Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 42

Tổng truy cập: 1360614

CÁCH ĐÁP TRẢ

 

CÁCH ĐÁP TRẢ

 

Hãy đặt giả thiết là bạn đang định tổ chức một bữa tiệc. Khi đã ân định xong ngày tháng tổ chức bữa tiệc, bạn lên danh sách những người mà bạn dự định mời tham dự. Sau đó, bạn gửi thiệp mời đi khắp nơi, có đính kèm phần trả lời, và chờ đợi lời phản hồi. Về cơ bản, có thể bạn chờ đợi ba loại câu trả lời:

Một số người chấp nhận lời mời của bạn. Mỗi lời chấp nhận đều làm cho bạn cảm thấy hài lòng. Tất nhiên có thể có những mức độ chấp nhận khác nhau. Một số người chấp nhận nửa vời; họ đến tham dự chỉ vì theo cách nào đó, họ cảm thấy bắt buộc phải đến. Nhưng có những người khác có thể vui lòng chấp nhận lời mời; họ cảm thấy vinh dự và biết ơn vì đã được mời.

Còn những người khác lại từ chối lời mời của bạn. Mỗi lời từ chối đều làm cho bạn thất vọng, thậm chí còn gây đau lòng cho bạn nữa, nhưng ít nhất bạn nhận biết được tương quan của bạn đối với những người đó như thế nào. Cũng có thể có nhiều mức độ từ chối. Trong một số trường hợp, có thể có những người muốn đến tham dự, nhưng không thể được, bởi vì họ mắc bận một việc quan trọng nào đó trùng vào ngày mà bạn mời. Nhưng các trường hợp khác, có những người từ chối chỉ vì không thích; không phải vì họ không thể đến, mà vì họ không muốn đến.

Trong việc đáp trả lại lời mời, còn có một cách thứ ba nữa – đó là bằng cách không hề trả lời gì cả. Vâng, đây cũng là một cách trả lời. Bạn nóng lòng chờ đợi câu trả lời, nhưng không nhận được bất cứ một lời phản hồi nào. Đây là cách trả lời tệ hại nhất. Cách này còn tồi tệ hơn cả lời từ chối. Khi có ai từ chối lời mời, bạn nhận biết được tương quan của bạn đối với người đó. Nhưng trong trường hợp này, bạn không hiểu gì cả. Bạn cứ thắc mắc không biết có chuyện gì xảy ra hay không. Không hiểu bạn có vô tình làm điều gì xúc phạm đến người được mời không? Bạn không biết, và chắc hẳn sẽ không bao giờ bạn biết được. Nếu liên lạc được với họ, thì chắc chắn họ sẽ nói “Ồ, tôi có ý định trả lời, nhưng...”. Có ý định! Câu nói này để lại cho bạn một cảm giác trống rỗng làm sao!

Thiên Chúa không hề bắt buộc chúng ta. Người chỉ mời gọi chúng ta mà thôi. Bạn không thể quá dễ dàng phớt lờ một giới răn, nhưng lại có thể dễ dàng bỏ quên một lời mời gọi. Những nhà quảng cáo không thể bắt buộc chúng ta phải mua một sản phẩm nào đó của họ, nhưng họ phải viện dẫn đến tất cả mọi mánh lới quảng cáo, để thuyết phục và dụ dỗ chúng ta mua sản phẩm đó. Thiên Chúa không hành động giống như vậy. Người quá tôn trọng sự tự do của chúng ta.

Thông thường, chúng ta không biết mình thực sự muốn gì, hoặc thậm chí không biết cái gì là tốt đẹp đối với mình. Những gì chúng ta đang tìm kiếm, và những gì chúng ta thực sự coi trọng hoặc ao ước, đều không phải lúc nào cũng tương tự như nhau. Có lẽ chúng ta quá bận rộn, cuộc sống của chúng ta bị quá tải, đến nỗi ngay cả Thiên Chúa cũng gặp khó khăn, trong việc vượt qua những yếu tố gây cản trở đó, để đến được với chúng ta.

