Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 36

Tổng truy cập: 1360966

CÁC CON BẢO THẦY LÀ AI?

CÁC CON BẢO THẦY LÀ AI?

 

Lời chất vấn

Câu hỏi xưa kia Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Hôm nay Ngài cũng đặt ra cho mỗi người chúng ta.

Có thể trả lời hai cách.

Hoặc trả lời như Phêrô: "Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống".

Trả lời như vậy là rất đúng. Nhưng sợ rằng đó là một câu trả lời lý thuyết, hiển nhiên, có sẵn, theo sách vở. Chúng ta học trong sách thế nào thì thưa lại như vậy, chứ chưa chắc đã là xác tín của bản thân.

Cách thứ hai là trả lời theo kinh nghiệm bản thân. Sau khi suy nghĩ, cân nhắc mình nghĩ thế nào, cảm nghiệm điều gì thì nói lên trung thực như vậy.

Theo cách này thì trả lời không dễ và mỗi người có câu trả lời riêng của mình.

Bạn sẽ trả lời như thế nào? Riêng tôi, tôi sẽ thành thật thưa cùng Chúa như thế này: Thầy là người gây rất nhiều phiền toái cho người khác, là một gương mẫu không thế theo nổi nên dễ làm nản lòng... nhưng đồng thời Thầy là người mà con cần đến nhất, không thể thiếu trong đời con.

Một người gây phiền toái

Chúa Giêsu gây rất nhiều phiền toái cho mọi người, nhất là cho những ai muốn theo Ngài. Ngài đòi hỏi quá nhiều. Và những điều Ngài đòi hỏi thường đại ngược lại với bản năng của con người. Ngài mời gọi theo con đường hẹp, và qua cửa hẹp, vác thập giá mỗi ngày. Ngài còn đòi hỏi phải từ bỏ tất cả, kể cả chính bản thân.

Nhiều lúc Ngài đặt người môn đệ trước những lựa chọn rất nghiêm trọng và gay cấn. Muốn trung tín với Ngài nhiều khi phải chịu những thiệt thòi rất lớn, chẳng hạn phải hy sinh tiền của, tình yêu, gia đình, sự nghiệp, tương lai.... Và trong thực tế nhiều người đã không có đủ nghị lực để chấp nhận những hy sinh đó.

Có không ít những lời bộc lộ tâm tình thành thực rất đáng được thông cảm. Một nhà kinh doanh nói: Nếu làm đúng theo lương tâm Kitô giáo thì chúng tôi bị thiệt thòi quá lớn, biết lấy gì mà bù lại được! Một bà mẹ gia đình nói lên tình trạng bối rối: Nếu giữ đúng luật Chúa thì đời sống chúng tôi sẽ vô cùng chật vật, bấp bênh. Một đôi trẻ tâm sự: Nếu không phải là người có đạo thì chuyện tình duyên của chúng tôi gỡ rối cũng chẳng có gì khó. Nhưng khổ là mình có đạo nên mới thành bế tắc.

Còn có nhiều lời khác tương tự, nhiều hoàn cảnh bi thảm khác. Quả thật Chúa Giêsu gây không ít phiền toái, rắc rối... làm nhiều người đau khổ.

Một gương mẫu dễ làm nản lòng

Người tín hữu phải theo gương Chúa Giêsu. Nhưng gương tuyệt hảo, cao siêu của Ngài dễ làm người ta choáng váng. Chúa Giêsu không chấp nhận một lối sống tầm thường. Ngài không muốn chúng ta thánh thiện nửa vời. Ngài chỉ cho thấy một lý tưởng cao vút: hãy nên toàn thiện như Chúa Cha trên trời. Ngài vạch ra một con đường khó đi: hãy sống như Ngài, theo gương Ngài.

Theo Chúa Giêsu còn khó hơn leo núi. Mà chiều cao của ngọn núi này không thể đo được bằng thước trần gian. Càng leo càng thấy cao và càng thấy dốc. Làm sao đôi lúc tránh được cơn cám dỗ ác hại nhất là bỏ cuộc vì nản lòng.

Người mà ta cần đến nhất

Nhưng xét cho cùng, Chúa Giêsu vẫn là người mà ta cần đến nhất. Thiếu Ngài là ta sẽ chới với, ngả nghiêng. Cuộc đời sẽ chao đảo, lạc hướng, mất hết ý nghĩa.

Cuộc sống cũng như tâm hồn chúng ta có nhiều tầng lớp nông sâu khác nhau. Nhận định và ý nghĩa về mỗi sự việc tùy thuộc vào vị trí chúng ta đứng mà nhìn.

Nếu ngừng lại ở tầng lớp nông cạn bên trên thì chỉ gặp nơi con người toàn những khát vọng, ưu tư, toan tính về cuộc sống thường ngày, cuộc sống thể xác, vật chất trước mắt. Những khát vọng, ưu tư này dầu có thiết thân đến đâu thì cũng vẫn chỉ có tính giai đoạn, ngắn hạn, nghĩa là tương đối. Về mặt này thì có lẽ Chúa Giêsu cũng chẳng có ích gì nhiều cho chúng ta.

Nhưng càng đại xuống tầng lớp sâu hơn thì càng dễ khám phá ra những ước mơ thầm kín, thâm sâu của con người. Chúng luôn âm ỉ dưới chiều sâu, ẩn giấu... nhiều khi chính mình cũng không thế ý thức được hết. Những ước mơ này liên quan đến vận mệnh và ý nghĩa của cuộc sống. Chúng ta nhận ra mình vẫn mơ ước, ít ra một cách mơ hồ, cái gì chân thật hoàn hảo, vĩnh cửu, nghĩa là mơ ước chân lý, sự toàn thiện,

Vấn đề là ai có thể thỏa mãn được những ước mơ thâm sâu và thầm kín đó?

Chắc chắn chỉ có mình Đấng đã tự giới thiệu mình là Chân lý và là Sự sống: "Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống".

Chúa Giêsu là Chân lý bất biến và tối hậu. Ngài là Sự sống tràn đầy và vô tận.... trong khi sự sống thân xác chỉ là một tia lửa lóe lên chốc lát rồi lại tắt ngắm trong đêm dài bất tận. Ngài còn là Đường an toàn, chắc chắn, đưa hết thảy chúng ta tới Chân lý và Sự sống trọn vẹn.

Chính vì thế mà Ngài là người mà chúng ta cần đến nhất, một người không thế thiếu... mặc dầu sự hiện diện của Ngài có gây phiền toái, và sự thánh thiện của Ngài đôi khi có làm cho chúng ta nản lòng.

Cho nên lời tuyên xưng xưa của Phêrô còn phải trở thành kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta hôm nay: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai".

