhọc tìm kiếm mà cả sự dửng dưng lạnh nhạt và nhất là sự khinh khi nhục mạ. Yêu con nên bà tin Chúa. Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Tin và Yêu giống như đôi cánh đã giúp người phụ nữ bay lên rất cao và bay đi rất xa. Cao lên tới Thiên Chúa. Xa khỏi những ngăn cách trắc trở. Tin và Yêu giống như giòng thác nước. Càng gặp đập ngăn cản càng dâng lên cao. Càng dâng lên cao sức mạnh càng tăng. Và khi đổ ào xuống sẽ phát sinh công hiệu quả lớn. Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn Thiên Chúa.

Trong bối cảnh của Năm Thánh Thể, thái độ người phụ nữ ngoại đạo khiến ta liên tưởng đến Đức Mẹ, người phụ nữ Thánh Thể. Người phụ nữ ngoại đạo này là một bà mẹ hiền. Vì thương con đói khổ nên bà đã lặn lội đi tìm tấm bánh về nuôi con. Vì thương con nên bà chấp nhận tất cả mọi vất vả, khổ cực, nhục nhã. Và Chúa đã thưởng công bà. Bà chỉ mong tìm được những mẩu bánh vụn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã ban cho bà trọn vẹn tấm bánh thơm ngon của những đứa con. Bà chỉ mong được như lũ chó con chực chờ thức ăn dư thừa từ bàn chủ rơi xuống. Nhưng Chúa đã cho bà và con gái bà được đồng bàn với con cái Chúa. Chúa đã ban cho bà tấm bánh hạnh phúc. Đó là tấm bánh cứu độ. Cho bà được gia nhập gia đình Chúa, trở nên con cái Chúa. Bà đã mở được đường lên Nước Trời, đã làm cho Chúa thay đổi chương trình, thu nhận dân ngoại vào Nước Chúa.

Cũng thế, Đức Mẹ là người mẹ rất hiền từ. Vì thương yêu chúng ta nên Mẹ cũng lặn lội đi tìm cho ta tấm bánh hạnh phúc. Mẹ đã trao ban cho ta tấm bánh cứu độ. Đó chính là Chúa Giêsu Kitô. Nếu hiểu rằng Thịt Máu Chúa Giêsu Thánh Thể cũng chính là thịt máu Mẹ đã cưu mang trong lòng, ta mới rõ Đức Mẹ là người Mẹ hiền đã tìm cho con cái tấm bánh cứu độ thơm ngon hạnh phúc. Và để có được tấm bánh đó, Đức Mẹ đã phải chịu rất nhiều vất vả, đau đớn, khổ nhục như lời tiên tri Simêon tiên báo: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”. Chính nhờ Mẹ, ta được ăn bánh các thiên thần, được đồng bàn với thần thánh, được nên con Thiên Chúa.

Không những ban cho ta tấm bánh cứu độ, Đức Mẹ còn dạy ta sống bí tích Thánh Thể trong đức tin và tình yêu.

Đức Mẹ dạy ta hãy tin thật Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, noi gương Mẹ khi xưa nghe lời thiên thần truyền tin đã hoàn toàn tin rằng bào thai trong lòng Mẹ là Con Thiên Chúa.

Đức Mẹ dạy ta hãy tin vào quyền năng của Chúa. Như xưa tại tiệc cưới Cana, Mẹ đã bảo các gia nhân: “Người bảo gì thì hãy cứ làm theo”. Hôm nay, trong Năm Thánh Thể, Đức Mẹ cũng muốn nói với ta: Nếu Chúa đã dạy: “ Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”, thì hãy sốt sắng tin tưởng cử hành bí tích Thánh Thể. Hãy vững tin vì Đấng đã có thể biến nước lã hoá thành rượu ngon cũng có thể làm cho bánh và rượu trở nên Thịt Máu Người.

Đức Mẹ dạy ta hãy luôn hướng về bí tích Thánh Thể như xưa Mẹ đã theo Chúa Giêsu trên mọi bước đường, dù gian nan khổ cực.

Đức Mẹ dạy ta dâng mình làm hy lễ. Như xưa Mẹ đã đứng dưới chân Thánh giá, cùng Chúa Giêsu dâng hiến những đau khổ làm hy lễ dâng Thiên Chúa Cha.

Và cũng như xưa Đức Mẹ đã đem Chúa Giêsu đến với bà Elisabet, đem lại niềm vui lớn lao cho bà, vì đã cho Thánh Gioan Baotixita được khỏi tổ tông truyền khi còn trong lòng mẹ, Đức Mẹ cũng dạy ta khi sống bí tích Thánh Thể, hãy trở nên những nhà tạm sống động đem Chúa Giêsu Thánh Thể đến khắp mọi nơi, đem ơn cứu độ đến cho mọi người.

Hôm nay khi cho người phụ nữ ngoại đạo được tấm bánh của con cái, được đồng bàn với con cái Chúa, Chúa cho bà được gia nhập dân riêng Chúa. Điều đó nhắc nhở ta khi sống bí tích Thánh Thể cũng hãy chăm lo việc truyền giáo, đi quy tụ nhiều người về bàn tiệc Thánh Thể, vào dự tiệc Nước Trời. Đức Mẹ La Vang luôn quan tâm đến việc truyền giáo, nên Mẹ không ngừng yêu thương và ban ơn lành cho những lương dân chạy đến với Mẹ. Trong những buổi cử hành sắp tới, ta sẽ được nghe những chứng từ rất sống động về tình thương của Mẹ.

Đức Mẹ là thầy dạy về bí tích Thánh Thể một cách tuyệt hảo. Chính vì thế, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị khuyên mời ta hãy đến nơi trường của Đức Mẹ. Hôm nay, họp nhau đông đảo về đây, ta hãy tạ ơn Mẹ La Vang đã ban cho ta Chúa Giêsu là tấm bánh cứu độ hạnh phúc. Ta hãy xin Mẹ dạy ta biết sống bí tích Thánh Thể trong cuộc đời. Hãy noi gương Mẹ đem Thánh Thể đến khắp các nẻo đường, quy tụ một dân đông đảo về dự tiệc Thánh Thể, dự tiệc Nước Chúa.

Lạy Mẹ La Vang xin nhận lời chúng con. Amen.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Bí quyết nào khiến bà mẹ ngoại đạo đạt được ước nguyện?