 

22. Đức Giêsu Kitô và Thánh Phêrô - Lm. FX. Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

Với đoạn Tin Mừng này, chúng ta đi tới trung tâm của TM I. Lần đầu tiên Đức Giêsu hỏi các môn đệ về bản thân Người và Phêrô đã minh nhiên tuyên xưng tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Câu trả lời vang lên như một điểm tới và như hoa quả của hoạt động trước đây của Đức Giêsu. Đồng thời câu trả lời cũng là tiền đề cho nhiệm vụ mà Người sẽ ký thác cho Phêrô. Toàn bản văn là chứng từ duy nhất về lập trường lạ lùng và về uy quyền của Đức Giêsu.

Đây cũng là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo các đau khổ và sự sống lại của Người. Cuối cùng, ngay sau đoạn văn này, bài tường thuật tập trung vào đề tài cuộc Khổ Nạn (x. 17,22-23; 20,17-19).

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (16,13-16):

a) Ý kiến của dân chúng (cc. 13c-14),

b) Ý của của các môn đệ (đại diện là Simôn Phêrô) (cc. 15-16);

2) Tuyên bố về tư cách của Phêrô (16,17-19);

3) Kết: Lệnh cấm (16,20).

Bản văn này có một chức năng quan trọng trong toàn tác phẩm. Không những nó nhắc lại các ký ức ở 14,2.5 (c. 14), 14,33 (c. 16) và 13,16-17 (c. 17), mà còn đặc biệt gợi tới bản văn căn bản nói về mạc khải của Con Người, 11,25-27. Bản văn này mở đầu không những cho 18,18 (c. 19b.c) và cho 23,13 (c. 19a), nhưng đặc biệt cảnh mạc khải trước Thượng Hội Đồng ở 26,61-64).

Bản văn này cũng liên kết chặt chẽ với đoạn 16,21-28, để tạo thành một cấu trúc chuyển hoán:

a) cc. 13-15;

b) cc. 16-19

c) c. 20

c’) cc. 21-22

b’) cc. 22-23

a’) cc. 24-28

3.- Vài điểm chú giải

- Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (16): Khi so với câu tuyên xưng ngắn ngủi trong Mc (8,29), các nhà chú giải có nhiều ý kiến về bản văn Mt: (a) Mt đã tuyên xưng thần tính của Đức Giêsu (Benoit); (b) Mt chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia mà thôi; (c) Mt đã nối dài lời tuyên xưng là để tránh những âm vang quân sự chính trị của danh hiệu Mêsia (Viviano). Cũng khó mà chọn hẳn ý kiến nào, bởi vì cũng rất có thể lời tuyên xưng lúc đầu chỉ nói về Đấng Mêsia (như Mc 9,29 và Lc 9,20), đã được “đọc lại” dưới ánh sáng cuộc Phục Sinh và diễn giải theo chiều hướng một lời công bố về thần tính của Đức Giêsu. Ngày hôm nay, chúng ta hoàn toàn có thể và phải hiểu theo nghĩa này.

- không phải phàm nhân (17): dịch sát là “thịt và máu”. Đây là một kiểu nói Híp-ri để chỉ các tài nguyên của con người tự nhiên, các sức lực riêng của con người

Phêrô, nghĩa là Tảng Đá (18): Ta hiểu được kiểu chơi chữ này do biết từ A-ram gốc là kepha ở nam tính.

- Hội Thánh (18): Từ ngữ Hy Lạp ekklêsia chưa có tất cả ý nghĩa định chế như từ ngữ “Hội Thánh” sau này. Do đó, từ Hội Thánh dù được dùng để dịch từ ekklêsia, không cung cấp ý nghĩa nguyên thủy cho từ ekklêsia. Hầu chắc ekklêsia dịch từ cụm từ Híp-ri qahal Yhwh, mà Bản LXX diễn ra là ekklêsia tou theou (x. Cv 7,38). Cộng đoàn Kitô hữu là Israel chân chính đã nên hiện thực (x. 10,1.5), là cuộc quy tụ dân tuyển chọn của thời cuối cùng.

chìa khóa Nước Trời (19): Ta nhớ đến Is 22,22 trong đó nhắc lại lời Thiên Chúa nói là Ngài sẽ đặt chìa khóa trên vai Engiakim để ban cho ông quyền mở và đóng cửa vào hoàng cung, tức quyền cho phép hoặc ngăn cản nhà vua ra vào. Trong sách Kh (3,7), chính Đức Giêsu tự giới thiệu như là Đấng nắm chìa khóa nhà Đavít. “Nước Trời” là một công thức Mt song song với ekklêsia của câu trước. Đây vẫn là một thực tại duy nhất nhưng nhìn theo những trương độ khác. Nước Trời vượt quá các biên cương (lịch sử) của ekklêsia; đây không phải là một định chế mà là sự thể hiện ơn cứu độ.

ràng buộc và tháo cởi (19): Đây là ngôn ngữ của các trường phái kinh sư. “Ràng buộc hoặc tháo cởi” có nghĩa là đảm nhận một nhiệm vụ ngăn cấm hoặc cho phép về những điểm còn gây tranh cãi trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng có nghĩa là tuyên bố một giáo thuyết là đúng hay sai lạc, một kiểu thực hành luân lý là hợp pháp hay không hợp pháp. Họa hoằn lắm công thức này mới có nghĩa là loại trừ khỏi cộng đoàn hoặc nhận vào lại.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (13-16)

Khi đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu không xin các môn đệ cho ý kiến về Bài Giảng trên núi hoặc về phần nào đó của công trình Người; Người hỏi họ là họ nghĩ gì về bản thân Người. Câu hỏi đã cho thấy rằng đối với Đức Giêsu, điểm này có tầm quan trọng quyết liệt. Người muốn đưa các ông đến chỗ hiểu biết rõ ràng về Người và mộtlời tuyên xưng đức tin không mập mờ vào Người. Tất cả ý nghĩa củasự hiểu biết này tuỳ thuộc Người là ai. Ở tại trung tâm, ta không thấy lời loan báo về Người, nhưng có bản thân Người.

Ngay dân chúng cũng có một ý kiến cao trọng về Người, nhưng không nhận ra vị trí đặc biệt của Người. Nếu Người chỉ là một ngôn sứ, thì Người là một ngôn sứ giữa biết bao vị khác: trước Người, đã có nhiều vị đến rồi, và sau Người sẽ có thể có nhiều vị khác đến nữa. Ngược lại, Phêrô nhận biết tư cách của Đấng hoàn toàn đặc biệt đối với loài người và tương quan của Đấng hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa. Trong tư cách Mêsia, Đức Giêsu là Vị Vua và Mục Tử duy nhất, cuối cùng và vĩnh viễn của dân Israel, đã được Thiên Chúa cử đến để ban cho dân này và toàn thể nhân loại sự sống dồi dào. Trong tư cách là Con, Người sống với Thiên Chúa mộttương quan duy nhất, với đặc điểm là sự hiểu biết hỗ tương và sự bình đẳng với nhau (x. 11,27). Vị Thiên Chúa ấy là vị Thiên Chúa hằng sống, vị Thiên Chúa duy nhất chân thật và thực hữu, là sự sống nơi chính mình, đã tạo thành mọi sự sống và đã chiến thắng sự chết bằng quyền lực của Ngài. Là Đức Vua và Mục Tử, Thiên Chúa phải dấn thân phục vụ sự sống của dân Ngài. Phêrô nhận biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia có liên hệ mật thiết với chính quyền lực sự sống, với Thiên Chúa hằng sống.

Tuyên bố về tư cách của Phêrô (17-19)

Do lời tuyên xưng ấy, Simôn được tuyên bố là có phúc. Đức Giêsu ngỏ lời với ông bằng cách gọi tên và tên họ ông, tức là thể theo đúng thực tại nhân loại và nguồn gốc của ông, và tỏ cho ông biết ân ban phi thường đã làm cho ông có thể tuyên xưng như thế: chính Cha trên trời đã ban cho ông sự hiểu biết ấy (“mạc khải”, apekalypsen. Xem 11,27; 17,5); sự hiểu biết này, người ta không thể đạt tới bằng sức loài người (“thịt và máu”). Simôn không chỉ được Đức Giêsu kêu gọi (4,18t), mà còn được Chúa Cha tuyển chọn từ trước. Do đó, ông có phúc; ông có mọi lý do để vui lên.

Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn bằng mộttên mới và loan báo mộtnhiệm vụ mới. Người gọi ông là “Phêrô”, nghĩa là tảng đá. Ở Ga 1,42 và trong các thư Phaolô, tên này có dạng gốc A-ram là “Kêpha”. Tên này là mộtsáng tạo mới của Đức Giêsu. Như người cha xác thịt đặt tên cho con, Thiên Chúa hoặc mộtngười có quyền thế có thể ban mộttên mới cho mộtngười đã đi vào một cuộc sống mới do một nhiệm vụ mới (x. St 17,5.15; Ds 13,16; 2 V 24,17). Với lời tuyên xưng do Chúa Cha ban và với mộtnhiệm vụ mới do Đức Giêsu trao, có thể nói mộtcuộc sống mới đã bắt đầu với Simôn. Đức Giêsu trong tư cách Đức Chúa ban cho ông mộttên liên hệ đến bản chất của nhiệm vụ của ông.

Nhiệm vụ này được mô tả với ba hình ảnh. (1) Phêrô là tảng đá, trên đó Đức Giêsu sẽ xây dựng Hội Thánh Người (c. 18). Hội Thánh, cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu, diễn tả cùng mộtlời tuyên xưng như Phêrô, ở đây được ví với mộttòa nhà. Đức Giêsu sẽ dựng lên tòa nhà, nhằm quy tụ các tín hữu Người. Nền móng của tòa nhà này là đích thân Phêrô, như mộtcon người sống, đã được Thiên Chúa ban cho lời tuyên xưng chân thật. Ông phải cung cấp sự chắc chắn và bền bỉ cho cộng đoàn các tín hữu. Với cộng đoàn này, Đức Giêsu hứa ban cho sự bền bỉ trường tồn: quyền lực sự chết và sự tàn tạ sẽ không chạm tới cộng đoàn này được.

Với hình ảnh (2) các chìa khóa (c. 19), Đức Giêsu không muốn nói rằng Phêrô được giao cho nhiệm vụ giữ cửa trời, nhưng được đặt như là người quản lý thay mặt chủ nhà và hành động theo sự ủy quyền của ông chủ (x. Is 22,22). Trong cộng đoàn các tín hữu, ông phải hành động thay cho Đức Chúa; (3) ông phải ràng buộc và tháo cởi (c. 19b); thậm chí ông có quyền và có nhiệm vụ tuyên bố điều gì bị cấm và điều gì được phép đón vào trong cộng đoàn Hội Thánh. Trong Bài Giảng trên núi và trong các giáo huấn khác, Đức Giêsu chỉ bận tâm tỏ bày ý muốn của Thiên Chúa và trình bày cho thấy những cách sống cần thiết để được vào Nước Trời (x. 5,20; 7,21). Phêrô phải tiếp tục nhiệm vụ này. Giáo huấn của ông đòi hỏi đến mức có thể loại trừ khỏi cộng đoàn những ai không theo và có thể đưa trở lại cộng đoàn những ai hối lỗi. Đức Giêsu không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu, nhưng ban cho cộng đoàn này mộtngười lãnh đạo có uy quyền lớn lao.

Kết: Lệnh cấm (20)

Niềm tin của đám đông rõ ràng còn phiến diện, nhưng niềm tin của các tông đồ cũng chưa hoàn chỉnh. Nhất là trong Mc (“Thầy là Đức Kitô”) và trong Lc (“Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa”), niềm tin ấy dường như còn bám rễ vào mộtquan niệm Thiên Sai ái quốc và duy quốc gia. Do đó đến cuối Đức Giêsu đã buộc các ông phải im lặng, không được nhắc đến các khẳng định ấy (Mc 8,30; Lc 9,21). TM Mt cũng có lệnh cấm tương tự, bởi vì mộtlời tuyên xưng đúng đắn vẫn không đảm bảo cho mộtđức tin trung thực. Và điều này được chứng minh ngay sau đó, qua phản ứng của Phêrô khi nghe Đức Giêsu loan báo Thương Khó (x. 16,22).

+ Kết luận

Do sự kiện là qua trung gian Phêrô, các tông đồ khám phá ra ý nghĩa của danh xưng huyền bí “Con Người” và nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia siêu việt, các ông đã tách ra khỏi những người Do Thái không tin, các ông đã trở thành phần “Dư tồn” từng được các ngôn sứ loan báo và hứa sẽ được nhận ơn cứu độ. Từ đó, Đức Giêsu có thể giao phó cho Phêrô quyền “ràng buộc” và “tháo cởi”. Do mộtsự hạ cố đầy ưu ái của Thiên Chúa, quyền chìa khóa này dựa trên đức tin của Phêrô, vừa là người có tội vừa là người có đức tin.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Hội Thánh, cộng đoàn các tín hữu, vẫn thuộc về Đức Kitô; chính Người quy tụ, xây dựng, điều khiển, còn Phêrô là tảng đá trên đó các yếu tố khác nhau của Hội Thánh được thu gom lại và kết cấu hài hòa. Nhưng chính vì thế, vai trò của Phêrô rất quan trọng. Trong Hội Thánh trần thế, là con đường đưa tới Nước Trời, không phải mọi sự đều tinh trong hoặc đã hoàn tất. Phêrô có vai trò phục vụ sự biện phân. Chính ông phê phán là các thành viên Hội Thánh đang sống phù hợp với dự định của Đức Kitô hay không.

2. Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô không cần qua Hội Thánh, bảo rằng mình có thể trực tiếp tự mình gặp Đức Giêsu không cần nhờ đến Giáo Hội, là liều lĩnh. Làm như thế là xây dựng cho mình mộtĐức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra mộtĐức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải ra cho chúng ta.

3. Quyền chìa khóa được ban cho các mục tử là để phục vụ việc đi theo Đức Kitô, trở thành môn đệ của Người, chứ không phải là quyền sinh sát trên đoàn chiên. Quyền này được trao ban để phục vụ sự sống, chứ không phải để ép buộc đoàn chiên phải đi theo sở thích hoặc ngẫu hứng của riêng mình. Quyền bính là phương tiện phục vụ sự tăng trưởng (auctoritas, do động từ augere có nghĩa là “làm lớn lên”).

4. Hội Thánh là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, yếu đuối nhất, vì quy tụ quanh mộtmáng cỏ và mộtcây thập giá. Nhưng Hội Thánh cũng là thực tại cao cả nhất, giàu có nhất, vinh hiển nhất, mạnh mẽ nhất, bởi vì con trẻ sinh ra trong máng cỏ, con người chịu đóng đinh trên đồi Sọ, đã sống lại, và đang hiển trị trên muôn loài muôn vật.

5. Trong buổi tiếp kiến ngày 7-6-2006, Đức giáo hoàng Bênêđitô XVI đã dạy: “Anh là Phêrô, và trên tảng đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy… Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì; trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Ba ẩn dụ Đức Giêsu vận dụng rất rõ ràng: Phêrô sẽ là nền móng, đá tảng, trên đó tòa nhà Hội Thánh dựa vào; ngài sẽ có chìa khóa Nước Trời để mở ra hay đóng lại cho người nào mà ngài thấy dường như là đúng; cuối cùng, ngài có thể cầm buộc hoặc tháo cởi, theo nghĩa là ngài có thể quy định hoặc cấm đoán điều gì ngài nghĩa là cần thiết đối với đời sống Hội Thánh, hiện là và vẫn là Hội Thánh của Chúa Kitô.

Sau cuộc Phục Sinh, ta cũng thấy sự cao trọng ấy mà Đức Giêsu đã muốn gán cho Phêrô (Mc 16,7; Ga 20,2.4-6)… Trong số các tông đồ, Phêrô sẽ là chứng nhân đầu tiên về cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh (Lc 24,34; 1 Cr 15,5). Vài trò của ngài, được cương quyết nêu bật (Ga 20,3-10), ghi dấu sự nối tiếp giữa tư cách cao trọng ngài đã có trong nhóm các tông đồ và sự cao trọng ngài sẽ tiếp tục có trong cộng đoàn sinh ra với các biến cố Phục Sinh… Nhiều bản văn chìa khóa liên hệ đến Phêrô có thể đưa trở lại khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, trong đó Đức Kitô ban cho Phêrô tác vụ là củng cố anh em (Lc 22,31t)…

Việc đặt vị trí tối thượng của Phêrô vào khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, vào lúc thiết lập Bí tích Thánh Thể, Cuộc Vượt Qua của Chúa, cho thấy thêm nữa ý nghĩa tối hậu của vị trí trí tối thượng ấy: cho mọi thời, Phêrô phải là người gìn giữ sự hiệp thông với Đức Kitô. Ngài phải đưa đến sự hiệp thông với Đức Kitô. Ngài phải quan tâm để tấm lưới đừng bị rách (Ga 21,11) và nhờ thế, sự hiệp thông phổ quát có thể trường tồn. Chỉ nhờ ở cùng với nhau, chúng ta mới ở với Đức Kitô, là Chúa của mọi người. Như thế trách nhiệm của Phêrô là bảo đảm sữ hiệp thông với Đức Kitô bằng tình bác ái của Đức Kitô, bằng cách đưa đến chỗ thực hiện tình bác ái này trong đời sống mỗi ngày. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho vị trí tối thượng của Phêrô, được ký thác cho những con người nghèo hèn, có thể được thực thi theo nghĩa nguyên thủy như Chúa muốn, và như thế để cỏ thể ngày càng được nhận biết theo nghĩa đúng dắn bởi các anh em chưa hoàn toàn hiệp thông với chúng ta”.

 

23. Phêrô tuyên tín và nhận quyền tối cao - Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

"Họ thưa: Có kẻ thì nói là Gioan Tẩy giả, nhóm khác: Elia": Trong câu trả lời của các môn đồ, cái đập vào mắt trước tiên là sự tạp đa dư luận về Chúa Giêsu; tuy nhiên mớ dư luận này đều có chung một yếu tố mà ta chỉ gặp trong tư tưởng Do thái và tư tưởng Thánh Kinh: đó là không ai tin rằng Chúa Giêsu là một cá nhân đặc biệt tách rời với lịch sử Israel. Nhưng hết thảy đều nghĩ Người rất có thể là một sứ giả của Thiên Chúa, một kẻ nhắc lại và hoàn tất các lần can thiệp có tính cách lịch sử của Ngài trong quá khứ (Về Chúa Giêsu như là “ngôn sứ", xin xem chú thích của BJ).

“Ta là ai ": Đừng mặc cho động từ là một nghĩa Hy lạp hay nghĩa hiện đại: Chúa Giêsu không chất vấn các môn đồ về yếu tính trường cửu của Người nhưng là về sứ mệnh lịch sử của Người đối với Thiên Chúa và dân Người, điều mà câu trả lời của Phêrô sẽ xác quyết, bản tính của Chúa Kitô, chính là cái mà Người có trách vụ chu tất ở trần gian để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.

"Con Thiên Chúa hằng sống": Câu thêm này của Matthêu được các nhà chú giải lượng giá rất khác nhau. Một số người xem đấy là lời tuyên xưng thần tính của Chúa Giêsu (Ví dụ Benoil, trong chú thích của BJ), kẻ khác lại coi là một thành ngữ tương ứng với Đấng Messia. Ý kiến thứ nhất dựa trên các lý do như sau:

1/ Trong lúc các chỗ khác trong Matthêu, người ta gọi Chúa Giêsu là "Con Thiên Chúa" (Fils de Dieu) (4, 3; 8, 29; 14, 33; 27, 43.54) với ngụ ý đơn giản rằng Người là một hữu thể siêu việt thì ở đây Phêrô lại gọi Chúa Giêsu là "Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu), nên rõ ràng là qua đó ông muốn công bố nguồn gốc thần linh của Người.