2) Người phụ nữ ngoại đạo nêu gương cầu nguyện cho ta thế nào?

3) Đức Mẹ đã sống đức tin vào tình yêu thế nào trong cuộc đời?

 

52.Ơn Cứu Độ phổ quát.

Tại một làng bên Ấn Độ có một đạo sĩ thánh thiện, ai cũng tìm đến xin đến ông cầu nguyện cho. Cứ mỗi lần có ai đến kêu cứu, vị đạo sĩ thường vào rừng, tìm đến một nơi vắng vẻ và cầu nguyện. Lần nào Thiên Chúa cũng nhận lời ông và độ trì cho dân chúng.

Khi nhà đạo sĩ qua đời, dân chúng trong làng cũng muốn có người kế tục. Họ tìm được một người tuy không thánh thiện nhưng biết rõ nơi vị đạo sĩ trước kia thường đến cầu nguyện cũng như thuộc lòng lời kinh của ông.

Người này nói với Chúa:

- Lạy Chúa, Chúa biết con không phải là người thánh thiện. Nhưng con tin chắc rằng Chúa không nỡ bỏ rơi dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.

Thiên Chúa đã nhận lời ông và cả dân làng đều được cứu giúp mỗi khi đến nhờ ông cầu nguyện.

Khi người này qua đời, thì dân làng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Họ tìm được một người. Người này thuộc lời cầu nguyện, nhưng lại không biết chỗ cầu nguyện trong rừng.

Ông bèn thưa với Chúa:

- Lạy Chúa, con biết không màng đến nơi chốn. Nơi nào mà không có sự hiện diện của Chúa. Vậy xin Chúa nhận lời con mà đến cứu giúp dân Chúa.

Thiên Chúa cũng đã nhận lời ông và cứu giúp tất cả những ai xin ông cầu nguyện.

Thế nhưng đến lúc con người trung gian này cũng qua đời, dân chúng lại phải đi tìm một người khác để thay thế. Nhưng kẻ kế vị này không biết chỗ trong rừng lại cũng chẳng thuộc lời cầu nguyện.

Ông đã thưa Chúa:

- Lạy Chúa, con biết Chúa không màng đến công thức của lời kinh mà chỉ lắng nghe nỗi thống khổ của dân Chúa. Xin Chúa nhận lời con mà cứu giúp họ.

Thế là một lần nữa Chúa cũng nhận lời cầu xin và độ trì dân chúng trong làng. Nhưng sau khi người này qua đời thì dân chúng không còn biết chọn ai thay thế nữa. Cuối cùng họ phải nài nỉ một người mà họ biết là không đạo đức chút nào. Ông ta chỉ biết có tiền bạc. Ông càu nhàu với Chúa:

- Lạy Chúa, Chúa là ai mà cứ bắt con cầu nguyện rồi mới ra tay cứu giúp. Bao nhiêu lời cầu cứu đây tôi xin giao cho Chúa tất cả. Tuy Chúa muốn làm gì thì làm.

Nói xong ông quay trở lại với công việc của mình. Vậy mà Chúa cũng nghe lời cầu nguyện của ông và dân chúng trong làng lúc nào cũng được cứu giúp.

Anh chị em thân mến, Thiên Chúa yêu thương con người bằng một tình yêu không thể đo lường, tính toán hay tưởng tượng được. Lời kinh, nơi chốn, ngay cả sự thánh thiện của con người không phải những gì cốt yếu để Thiên Chúa có thể thi thố tình thương của Ngài. Điều cốt yếu hơn cả mà Thiên Chúa chờ đợi nơi con người là niềm tin tưởng, phó thác trọn vẹn.

Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa còn nghe lời kêu xin của một phụ nữ ngoại đạo ở Canaan, vì nhận thấy lòng kêu xin của bà thật là vững mạnh. Đức tin quả lấp đầy cái hố xem ra ngăn cách hồng ân Thiên Chúa với các dân ngoại. Bà đã kêu cầu với Chúa Giêsu bằng danh hiệu “Con Vua Đavit”. Bà có lòng trông cậy đặc biệt vào quyền năng cao cả của Ngài. Nhưng vì người ngoại đạo nên bà không phải là người mà Đưc Giêsu phải đến thực hiện lời hứa dành cho người Do Thái. Chúa làm thinh. Các môn đệ đã mau mắn can thiệp: “Bà đã làm cho chúng tôi điếc tai mất, xin Thầy bảo bà ta yên cho chúng con nhờ!”. Câu trả lời của Đức Giêsu “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi”xem ra ăn khớp với yêu cầu của các môn đệ. Nhưng cũng cho thấy rằng, các con chiên lạc của nhà Israel có thể đôi khi lại ít gắn bó với Đức Giêsu hơn là những con chiên xa lạ trong dân ngoại. Quả thực, Đấng chăn chiên tốt lành đã không từ chối người này hay người kia.

Nghe câu trả lời có vẻ dứt khoát, người đàn bà không ngã lòng và cứ nài nẵng: “Lạy Ngài xin cứu giúp tôi”. Đến đây câu trả lời của Chúa lại có vẻ khinh bỉ hơn: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Ai cũng thấy rằng không nên so sánh như vậy, nhưng chắc cũng đoán ra rằng có lẽ là một thử thách lòng tin. Người đàn bà ngoại giáo Canaan cũng có thái độ như thế, bà đã chịu chơi không kém. Bà không phản đối mà còn tự nhận mình là “chó con”trong nhà để đòi được ăn những mảnh vụn rơi xuống đất, nghĩa là đòi cho con mình được khỏi bệnh. Đức Giêsu đọc rõ lòng tin tưởng của bà, Ngài như lấy làm ngạc nhiên về lòng tin của bà và đã nhận lời cùng với lời ca ngợi: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy”.

Thưa anh chị em,

Thiên Chúa thấu suốt tận đáy lòng con người và Ngài muốn tìm ở đấy trước hết là lòng tin. Với lòng tin chân thật thì bất cứ ai, dù là người ngoại đạo, cũng được Thiên Chúa ban ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Ngài là ơn phổ quát, cho mọi dân tộc. Ngày nay Chúa dùng Giáo Hội của Đức Kitô để cứu độ nhân loại qui tụ mọi dân tộc lại cho Ngài. Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ chung và duy nhất của cả nhân loại. Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay cũng đã cho thấy: Thiên Chúa đầy lòng thương xót và muốn ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Vì thế, Thánh Phaolo đã quyết định đi tới dân ngoại để đem lại cho Tin Mừng cứu độ. Rồi đây Do Thái và dân ngoại sẽ gặp nhau trong Giáo Hội của Đức Giêsu như một đàn chiên dưới sự chăn dắt của một Chủ Chiên.

Thánh lễ tái diễn mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Nhớ đến tình thương và ơn huệ lớn lao Ngài đã ban cho chúng ta qua Đức Kitô, chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cùng với Ngài mở rộng cõi lòng yêu thương đến với hết mọi người, để ơn cứu độ phổ quát của Chúa có thể đến được với mọi dân tộc trên thế giới.

 

53.Đức Kitô không để người nào ở ngoài.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ của – Charles E. Miller)

Đôi khi có vẻ như thời đại này có nhiều cuộc tranh cãi nhất bên trong Giáo Hội. Những người Công giáo tranh cãi với nhau về nhiều điều và phương tiện truyền thông đại chúng giống như thế gian tin rằng nước Mỹ chống lại mọi điều Đức Thánh Cha đã nói. Khi những cuộc tranh cãi kết thúc trong oán ghét và chia rẽ, chúng ta biết rằng chúng thật tai hại.

Thật sự là không có gì trong Giáo Hội hiện nay của chúng ta có thể so sánh với sự tai hại và cay đắng trong cuộc tranh cãi nơi Giáo Hội tiên khởi giữa người Do thái và dân ngoại trở lại với đức tin. Những người Kitô hữu Do thái, những người được gọi là “những người nhiệt thành” tin rằng những người dân ngoại muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, họ phải được cắt bì và theo luật Môisen. Nói cách khác, họ phải trở thành người Do thái trước đã. Những người dân ngoại thì nhấn mạnh là Chúa Giêsu đã thực hiện mọi việc mới rồi. Người đã mở rộng sự mời gọi cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc để thân mật với Thiên Chúa của Israel, Đấng là Thiên Chúa thật.

Sự mời gọi của Người đã được tiên báo trong sách tiên tri Isaia. Bài đọc chúa nhật hôm nay được lấy từ phần thứ ba trong sách tiên tri Isaia. Đoạn văn ấy nói về những người Do thái trở về sau cuộc lưu đày ở Babylon, họ thấy quê nhà của họ đã bị những người ngoại quốc xâm chiếm và họ rất phẫn nộ. Những người Do thái trở về luôn bị cám dỗ phải đánh đuổi những người ngoại quốc hoặc họ phải nghe theo lời giảng dạy của tiên tri isaia, lời ấy nói rằng những người ngoại quốc ấy có thể hợp làm một với họ và đáng được Thiên Chúa chấp nhận. Chúa nói qua miệng tiên tri rằng: “Nhà Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân nước”.

Chủ nghĩa đại kết là một bài học khó nhai đối với người Do thái. Đó là lý do vì sao vào thời Chúa Giêsu và ngay sau đó diễn ra một cuộc tranh cãi mạnh mẽ về chỗ của người dân ngoại. Người đàn bà xứ Canaan trong bài Phúc Âm hôm nay không phải là người Do thái, bà ta là người dân ngoại. Các môn đệ của Chúa Giêsu muốn Người đừng làm gì cho bà ta và muốn đuổi bà ấy đi. Khi người đàn bà cự lại và xin Chúa Giêsu chữa bệnh cho con gái bà, Chúa Giêsu đáp: “Không lý gì lại lấy thức ăn của con cái mà ném cho chó”. Tại sao Chúa Giêsu lại nói nặng lời như thế và điều đó có ý nghĩa gì? Thật ra những lời của Người chỉ là tiếng vang của những người Giuđa không muốn Người làm gì cho dân ngoại và coi dân ngoại như chó vậy. Thánh Mathêu khi viết Phúc Âm, ngài đã hy vọng rằng khi nghe những lời nặng nề khó nghe trên môi miệng của Chúa Giêsu sẽ làm cho những người nghe bị sốc vì sự loại bỏ dân ngoại đến cỡ nào. Người đàn bà với đức tin của mình đã chiếm được ân sủng nơi Chúa Giêsu.

Ngày nay, chúng ta không nghĩ rằng mọi người phải trở thành người Do thái trước khi trở thành người Công giáo nữa. Nhưng chúng ta có thể thực hành những hình thức khác của sự loại trừ. Trong một số vai trò hình thức cũ đã trở lại “chống chủ nghĩa Semit” ngày nay đã thay thế “chủ nghĩa bài dân ngoại” của thế kỷ Kitô giáo đầu tiên. Chủ nghĩa chủng tộc là một vấn đề nghiêm trọng nơi xã hội của chúng ta ngày hôm nay. Oán ghét dân nhập cư, nhiều người trong những phong trào đó, mang danh là người công giáo, đã được gán cho một từ rất lạ, chủ nghĩa “bài ngoại”.

Từ mà chúng ta sẽ tập trung chú ý là “người Công giáo”. Từ đó nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là một Giáo Hội toàn cầu, bao gồm cả thế giới, Giáo Hội thân thiết với mọi dân tộc. Mọi nhà thờ công giáo đều là nhà cầu nguyện cho tất cả mọi người. Ở đó Thiên Chúa đã tự hiến vì tất cả chúng ta, không phải là những bánh vụn rơi từ bàn ăn nhưng là Thịt và Máu Chúa. Chúa đã đến với chúng ta trong Bánh Thánh, là Chúa của mọi dân tộc. Trở nên tín hữu của Người là chấp nhận tất cả mọi người không loại trừ một ai hết.

 

54.Tin Mừng Cứu Độ được loan báo cho mọi người

(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)

Tin Mừng Mt 15: 21-28: Tấm gương người đàn bà này là một lời mời gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Có tin tưởng là có phép lạ; mạnh mẽ tin thì sẽ muốn sao được vậy.

Cả ba bài đọc Kinh thánh trong Chúa nhật XX này mở ra đề tài về tính phổ quát của dân Tin mừng. Ơn cứu độ của Đức Kitô không là đặc quyền, đặc lợi của một dân tộc hay của một ai. Ơn cứu độ được ban tặng cho hết thảy mọi người.