2/ Câu Chúa Giêsu long trọng thừa nhận lời tuyên tín ấy sẽ khó hiểu nếu đây không phải là một lời tuyên xưng thần tính về phía Phêrô: điều này được xác quyết qua sự kiện Chúa Giêsu đã không thừa nhận như thế, khi các môn đồ tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa trong giai thoại đi trên mặt biển trước đây (14,33); trong giai thoại này, việc thiếu mạo từ trước chữ Con ‘fils de Dieu’ chứ không phải là ‘Le Fils de Dieu’ cho thấy cùng lắm nó chỉ là một xác quyết về thiên sai tính mà thôi.

3/ Có một trường hợp duy nhất khác trong Matthêu nơi ấy Chúa Giêsu tự gọi là “Người Con của Thiên Chúa” (Le fils de Dieu) câu trả lời lần này bị viên thượng tế xem là phạm thượng (26, 63).

4/ Ta không hiểu được tại sao một mặc khải của Chúa Cha mà chỉ giúp Phêrô tuyên tín được về tính cách thiên sai của Chúa Giêsu thôi (c.17).

5/ Người ta không bao giờ minh chứng thành ngữ “Con Thiên Chúa” là đồng nghĩa với “Đấng Mêsia” (Lagrange), nên do đó đừng quá vội vàng khẳng định Phêrô đã chỉ công bố thiên sai tính, chứ không phải thần tính của Chúa Giêsu.

Chắc hẳn còn nhiều lập luận khác bênh vực ý kiến thứ nhất này, nhưng trình bày tất cả ở đây thì sợ đài quá.

Ý kiến thứ hai dựa trên các lý do như sau:

1/ Độc thần giáo đã quá bén rễ sâu vào não trạng Do thái nên chỉ có việc sống lại thân xác của Chúa Giêsu và việc tuôn ban Thánh Thần trong ngày Lễ Ngũ Tuần mới có thể cho phép các môn đồ nghĩ đến thần tính Người theo nghĩa mạnh của từ ngữ, nhưng ngay cả lúc ấy việc đào sâu thần học cũng mất nhiều thời gian mới tìm ra cách diễn tả xứng hợp, như ta thấy trong bước tiến triển giữa các thư đầu tiên của Phaolô và tổng hợp vĩ đại của Gioan.

2/ Nếu Phêrô nhận ra rõ ràng thần tính của Chúa Giêsu trong Mt 16,16 làm sao lập tức ngay sau đó (16,22) ông mạnh mẽ chống lại chương trình cứu độ Người sẽ thực hiện?

3/ Xem ra hơi táo bạo khi gán quá nhiều ý nghĩa cho mạo từ "Người" (Lc) trong thành ngữ "Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu): Làm sao ta dám nghĩ rằng các ngư phủ vô học xứ Galilê lại có thể phân biệt tế nhị như thế được.

4/ Cái mà vị thượng tế xem là phạm thượng, không phải là thành ngữ “Người Con của Thiên Chúa" (Le Fils de Dieu), nhưng đúng hơn là điều Chúa Giêsu nói thêm về việc người ngự bên hữu Thiên Chúa với tư cách là "Chúa" của Tv 110, và với tư cách là nhân vật có nguồn gốc thiên giới mà Đanien đã thoáng thấy trong thị kiến của ông (x. chú thích của BJ); v.v...

Thật khó mà chọn theo ý kiến nào. Và vấn đề lại rắc rối thêm bởi sự kiện là: lời tuyên tín ấy của Phêrô thoạt đầu có thể có nghĩa thuần túy thiên sai (điều mà Mc 8, 29 và Lc 9, 20 có phản ánh), nhưng sau đấy "được đọc lại" dưới ánh sáng Phục sinh và được giải thích trong chiều hướng một lời tuyên xưng về thần tính Chúa Giêsu. Lại nữa, là không thể dựa vào sự kế tiếp hiện nay của các đoạn văn để hội nhập sự tiến triển về mặt thiêng liêng của các môn đồ: Matthêu đã chẳng biên soạn Tin Mừng trong một viễn trong tiểu sử (theo nghĩa hiện đại của hạn từ) nhưng trong một viễn tượng thần học, và đã sửa đổi, khi có dịp, thứ tự thời gian của các biến cố để đạt đến mục tiêu riêng. Suy luận cuối cùng này không phải là không quan trọng trong trường hợp ta đang cứu xét. Vì nếu Chúa Giêsu đã thốt lên câu nói ‘kiểu Gioan’ (logion johannique) (Mt 11, 25-27) về mầu nhiệm hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trước khi Người hỏi các môn đồ ở Kaisaria của Philip, thì rất có thể Phêrô đã trực giác được một cái gì đó về thần tính của Chúa Giêsu và thoáng thấy Người không chỉ là Đấng Messia thiên hạ trông chờ mà còn là Đấng tham dự cách bí nhiệm vào chính hữu thể của Thiên Chúa. Tuy nhiên về vấn đề này, có lẽ sẽ không bao giờ ta thấy rõ hoàn toàn được.

"Ngươi là Đá và trên Đá này, Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta": Lối chơi chữ thật lý thú, sít sao trong Việt ngữ và Pháp ngữ (piene) nhưng lại không như thế trong La ngữ (Potrus và petra) và hy ngữ (Potros và potra); nó xuất phát từ tiếng Aram trong đó hạn từ képha (tảng đá, khối đá chứ chẳng phải là viên đá tách rời được) là một tiếng không thay đổi. Cách chơi chữ này đã do Chúa Giêsu sáng chế, vì ta không hề gặp một ví dụ nào khác trong đó képha là một tên riêng. Cũng vậy đối với Poros trong hy ngữ và Potrus trong La ngữ, là những cách chuyển dịch tương đương nhưng đã sớm được chấp nhận. Biệt danh này sẽ gắn liền với Simon như tên riêng của ông: ông đã được cộng đoàn tiên khởi biết đến dưới cái tên Kôphas, là một chính thức lai Hy ngữ (1 Cr 1,12; 15,5; Gl 1,18; 2,9; 2,11.14).

Đổi tên như vậy là một chuyện thường xảy ra trong Cựu Ước: nó cho thấy có mối liên hệ mới mẻ giữa người đổi tên và kẻ được đổi tên, đồng thời còn mặc một ý nghĩa nữa (St 17, 5. 15; 33, 10; Ds 13, 16; 2V 23, 34; 24, 17). Ở đây ý nghĩa thật quá rõ ràng: Simon sẽ là tảng đá móng, tảng đá vững bền trên đó Chúa Giêsu sẽ xây Hội Thánh của Người.