Danh xưng Công giáo của Giáo hội nói lên đặc tính phổ quát này: nghĩa là yêu thương, đón nhận, phục vụ tất cả mọi người không phân biệt nguồn gốc, văn hóa, chủng tộc… Vì đối với Thiên Chúa không có dân ngoại hay người ngoài mà tất cả đều là con cái của Người.

I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1. Bài đọc I: Is 56,1.6-7

Thiên Chúa đón nhận mọi người

Chính Đức Chúa loan báo Ngài sẽ dành cho mọi người cùng một sự đón nhận như dân được tuyển chọn. Tất cả sẽ nhận biết một Thiên Chúa Duy Nhất, Chân Thật và gắn bó với Ngài.

a. Bản văn trích trong sách Isaia này ra đời sau thời kỳ lưu đày ở Babylone. Đền thờ Giêrusalem đã tìm lại thời huy hoàng của mình, là nơi tập trung tất cả đời sống quốc gia và tôn giáo của dân Do Thái.

b. Ở đây Tiên tri suy tư về ơn gọi phổ quát của nhà cầu nguyện: tất cả mọi người không phân biệt nguồn gốc, văn hóa, tình trạng xã hội đều được Thiên Chúa đón nhận như Ngài đã đón nhận dân Do Thái.

c. Giáo hội sẽ chính là nơi thực hiện trọn vẹn sứ mạng phổ quát này. Chính trong Giáo hội, nhờ niềm tin vào Đức Kitô, sẽ tạo lập lại một giống nòi duy nhất, trở nên dân của Thiên Chúa.

2. Bài đọc II: Rm 11,13-32

Thiên Chúa tỏ lòng xót thương với con cái Israel

Mặc dù người Do Thái cố chấp trong sự hoài nghi, từ chối đón nhận Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đến, nhưng Thánh Phaolô vẫn không thất vọng vì anh em đồng bào của mình: Ngài tin rằng một ngày nào đó, họ sẽ nhận ra lỗi lầm của mình và hoán cải.

a. Trong suốt những hành trình sứ vụ Tông đồ, Phaolô luôn vấp phải nỗi thương tâm: Khi mà phần đông những người ngoại tin nhận Đức Kitô, thì dân Do Thái lại chống đối Người, từ chối Người hàng loạt.

b. Tin mừng khởi đi từ dân Do Thái, nhưng họ đã không đón nhận. Tin mừng đã được loan đến anh chị em dân ngoại. Sự việc ấy, Thánh Phaolô mong rằng sẽ làm dân tộc của Ngài để ý đến Đức Kitô.

c. Dân Do Thái chắc chắn không bị loại bỏ vĩnh viễn. Dân ngoại xưa kia đã không tin, mà nay lại tin. Dân Do Thái cũng vậy, bây giờ họ không tin, ngày mai họ sẽ tin. Dân ngoại được cứu độ không có nghĩa là dân Do Thái bị loại trừ. Thiên Chúa yêu thương cứu độ hết thảy mọi người.

3. Tin mừng: Mt 15,21-28

Niềm tin lớn lao của người phụ nữ Canaan

Chúa Giêsu cứu chữa con gái người đàn bà xứ Canaan, ngoại giáo, vì bà có một lòng tin mạnh mẽ. Sự kiện này cho thấy giá trị cũng như vai trò của niềm tin. Thiên Chúa yêu thương cứu độ con người không hệ tại ở việc họ là ai, làm gì mà hệ tại ở chính niềm tin của họ. Chúa Giêsu đã khẳng định chân lý này khi nói với người đàn bà: "Này bà, bà có lòng tin mạnh, bà muốn sao thì được vậy".

a. Mặc dù, Chúa Giêsu thực hiện sứ mạng của mình chủ yếu nơi dân Do Thái, theo như lời Kinh thánh. Tuy nhiên, Người không từ chối thực thi tình yêu của Người đối với dân ngoại, nhất là khi họ tin tưởng vào Người.

b. Chúa Giêsu chỉ làm phép lạ sau khi đã chối từ lời khẩn cầu của người đàn bà nhiều lần. Và Người cũng khẳng định việc tuyển chọn Israel trước hơn mọi dân khác: "Ta chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel thôi". Tin mừng phải loan báo cho con cái trong nhà trước đã.

c. Tuy nhiên, câu chuyện đã dẫn dắt đến cao trào là đức tin của người đàn bà. Chính nhờ đức tin mà người ta trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa, thuộc dòng dõi Abraham. Người đàn bà khiêm tốn nhận ra thân phận mọn hèn của mình trước những người Do Thái là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, nên có ưu tiên hơn. Bà không xứng đáng, nhưng vẫn van xin vì biết rằng Thiên Chúa sẽ nhận lời bà. Điều này đã làm nên lòng tin lớn lao nơi bà.

II. GỢI Ý BÀI GIẢNG

1. Phép lạ chữa bệnh con gái người đàn bà Canaan minh chứng tình yêu không biên giới của Thiên Chúa:

Khi trả lời người đàn bà: Ta chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel, xem ra Chúa Giêsu tỏ một thái độ cục bộ. Hơn nữa, Người ví bà cũng như dân ngoại là chó, quả thật, dễ gây sốc đối với người nghe. Tất nhiên, ở đây Chúa Giêsu không có ý cục bộ hay coi khinh người đàn bà Canaan này. Thực ra Chúa Giêsu nhắc tới lệnh sai đi của Chúa Cha đã được các Tiên tri loan báo. Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử và địa lý trước, sau đó mới toàn thể các dân tộc và lan ra tạn cùng thế giới. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã chấp nhận cứu chữa con gái bà. Tất cả những điều này nhằm nói lên tình yêu không biên giới của Thiên Chúa. Chúa Giêsu có vai trò là mục tử đến để qui tụ tất cả lại thành một đàn chiên duy nhất.

Dù là tội nhân, dù là người chưa lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, tất cả mọi người đều sẽ được hưởng nhận tình yêu của Thiên Chúa, đều được Người thi ân giáng phúc, điều cần thiết là tin tưởng và chạy đến với Người.