Các thành ngữ tảng đá móng và xây, theo nghĩa bóng, được dùng nhiều trong Kinh Thánh. Is 28,16 nói Giavê đặt một tảng đá móng tại Sion. Thần học của các giáo sĩ, dựa trên Is 31,1 dạy rằng, Abraham là nền móng trên đó Thiên Chúa xây thế giới. Chắc hẳn Chúa Giêsu là nền móng vô hình của Giáo Hội (1Cr 3, 10-11; 1 Pl: 2, 6-8; Ep 20), nhưng chính Phêrô sẽ là nền móng hữu hình sau cuộc ra đi của Người. Thì tương lai "Ta sẽ xây" có vẻ quy về thời gian sẽ đón sau cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu.

"Và quyền môn âm phủ sẽ không thắng nổi". Chúa Giêsu hình như muốn nói quyền môn âm phủ (nơi các người quá cố tạm trú chờ ngày phục sinh cuối cùng, chứ chẳng phải là hỏa ngục) sẽ không thể kìm giữ trong sự chết những kẻ sẽ thuộc về cộng đoàn thiên sai; đây là một ý niệm Do thái khá phổ biến cho rằng, dù chết hay sống, các phần tử của cộng đoàn thiên sai thời sau hết sẽ không bị sự chết kìm giữ (Is 38, 10; G 38, 17; Tv 9, 14; Kn 16, 13)

Các nhà chú giải ngoài Công giáo đã luôn có khuynh hướng giới hạn vào con người Phêrô các lời Chúa Giêsu đã hứa với ông và cho rằng các lời hứa ấy chẳng hề có giá trị như là việc thiết lập một chức vụ trường tồn. Dĩ nhiên, nếu hiểu sát mặt chữ, thì văn bản câu này chỉ nói đến Phêrô. Nhưng nó cũng nói đến Giáo Hội, mà Phêrô được đặt làm thủ lãnh, và Giáo Hội này phải trường tồn, trường tồn như Chúa Kitô đã thiết lập (x. Mt 28, 20): nó bất diệt, vì ngay cả sự chết cũng không thể làm gì chống lại nó.nhưng tính cách bất diệt này làm sao có được nếu các lời hứa với Phêrô không được lưu truyền cho những kẻ kế nhiệm ông? Vì thế học thuyết Công giáo về sự kế nhiệm sứ đồ là sự minh giải cách hợp lý lời hứa của Chúa Giêsu.

“Bấy giờ người căn dặn môn đồ không được nói cho ai hay Người là Chúa Kitô”: có lẽ Chúa Giêsu sợ rằng một việc tiết lộ không phải lúc phẩm chức thiên sai của Người sẽ khơi lại cơn sốt quốc gia chủ nghĩa. Người ta đã chẳng muốn tôn phong Người làm vua sau phép lạ hoá bánh ra nhiều đó sao? (Ga 6, 15) Nhưng việc phong vương của Người sẽ chỉ thực hiện qua cái chết điều mà những, kẻ đương thời và ngay cả các môn đồ Người (dù đã được mạc khải của Chúa Cha soi sáng) không thể nào hiểu được.

KẾT LUẬN

Nhờ khám phá qua trung gian Phêrô ý nghĩa của tước hiệu bí nhiệm của “Con Người” và nhờ nhận ra trong Chúa Giêsu Đấng Mêsia siêu việt như Người đã tự xưng ngay từ đầu sứ vụ, các sứ đồ đã tách khỏi đám người Do thái cứng tin cùng làm thành nhóm còn lại mà các ngôn sứ từng hứa ơn cứu độ cánh chung cho; và từ đó Chúa Giêsu mới có thể ủy thác cho Phêrô quyền “cầm buộc" và “tháo cởi", nghĩa là quyền thu nhận vào hoặc loại trừ khỏi Nước thiên sai, hay hơn nữa quyền quy định trong tất cả những gì liên quan đến tín lý và luân lý mà đời sống cộng đoàn thiên sai đòi hỏi, y như trong sách Đanien, các thánh của Đấng Tối Cao đã được thông ban các đặc quyền của Con Người. Quyền cầm giữ chìa khóa này, do Thiên Chúa thương ban, dựa trên niềm tin của Phêrô, một con người tội lỗi nhưng đồng thời là một kẻ tin.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Chắc chắn Giáo Hội, cộng đoàn các kẻ tin, không thuộc về Phêrô, nhưng thuộc về Chúa Kitô, vì chính Người quy tụ, xây dựng và điều khiển Giáo Hội; tuy nhiên Phêrô là nền tảng trên đó các yếu tố khác biệt của Giáo Hội được quy tụ vào và hòa hợp với nhau. Hơn nữa, ông còn được quyền cầm buộc. Trong Giáo Hội trần thế, đường tiến về Nước Trời, chẳng phải tất cả đều tinh sạch và hoàn tất đâu; Phêrô sẽ thi hành dịch vụ phân biệt trong đó. Chính ông sẽ có khả năng phê phán xem các phần tử của Giáo Hội có sống phù hợp với chương trình của Chúa Kitô hay không. Sứ mệnh được ủy thác cho Phêrô là như vậy.

2) Sau khi nghe những lời Chúa Kitô phán dậy, ta thấy không thể nào cho rằng mình có thể đi đến Chúa Kitô mà không ngang qua Giáo Hội, một xã hội vừa nhân loại vừa siêu nhiên, rằng mình có thể đơn độc và trực tiếp tìm gặp Chúa Kitô và chẳng cần Giáo Hội. Vì như thế là tự xây dựng một Chúa Kitô theo khuôn mẫu của mình, là tưởng tượng ra một vị Chúa hợp sở thích của mình là từ chối chấp nhận Chúa Giêsu như Người đã tự mặc khải cho ta.

3) Giáo Hội không phải là người che chở một nền văn minh hay văn hóa nhân loại dù rất khả kính, cũng chẳng phải là kẻ ban phát một nền an ninh hay ổn định về mặt tôn giáo, hoặc là người bảo vệ một trật tự chính trị hay xã hội nào. Giáo Hội được thiết lập là để giúp ta khám phá hành động của Chúa Kitô trong ta và trong thế giới, làm cho ta sống phù hợp với hành động đó hầu được vào Nước Trời, và gìn giữ trong lòng ta một niềm tin khiêm nhu vào Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống.