2. Phép lạ chữa bệnh con gái người đàn bà Canaan, lời mời gọi niềm tin:

Trước những lời nói xem ra đầy sự khinh miệt của Chúa Giêsu, người phụ nữ vẫn khiêm tốn khẩn nài Người cứu chữa con gái mình. Bà không phật lòng trước thái độ và lời nói của Chúa Giêsu, thậm chí còn dùng chính lời của Chúa để đáp trả một cách tinh tế: "Thưa Ngài, đúng vậy, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn". Bà chỉ cầu những miếng bánh vụn thôi, cũng đủ để con bà được chữa khỏi. Bà đã tin, và tin một cách mạnh mẽ. Niềm tin nơi bà đã giúp bà khiêm tốn khẩn cầu Chúa. Đức tin mãnh liệt ấy đã gây ngỡ ngàng cho Chúa Giêsu. Bánh mà người Do Thái, con cái trong nhà khước từ, vậy mà người phụ nữ này, một người xa lạ, người ngoại lại đón nhận với một niềm tin vững vàng. Đức tin ấy đã mang lại cho bà điều bà cầu xin: Bà có lòng tin mạnh mẽ, bà muốn sao được vậy.

Tấm gương người đàn bà này là một lời mời gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Có tin tưởng là có phép lạ; mạnh mẽ tin thì sẽ muốn sao được vậy.

3. Phép lạ chữa bệnh con gái người đàn bà Canaan, lời mời gọi đến với tha nhân:

Với niềm tin mạnh mẽ của mình, người phụ nữ Canaan đã thuyết phục được Chúa Giêsu, để Người phá đổ mọi rào cản mà thi ân cho bà. Đó cũng là lời mời gọi Kitô hữu phải biết phá đổ mọi rào cản để đến với tha nhân. Chúa Giêsu ngợi khen người phụ nữ dân ngoại có đức tin mạnh mẽ, thế thì, chúng ta có quyền gì để có thể lên án chê bai, khích bác anh chị em không cùng tôn giáo chúng ta khi họ tin vào Chúa; khi họ có một nếp sống đạo đức, lành mạnh và gương mẫu. Cần phải biết rằng chúng ta cần phải học hỏi người khác. Đồng thời, chúng ta cũng phải biết mở lòng đến với mọi người. Tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương ban ơn cứu độ, tất cả đều có cơ hội trở nên con cái Chúa và tất cả đều sẽ là anh chị em của nhau. Cho nên, chúng ta không có quyền loại trừ ai, cách ly một ai và từ chối một ai cần đến chúng ta yêu thương nâng đỡ.

Là môn đệ Chúa Giêsu Kitô, Kitô hữu chúng ta phải có tấm lòng bác ái quảng đại và lòng khiêm nhu tự hạ để có thể tôn trọng yêu mến mọi người. Điều này không phải dễ khi bản thân con người dễ bị óc tự tôn, tự mãn chi phối; rất dễ bị óc kỳ thị, thành kiến và cục bộ ảnh hưởng.

III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU:

Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa luôn yêu thương nhận lời cầu khẩn của những ai tin tưởng cầu xin Ngài. Vậy giờ đây, chúng ta cùng tin tưởng dâng lời cầu nguyện.

1. Giáo hội là nơi Chúa Giêsu thông ban tình yêu cứu độ của Người cho con người và thế giới qua mọi thời đại. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hội khắp nơi luôn là nơi nương tựa, chở che và trung thành phân phát tình yêu của Chúa qua việc nỗ lực bảo vệ sự sống, bênh vực công lý và xây dựng hòa bình.

2. Ngày nay, vẫn còn nhiều anh chị em chưa nhận biết Chúa, chưa được nghe sứ điệp Tin mừng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý, đi tìm tình yêu và đi tìm Chúa, gặp được ánh sáng của Tin mừng soi chiếu.

3. Bà có lòng tin mạnh mẽ, bà muốn sao được vậy. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết gia tăng niềm tin của mình bằng đời sống gắn bó với Chúa, siêng năng đến với Thánh thể và chuyên chăm thực thi bác ái.

Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương đến cứu độ chúng con là những người tội lỗi để chúng con được trở nên con cái Chúa Cha hằng hữu. Xin gia tăng thêm đức tin cho chúng con, để tất cả luôn trung thành bước theo Chúa mang tình yêu, Tin mừng cho mọi người chung quanh. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

 

55.Chúa Nhật 20 Thường Niên

HỠI NGƯỜI ĐÀN BÀ KIA, ĐỨC TIN CỦA NGƯƠI RẤT MẠNH!

Người đàn bà xứ Canan là một người mẹ. Chúa Giêsu nhìn thấy mẹ Maria đàng sau mỗi người mẹ. Ngài không quở mắng bao nhiêu mẹ của Giacôbê và của Gioan khi bà xin cho họ làm bộ trưởng (Mt 20, 20). Ngài âu yếm chữa lành cho nhạc mẫu của Phêrô. Ngài bối rối do bà goá thành Naim vừa mất đứa con trai của mình. Tôi nghĩ rằng điều này làm ta hiểu rõ hơn điều sắp xảy ra giữa Chúa Giêsu và người mẹ xứ Canan.

Ngài là người Do thái đứng trước người phụ nữ ngoại đạo, Ngài không muốn có chuyện rắc rối với bà. Thật là khổ sở, nhất là đối với những người trẻ không chịu đựng nổi những câu chuyện giữa các chủng tộc và những tôn giáo khác nhau: Thiên Chúa có được dành cho tất cả mọi người hay không?

Sự phổ quát của Chúa, rất cảm động, vẫn có nguy cơ chỉ là lý thuyết. Chúng ta không thể dễ dàng lấn sang những khác biệt đến thế. Phải thoả hiệp dần dần. Chúa Giêsu đã chấp nhận mọi thứ của thân phận con người, kể cả những giới hạn, và việc tìm kiếm ý của Chúa Cha đôi khi rất là khó.

Chúng ta xét đoán Thiên Chúa rất nhanh: Tại sao lại có một dân tộc được chọn? Tại sao Chúa Giêsu muốn bỏ rơi người đàn bà Canan? Bởi vì, là người Do thái, Chúa Giêsu đi vào trong chương trình cứu độ như Ngài biết chương trình đó qua Thánh Kinh của dân tộc Ngài, và chương trình cứu độ bao gồm hai dữ kiện rất rõ ràng: 1/ Thiên Chúa muốn cứu chuộc tất cả mọi người; 2/ Qua dân Do thái. Vào lúc này đây, Chúa Giêsu chỉ nghĩ Ngài được phái đến “vì các con chiên lạc nhà Israel” mà thôi.