4) Dù khuôn mặt nhân loại của Giáo Hội đôi lần có thể làm ta tức giận hay lấy làm gương xấu, thì Giáo Hội vẫn luôn là người duy nhất nắm giữ những lời hằng sống, sử dụng năng lực sáng tạo của các bí tích và mở được cửa Nước Trời. Và ngay cả người vô thần vốn từ chối Giáo Hội hay lương dân không biết Giáo Hội, cũng chỉ nhận được trong âm thầm ơn sống phù hợp với tiếng nói lương tâm của họ nhờ sự trung gian không ngừng của Mẹ Giáo Hội, mà hành động vô hình lan rộng trong khắp cả thế gian.

5) Giáo Hội là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, ít được chú ý nhất, ít hùng mạnh nhất so với các thực tại khác dưới bầu trời, vì Giáo Hội được quy tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Ai nghe thế mà không sợ? Nhưng Giáo Hội cũng là thực tại cao quí nhất, giàu sang nhất, vinh quang nhất và hùng mạnh nhất trong mọi thực tại dưới bầu trời, vì Hài Nhi sinh ra trong máng cỏ, Con Người bị đóng đinh trên đồi Canvê đã phục sinh và đang hiển trị. Ai nghe vậy mà lại không vui.

6) Dù Giáo Hội còn phải chịu nhiều thử thách và bách hại, Kitô hữu vẫn không nên ngã lòng trông cậy, vì quyền lực của sự chết thế nào cũng sẽ bị Giáo Hội chiến thắng.

 

24. Suy niệm của Noel Quession

Khi Đức Giêsu đến vùng kế cận thành Xêsarê Philípphê…

Đây là những vùng phụ cận của Tia và Xiđon trên bờ biển xứ Liban... Matthêu dẫn Đức Giêsu và các môn đệ Người đến chân núi Hécmon mà đỉnh có tuyết phủ nhìn xuống toàn bộ hồ Galilê. Gần những suối nguồn của sông Giođan, trong một phong cảnh diễm lệ tươi mát với tiếng chim hót, ở giữa những tiếng cây cối xào xạc, gần động của Thần Păn (ngày nay là Bania) Vua Hêrôđê Philípphê đã cho xây một thành phố nghỉ mát ở đó. Để tôn vinh ông chủ đứng đầu đế quốc Rôma, nhà vua đã cho thành phố này cái tên hoàn toàn mới: Xêsarê!

Ngày nay, thành phố này không còn lạ gì ngoại trừ dòng suối tiếp tục trào ra từ "tảng đá" dưới chân núi.

Người hỏi các món đệ rằng: "Người ta nói Con Người là ai?"

Xa khỏi các đám đông, để tránh mọi xáo trộn mà một Đấng Mêsia có thể gây ra, Đức Giêsu một cách rõ ràng tự đặt ra một câu hỏi về "căn tính" của Người. Đối với từng người đàn ông và đàn bà mà chúng ta sống kề bên họ, than ôi chúng ta chỉ hiểu được ngoại diện của nhân cách họ. Trong mỗi con người có một thứ bí mật mà người ta chỉ khám phá được với thời gian, vì nó được giấu kín đàng sau mọi thứ mặt nạ.

Nhân cách sâu thẳm của Đức Giêsu cắm sâu vào điều không thể diễn tả được: Người là gì?

Các ông thưa: "Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”.

Dư luận của dân chúng khác nhau trong khi tiết, nhưng nhất trí về điểm cơ bản: Đức Giêsu không phải là một con người bình thường?... ngôn hành của Người làm cho Người thành một nhân vật tôn giáo phi thường. Về chủ đề này, người ta kể ra những ngôn sứ nổi tiếng của quá khứ.

NGÀY NAY cũng thế, đa phần nhân loại đều thừa nhận Đức Giêsu là một nhân vật phi thường: Người đã đóng ấn vào lịch sử phổ quát như rất ít người đã có thể làm được.

Đức Giêsu lại hỏi: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người nhiều hơn dư luận chung. Phản ánh những ý kiến thường ngày không đủ. Phải có một thái độ của bản thân.

Còn bạn, Huy Phương... Bạn, Duyên.... Bạn, Minh Hạnh... Bạn Hằng... Bạn nói gì về Đức Gíêsu? Đối với bạn, Đức Giêsu là ai?

Ông Simon Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, con Thiên Chúa hằng sống!”

Tất cả các nhà chú giải thừa nhận sức mạnh trong cách diễn tả mà Matthêu đã nhấn mạnh bằng sự nối tiếp dồn dập của bốn danh từ và mạo từ: Đấng Kitô, Con, Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống. Dĩ nhiên là không chắc, cũng trong ngày ấy, Phêrô có trong trí óc mình mọi sự xác định về mặt thần học. mà các từ ngữ ấy có được sau khi Chúa sống lại và sau một thời gian dài nghiền ngẫm về mặt trí tuệ bởi các Công đồng của thế kỷ thứ IV và thứ V Tuy nhiên, người ta không có quyền "làm giảm nhẹ" lời tuyên xưng đức tin" của Phêrô theo nghĩa thông thường của từ ngữ: “Con Thiên Chúa", "ben Elohim". Thật vậy, trong Cựu ước, tước hiệu này được áp dụng cho Đấng Kitô (Đấng Mêsia), nhưng cũng được áp dụng cho mọi con cái Israel (Xh 4,22; Đnl 14, 1; Kn 2,16 - 18,13; Gr 31,20; 2Sm 7,14).

Đối với Phêrô, rõ ràng Đức Giêsu không chỉ là một người con của Thiên Chúa như mọi người khác! Nếu nói như thế thì cũng như không nói gì. Phêrô đã nhận thấy rằng Đức Giêsu không chỉ là "một ngôn sứ" nào đó, một trong số những người mà Thiên Chúa sai đến... nhưng là Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia, Đấng Con... và chữ Con trong một ý nghĩa chỉ thuộc về một mình Đức Giêsu.

Đức Giêsu nói với ông: "Này anh Simon con ông Giona anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời…”

“Phàm nhân"... từ ngữ rất lâu đời này trong Kinh Thánh đánh dấu tính xác thực của lời nói... một công thức đẹp được tưởng tượng để gợi lên sự yếu đuối tự nhiên của con người nếu chỉ để cho ánh sáng duy lý hướng dẫn. Trong ngôn ngữ quen thuộc hôm nay, hẳn chúng ta sẽ nói: "Không phải cái lương tri nhỏ bé của anh cho anh nói ra điều đó!".

Để đạt đến những thực tại thánh thiêng thuộc về Thiên Chúa, phải có một sự "mạc khải".