Tuy nhiên có người mẹ này đây. Một số người đã nghĩ rằng Ngài tỏ ra dửng dưng (“thậm chí Ngài không trả lời”) để làm cho đức tin của người đàn bà Canan này tăng lên! Nói như thế là chối bỏ mầu nhiệm Nhập thể. Chúa Giêsu là một con người và đơn giản là Ngài bối rối giống như một con người. Xua đuổi bà ta sao? Thoả mãn bà ấy để cho bà ấy về như các môn đệ gợi ý hay sao? Các môn đệ khó chịu và khinh khi hơn là quan tâm đến các chương trình của Thiên Chúa.

Đây là một bà mẹ, Chúa Giêsu bắt đầu khuất phục và ít ra là cho bà ấy điều mà Ngài có thể cho: sự tử tế của một cuộc đối thoại. Trước tiên hãy để cho con cái ăn no nê đã. Đừng quá vội vàng mang ơn cứu độ đến cho những người không được chuẩn bị, những con chó con.

Người đàn bà Canan hoàn toàn nắm được nét thân hữu trong những lời của Chúa Giêsu: người ta rất yêu quí những con chó nhỏ nuôi trong nhà. Bà thật sắc sảo, bà là mẹ, bà quyết tâm đến với người có thể cứu con gái của bà: “Những con chó nhỏ cũng được ăn những mảnh vụn”.

Lời nói tin tưởng này mở lòng Chúa Giêsu. Người đàn bà Canan vừa xoá bỏ một lằn ranh nơi Ngài. Với một đức tin khiêm hạ và sâu sắc đến nỗi bà không nói với Ngài: “Thầy hãy làm trái lại”. Bà đã hiểu. Bà cùng Ngài đi vào trong những dự định của Chúa Cha: “Phải, lạy Chúa, xin Ngài trước tiên hãy nghĩ đến con cái, nhưng xin đừng chậm trễ nghĩ đến những con chó con có thể còn tin tưởng nơi Chúa nhiều hơn nữa”.

Thế là Chúa Giêsu làm một cử chỉ đánh dấu tính hoàn toàn ưu việt của đức tin. Điều xảy ra với người đàn bà Canan chứng tỏ rằng từ nay tất cả đều tùy thuộc vào đức tin. Người Do thái có sự ưu tiên, người đàn bà Canan là một người mẹ làm xáo trộn tất cả, nhưng đã có một điều duy nhất đáng kể, từ nay sẽ có một điều đáng kể mà thôi: “Hỡi đàn bà kia, đức tin của bà rất mạnh”

 

56.Nỗi lòng người mẹ.

Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn chia sẻ về tình thương của một người mẹ.

Người đàn bà xứ Canaan hẳn đã đau khổ rất nhiều, khi đứa con của mình bị quỉ ám. Nghe đồn về Chúa Giêsu, ngày hôm nay bà đã tìm đến gặp Ngài để xin Ngài cứu chữa đứa con yêu dấu của bà. Bà nói:

- Lạy Ngài là con vua Đavid, xin thương xót tôi bởi vì đứa con gái của tôi bị quỉ ám khốn cực lắm.

Thế nhưng Chúa Giêsu đã yên lặng, khiến cho các môn đệ cũng phải lên tiếng can thiệp. Lần thứ hai bà lại kêu cầu:

- Lạy Ngài, xin hãy cứu giúp tôi.

Thái độ của Chúa Giêsu khiến cho chúng ta cũng phải sững sờ ngạc nhiên. Ngài bảo:

- Chớ lấy bánh của con cái mà vứt cho chó.

Nếu như chúng ta, rất có thể chúng ta đã bực bội tức tối vì cho rằng lời nói đó có tính cách mỉa mai và hạ nhục. Nhưng người phụ nữ ngoại giáo này, chắc hẳn lúc bấy giờ đã nghĩ tới nỗi khốn cùng của đứa con, nên bà vẫn kiên trì kêu xin. Bà thưa cùng Chúa Giêsu:

- Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống.

Tới lúc này chúng ta có thể nói:

- Niềm tin cậy trông và tình thương của một người mẹ đã thắng, bởi vì Chúa Giêsu đã phải lên tiếng ca ngợi bà và làm phép lạ như lòng bà mong ước. Ngài phán:

- Này bà, bà có một lòng tin mạnh mẽ. Bà muốn sao thì được như vậy.

Và đoạn Tin Mừng đã kết luận: Ngay lúc đó, con gái bà đã được chữa lành. Chắc hẳn lúc bấy giờ bà đã vui mừng hớn hở, bà đã quì xuống cảm tạ Chúa rồi vội vã trở về với đứa con của mình đã được chữa khỏi.

Từ câu chuyện trên, chúng ta hãy nghĩ đến người mẹ của mình. Người mẹ ấy cũng đã phải vất vả vì chúng ta, suốt chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta cho tới ngày hôm nay. Người mẹ ấy đã phải lo lắng mỗi khi chúng ta đau yếu. Và không chừng người mẹ ấy cũng đã khổ đau mỗi khi chúng ta ngỗ nghịch ương bướng.

Từng ngày và từng đêm, người mẹ ấy luôn cầu xin Chúa nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta để chúng ta có được một tương lai tươi sáng. Trên đời này không có gì quí giá cho bằng tình thương của người mẹ.

Chính vì thế mà nhạc sĩ Y Vân đã có lý khi ca tụng tình thương ấy:

- Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào.

Phải, lòng mẹ chính là nơi trú ẩn an toàn nhất cho mỗi đứa con. Tác phẩm tuyệt vời nhất của Thượng đế là trái tim của người mẹ. Bởi đó, chúng ta hãy biết ơn và trọng kính người mẹ của chúng ta. Tất cả những gì chúng ta làm được trong suốt cả cuộc đời cũng không đủ để báo đáp công ơn của người mẹ hiền.

Một ngày kia, khi người mẹ không còn nữa, chúng ta mới cảm nghiệm được rằng mình đã mất đi một kho tàng quí giá. Lúc bấy giờ nếu chúng ta có hối hận về cách cư xử tệ bạc của mình thì đã quá muộn.

Bởi đó, để kết luận tôi xin nhắc lại nơi đây câu ca dao của người Việt Nam chúng ta:

Công cha như núi thái sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

 

57.Một đức tin mới mẻ và mãnh liệt

(Suy niệm của Achille Degeest – Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)

Miền Tyrô và Siđôn nói chung là phần đất cuối cùng ở miền tây bắc xứ Palestina. Đa số dân chúng ở đây là người Do thái sinh sống tại vùng này, vì thế dân ngoại cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều về phương diện hiểu biết lề luật của Chúa nên chúng ta không ngạc nhiên mấy nếu một vài người ngoại đạo lại biết vài đoạn Kinh Thánh nho nhỏ. Điều này giải thích danh từ ‘con vua Đavít’ mà người phụ nữ Canaan đã dùng để thưa với Chúa. Tại sao Chúa Giêsu lại đi lên tới vùng này? Có lẽ là để đi xa xứ Galilêa một ít vì nơi đây tính cách đại chúng của Người có thể lam cho nhiều tâm hồn nghĩ lầm về một Đấng Cứu Thế trần gian. Cũng có lẽ Người lên đây là để đào tạo các môn đệ cách thong thả hơn. Nhất là qua cách Người cư xử với người phụ nữ Canaan Người muốn dậy các môn đệ một bài học thường thức. Họ sẽ nhớ lại khi đặt vấn đề người ngoại giáo gia nhập Giáo Hội, gia nhập Nước Trời và họ sẽ biết là không thể nào từ chối không cho người ngoại giáo gia nhập được. Nói chung thì đoạn Tin Mừng này tuy bề ngoài có vẻ cứng cỏi, nhưng cho thấy rõ là Chúa Giêsu quan tâm đến người ngoại giáo cách sâu xa và Người hằng yêu mến họ. Nó cũng chứng tỏ người ngoại giáo có một khả năng mới mẻ và mãnh liệt để đón nhận đức tin. Đức tin của người phụ nữ Canaan đánh động chúng ta ở những điểm nào?

1) Đây là một đức tin khiêm tốn. Người phụ nữ bất hạnh có người con gái bị ốm, đau khổ đến nỗi kêu tới Chúa Giêsu, nhưng tiếng kêu của bà ta không có vẻ hiếu thắng. Bà ta không ý thức là đang nêu ra một quyền lợi. Trái lại khi nghe Chúa bảo là tình thế muốn Ngài hoạt động ở Israel chứ không phải nơi người ngoại giáo, bà ta đã trả lời với một cung cách làm nổi bật mức độ của lời cầu xin. Bà ta cầu xin và bà đặt mình ngang hàng với đàn chó con sống bằng những mụn bánh dư thừa từ bàn ăn rơi xuống. Người phụ nữ Canaan đã gắn bó cho đức tin cái tính chất khiêm nhượng, khiến Chúa phải xiêu lòng. Đức tin vẫn là một tiếng kêu hồn nhiên. Nếu phải phân tích ta sẽ thấy trong đó dấu hiệu của một sự đau khổ lớn lao, một sự choáng váng vì trông cậy đột ngột và kẻ đó là một sự an tâm đầy tin tưởng. Hình như người phụ nữ Canaan khi được Chúa trả lời và như thế là được Người quan tâm đến, đã nắm chắc phần thắng. Một cách chắc chắn, bà ta cảm thấy là Chúa sẽ chữa lành cô con gái của bà.

2) Đây là một đức tin nài nỉ. Đức tin dừng lại cách mạnh mẽ ở một điểm rõ ràng: Chúa Giêsu có thể chữa lành đứa bé đang bị ốm. Trước mặt Chúa, người phụ nữ Canaan đã nhấn mạnh và nhắc lại lòng tin tưởng của bà vào quyền năng và lòng nhân từ của Chúa. Lúc đầu bà ta bị xua đuổi một cách cứng rắn, nhưng bà ta vẫn kiên nhẫn và tỏ ra ngoan cố, cái ngoan cố đặc biệt của bà mẹ. Trên bình diện tâm lý đức tin này có tính cách hiện sinh vì nó đi từ kinh nghiệm đau khổ và từ hy vọng sẽ được chữa lành. Trên bình diện thiêng liêng sâu xa, người ta có thể nghĩ rằng Chúa đã đặt vào trong tâm hồn người phụ nữ Canaan một ơn riêng (một ơn huệ) để bà bám chắc lấy Chúa và tin tưởng vào Người.

3) Đây là một đức tin mới mẻ và vươn xa. Đức tin không vướng mắc bởi các vấn đề, những vấn đề từ nơi khác tới. Từ các tông đồ khi các Ngài cho rằng cách làm của người phụ nữ Canaan chỉ nỗi quấy rầy và từ nơi Chúa Giêsu khi Người nêu ra vấn đề quyền ưu tiên của dân Israel. Đức tin của người phụ nữ Canaan lật đổ các vấn đề để đi thẳng tới đối tượng, điều này làm chúng ta phải suy nghĩ. Thực vậy, từ lâu chúng ta thường được nuôi dưỡng bằng rất nhiều ơn huệ của Chúa trong vụ trụ đức tin. Tuy thế đức tin của chúng ta có giữ được vẻ mới mẻ, sức vươn xa và sự khiêm tốn mà nó phải giữ hay không? Phải chăng chúng ta bị vướng mắc bởi những vấn đề thường làm suy yếu đức tin của chúng ta?

 

58.“Để bà ấy về đi....”

(Suy niệm của Lm. Bernadine M. Đặng, CRM)

Đây là những lời được thốt ra từ miệng các môn đệ Chúa Kitô sau khi nghe người đàn bà van nài Chúa cứu giúp. Không biết quý bạn nghĩ sao chứ đối với tôi những lời này nghe rất là lạnh lùng, không tế nhị, và chẳng thấy có tấm lòng tí nào. Không hiểu làm sao các môn đệ lại phản ứng như vậy? Không hiểu sao họ lại không có một tí cảm thông nào hết vậy?

Và nữa, không những chỉ các môn đệ mà thôi, xem ra ở đây Chúa Giêsu cũng dửng dưng với những lời nài nẵng của người đàn bà này: “Lạy Ngài, con Vua Đavít, xin thương xót tôi!” Chúa Giêsu đã làm gì? Thánh Mat hêu nói rằng: “Người không đáp lại một lời nào.” Tại sao vậy? Tôi thiết nghĩ, có lẽ Ngài đang đợi xem các môn đệ của ngài phản ứng ra sao, xem họ suy nghĩ gì về việc này.