Trí tuệ con người dứt khoát không thể định nghĩa Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, bên trên mọi sự như lời hát trong bài thánh ca của Thánh Grêgôriô Nadi: "Ôi lạy Chúa, Đấng Tối Cao trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao? Ngôn ngữ nào sẽ nói được về Chúa? Không một từ ngữ nào diễn tả được Chúa. Thần Khí sẽ bị trói buộc vào cái gì? Chúa vượt qua mọi trí tuệ. Chỉ có Chúa không thể diễn tả được bởi vì mọi điều được nói ra đầu từ Chúa mà ra... Chúa là cùng đích của mọi sự vật; Chúa là tất cả mọi sự vật nhưng không phải là một sự vật nào... Chúa có tất cả mọi tên, nhưng làm sao gọi được tên Ngài, Chúa là Đấng Duy Nhất mà người ta không thể gọi tên? Ôi lạy Chúa, Đấng trên hết mọi sự, chẳng phải đó là tất cả những gì mà người ta có thể ca ngợi Chúa sao?"

Phải, Đức Giêsu khẳng định, với sự đơn giản táo bạo làm người ta ngỡ ngàng, rằng không ai có thể biết được căn tính của Người nếu không được Thiên Chúa mạc khải. "Không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho" (Mt 11,27). Thánh Phaolô cũng nhấn mạnh sự bất lực của con người khi nói về "Thiên Chúa": "Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi nhờ ân sủng của Người. Người đã đoái thương mạc khải Con của Người cho tôi, để tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại. Tôi đã chẳng thuận theo các “lý do tự nhiên" (Gl 1,15-16).

“Chính Cha của Thầy mạc khải cho anh điều anh vừa nói!" Hai chữ Cha Thầy tuy nhỏ nhưng cho chúng ta thấy được vực thẳm vô cùng mà Đức Giêsu tuyên bố "thật có phúc” (đây là một mối phúc thật mới) tất cả những ai thoáng thấy điều bí ẩn của ngôi vị Người.

Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: "Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy"

Tin Mừng của Maccô (8,27-30) và của Luca (9,18-21) đã thuật lại lời tuyên xưng đức tin của Phêrô. Chỉ có Matthêu là người đã tiếp nối lời tuyên xưng ấy bằng một lời tuyên bố của Đức Giêsu về những trách nhiệm của Phêrô đối với Giáo Hội. Cách chơi chữ này trên chữ Phêrô, đích xác là của Đức Giêsu vì nó rất Sêmít và trong tiếng Do Thái cách chơi chữ ấy tự nhiên hơn trong tiếng Hy Lạp.

Thật vậy từ "Tảng Đá" (tiếng Do Thái là Képhas) ở trong tiếng Hy Lạp, cũng như trong tiếng Pháp, người ta có một công thức kém tự nhiên hơn vì có sự đổi giống Pierre: tiếng Pháp, giống cái hoặc sự biến dạng pétros/pétra: tiếng Hy Lạp). vậy chúng ta thử suy nghĩ về lời mà Đức Giêsu tuyên bố về Phêrô. Có năm hình ảnh, cũng rất Sêmít, cấu trúc lời hứa này:

1/ Tảng đá: tượng trưng cho sự vững chắc, tượng trưng cho Thiên Chúa...

2/ Giáo Hội: có nghĩa là "cộng đoàn", được Thiên Chúa triệu tập.

3/ Những cánh cửa: tượng trưng cho sức mạnh của một thành phố có tường thành thời Cổ Đại...

4/ Những chìa khóa: tượng trưng cho quyền bính.

5/ ‘Cầm buộc và tháo cởi’ tượng trưng cho tính tổng thể hiệp nhất các điều trái ngược.

Những trích dẫn trong Kinh Thánh để khẳng định rằng Thiên Chúa là "Tảng Đá". Chúng ta, chỉ cần trích dẫn: "Chúa là tảng đá của tôi, là thành trì của tôi" (Tv 71,3). Chúng ta đều đã nhìn thấy những hình ảnh của các lâu đài hay các ngôi làng có tường thành xây ngất ngưởng trên những tảng đá cao. Đức Giêsu đã có ý định xây dựng một cách vững chắc như thế!

Từ "Giáo Hội" dịch chữ "Qahal" trong tiếng Do Thái có nghĩa là "Cộng đoàn", điều Đức Giêsu muốn xây tảng, do đó là một "Cộng đoàn” những người đàn ông và đàn bà có một điều gì chung, và quy tụ để cùng nhau thực hiện một điều gì đó. Công Đồng Vatican II đã định nghĩa Giáo Hội là dân Thiên Chúa và ơn cứu độ có tính chất cộng đoàn chứ không dành cho một Kitô hữu "lẻ loi". Không thể có đức tin một cách cá nhân. Tấn bi kịch của người không hành đạo là không chịu tham gia vào cộng đoàn ngày Chúa nhật vì thế đức tin suy yếu dần và chết.

Và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi...

Bản văn theo nghĩa đen dùng một hình ảnh: "Những cửa Hadès (hỏa ngục) sẽ không chống cự nổi". Nếu chúng ta hiểu công thức này trong tất cả sức mạnh của nó thì vấn đề không chỉ là sự vững chắc của Giáo Hội có thể phòng thủ chống lại các cuộc tấn công của sự chết… nhưng còn có khả năng tấn công vào "ngục tù của sự chết" để lôi con người ra khỏi đó. Tranh thánh phương Đông tả cảnh sống lại cho chúng ta thấy Đức Giêsu vinh quang chiến thắng, đứng trên hai cánh cửa của âm ty bị phá vỡ hành hình thập giá và Người cho Ađam và Eva tham dự vào chiến thắng của Người trên sự chết. Đó là mục đích của Giáo Hội: Cứu chuộc! Đức Giêsu thật sự đã dự tính điều đó: Một "cộng đoàn" những người sống lại với Người?

Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời.

Đây cũng là một hình ảnh rất cổ xưa, dấu chỉ sự chính thống (Is 22,22). Người nào giữ chìa khóa của một ngôi nhà, người ấy có toàn quyền trên ngôi nhà đó.

Dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy! dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.

Ngày nay, người ta thấy có nhiều người sẵn sàng nói: Đức Giêsu thì tôi tin, Giáo Hội thì không...". Sau một thời kỳ tập trung thái quá các Giáo Hội, cũng như các quốc gia, cảm thấy xu hướng bung ra: Người ta xem ra bằng lòng với những "cộng đoàn nhỏ sống động và nhiệt thành" mà không cần những cơ chế lớn; người ta muốn tương đối hóa những quy phạm về học thuyết, không can đến những điểm quy chiếu khách quan. Tác vụ của Phêrô mà Đức Giêsu muốn có, nhắc chúng ta nhớ rằng Đức Tin là một ơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, và chúng ta, không thể phát minh đức tin theo sở thích cho một số nhỏ môn đệ quyền bính để thay mặt Người gìn giữ và ban phát ơn đức tin cùng các ơn khác. Đó chính là vai trò của Giáo hội.

 

home Mục lục Lưu trữ