Ở đây tôi thấy có hai lý do: Lý do thứ nhất mà có lẽ chúng ta thấy xảy ra thường xuyên nơi chính chúng ta. Mặc dù không có nói rõ trong bản văn, nhưng chúng ta có thể đưa ra một vài suy luận về trường hợp này. Chúng ta nhớ là các môn đệ theo Chúa đi khắp mọi nơi, mọi chỗ, từ thành này đến thành khác. Và mỗi nơi họ đến người ta đều tuôn đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dậy và xin Ngài điều này điều nọ. Tôi đoán có lẽ là các môn đệ cũng đã rất mệt - mệt về thể xác và mệt cả về những điều mà người ta cứ nài xin Chúa. Do đó, các ngài khó chịu, và không muốn ai phiền hà nữa cả. “Đã bảo đủ rồi là đủ rồi mà.” Thỉnh thoảng đôi khi tôi cũng cảm thấy mình phản ứng giống như vậy.

Tuy nhiên, lý do thứ hai được thấy ghi rõ trong bản văn lại cả là một vấn đề và thật là một điều thất vọng. Như chúng ta đã biết, và đã thấy ghi lại nhiều nơi trong Thánh Kinh, người ta trong thế giới cũ đã vạch ra một sự cách biệt rõ ràng là ai ở “trong” và ai ở “ngoài.” Người Do Thái cũng thế. Không ngoại trừ. Do đó, có lẽ họ không hình dung ra được rằng Chúa Giêsu sẽ đến để lắng nghe và giúp đỡ người đàn bà thành Canaan này. Đối với các môn đệ thì đây là một điều hoàn toàn không thể nghĩ được. Người đàn bà thành Canaan này không phải là một trong những người của họ. Chúa là Chúa của họ. Chúa không có đứng về phía bên những người không phải Do Thái. Và như thế, người đàn bà này không có lý do gì để nài xin Chúa giúp cả. Chính vì vậy mà họ đã trả lời một cách lạnh lùng là “để bà ấy về đi…”

Ở đây, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã làm gì? Ngài đã xử lý một cách rất khéo về cái thành kiến đã ăn sâu trong lòng của các môn đệ (giả vờ là ngài cũng cảm thấy như vậy). Và n hư thế, sau khi nói với người đàn bà là ngài chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel, ngài còn đi xa hơn nữa… là dùng đến chữ có tính cách gièm pha, nhục nhã là “ch ó” để chỉ về bà. Chúng ta có thể dường như nghe được cảm nghĩ của các môn đệ “Đúng rồi thầy. Nói cho bả biết rõ… thân phận của bả là ai.”

Rồi chúng ta thấy đến lượt người đàn bà phát biểu. Bà đã tỏ ra khác hẳn cử chỉ thái độ của các môn đệ. Chúng ta có thể dường như thấy nơi ánh mắt của bà đang đợi xem Chúa sẽ làm gì.

“Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống.”

Quý bạn thân mến,

Những bức tường ngăn cách mà con người đã dựng nên, những lý do tức tối đã ăn sâu trong lòng con người từ thế hệ đến thế hệ khác, những căm thù, phẫn uất nào đi nữa… để đón nhận người này và loại bỏ người kia, đều không có phần ở nơi người đàn bà này. Bà không chấp nhận những sự bất công và những xếp hạng vô nghĩa của thế gian. Bà muốn vượt qua những bức tường ngăn cách này để tìm kiếm sự thiện, sự chữa lành, và ân phúc. Không một điều gì hoặc không một ai có thể ngăn cản bà tìm kiếm người có thể cứu giúp người con gái của bà - Đấng duy nhất có thể ban cho bà điều bà cần.

Chúa Giêsu đã làm gì?

“Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy.”

Quý bạn thân mến,

Ở đây chúng ta thấy, tâm trí của các môn đệ đã đóng kín, còn của bà thì đã mở ra. Tấm lòng của các môn đệ thì hạn hẹp, đo lường, tính toán, còn của bà thì quảng đại và bao dung. Cái nhìn của các môn đệ rất thiển cận, còn cái nhìn của bà thì rất xa rộng. Và buồn thay, đức tin của các môn đệ thì lại không có, còn đức tin của bà thì thật sâu xa.

Như chúng ta đã quá biết, câu chuyện Phúc Âm hôm nay không chỉ là cái cửa sổ để nhìn vào quá khứ. Những sai lầm, thất bại, và thành kiến của các môn đệ vẫn còn đang tiếp tục lan truyền đến chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta cũng vẫn thường tiếp tục tìm cách để loại trừ và không chấp nhận. Chúng ta thích quyết định ai là người sẽ chiếm được tình yêu của chúng ta và ai không, ai đáng được chúng ta yêu và ai không, ai được chúng ta để ý đến và ai là người mà chúng ta sẽ không bao giờ màng đến. Chúng ta đã dựng nên những bức tường ngăn cách, đã xếp hạng, và gán tên đủ loại. Chúng ta đã tạo nên những cách biệt thật là đau lòng về ai là “một trong những người của chúng ta” và ai không, ai là người “ở trong” và ai là người “ở ngoài.”

Tình Yêu của Thiên Chúa không có giới hạn. Và ngài cũng xin một điều giống như vậy ở nơi chúng ta. Chắc hẳn, hầu hết mọi người chúng ta đều có những người trong cuộc đời rất cần đến sự giúp đỡ của chúng ta, rất cần đến tình thương của chúng ta, cần đến sự thông cảm của chúng ta. Và có lẽ vì một vài lý do nào đó - hoặc có một vài thành kiến, hoặc không muốn phiền hà - chúng ta đã không yêu thương họ như Chúa đã xin chúng ta.

“Để bà ấy về đi....”

Ước mong sao những lời đó không bao giờ còn có trong lòng của chúng ta hoặc thốt lên nơi miệng lưỡi chúng ta. Trái lại, khi gặp một người nào đó cần sự giúp đỡ, chúng ta đều có thể làm một điều gì đó cho họ (cho dù chỉ là một lời nói nhã nhặn, đôi tai đồng cảm đón nghe, hoặc đôi vai để tựa nương…).

Chúng ta hãy suy nghĩ, xét xem, và cầu nguyện…“Lạy Chúa, con có thể làm gì để giúp họ?”

 

home Mục lục Lưu trữ