Chỉ một mình Thiên Chúa mới biết được điều gì thực sự là tốt đẹp nhất đối với chúng ta. Tương tự như cha mẹ luôn mong muốn điều tốt đẹp nhất cho con cái mình, Thiên Chúa cũng luôn mong muốn điều tốt đẹp nhất cho chúng ta, là những con cái của Người.

Thiên Chúa mời gọi chúng ta làm gì? Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta đi vào một cuộc sống sâu xa hơn và đích thực hơn ở nơi đây, trên trái đất này. Người đang mời gọi chúng ta đi vào tương quan thân mật với chính Người. Người cũng đang mời gọi chúng ta đi vào đời sống cộng đoàn với những người khác nữa. Và đến giờ chết, Người sẽ mời gọi chúng ta đi vào sự sống đời đời.

Nói chung, phớt lờ lời mời gọi là một cách từ chối tệ hại nhất. Điều này ám chỉ sự lãnh đạm. Người lãnh đạm là người gặp khó khăn nhất trong việc hoán cải.

 

73.San sẻ niềm vui

Anh chị em thân mến.

Có lần vào tiệm ăn sáng, tôi nhìn thấy hai trường hợp trái ngược nhau:

Một đứa trẻ được mẹ dắt vào quán ăn, ngồi vào bàn, được một phần ăn riêng biệt. Nhưng nó tỏ vẻ khó chịu, không biết vì lý do gì mà nó không vui, nó không nhìn đến phần thức ăn của mình. Người mẹ thì nhìn con với vẻ ái ngại, bà năn nỉ con, nhưng vô hiệu. Cuối cùng hai người đứng lên với phần ăn còn nguyên.

Một đứa trẻ khác, trên tay có một cái lon, chạy ngay lại phần ăn còn nguyên trên bàn mà người chủ đã không cần dùng đến, nó cho tất cả vào trong chiếc lon và mang ra bên ngoài, cùng với một đứa trẻ khác nhỏ hơn, tận hưởng niềm vui của một người không cần đến.

Tôi chợt suy nghĩ: phần ăn là chất bổ dưỡng, là niềm vui cho một người, nhưng chính người đó không vui khi nhận thấy phần của mình. Một người khác nhận được niềm vui không phải chuẩn bị cho mình, nhưng lại được hưởng trọn vẹn. Nếu đứa trẻ cằm chiếc lon, không biết chuẩn bị những gì cần thiết để có thể mang phần ăn ra bên ngoài tận hưởng, thì làm sao nó có thể hưởng trọn niềm vui được.

Trong dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu cho mọi người nhìn thấy viễn ảnh một tiệc cưới, những vị khách quý đã được mời, sau đó còn được nhắc lại. Nhưng những người đã được mời đó, không một ai được dự tiệc vì có người không muốn tham dự, họ không còn nhớ đến lời mời gọi trước kia, họ chỉ sống cho mình và chỉ biết có chính mình. Có người không dự được vì họ đã bị trừng phạt. Họ không muốn dự tiệc, là một việc không phải phép, nhưng họ còn hành hạ những người đến nhắc nhở cho họ về những gì họ đã hứa, nên họ bị trừng phạt. Còn những người dự tiệc, là những người đang cần đến thức ăn và có sự chuẩn bị để đón nhận thức ăn một cách xứng đáng và không phung phí nó. Những người dự tiệc là những người không cần được báo trước, nhưng họ biết sẵn sàng đáp lại lời mời gọi với lòng chân thành.

Mỗi người trong chúng ta được mời gọi sống làm người, chúng còn được mời gọi để sống trong hồng ân Chúa cách đặc biệt hơn qua việc chúng ta được lãnh bí tích rửa tội. Đó là chúng ta được mời gọi để sống đời sống một người Công Giáo. Thiên Chúa còn mời gọi mỗi người sống trong môi trường sống của mình, sống xứng đáng với địa vị trong xã hội, trong môi trường thực tế của công việc để sống theo thánh ý Chúa. Lời mời gọi đó chúng ta cũng thường được nghe nhắc nhở lại rất nhiều trong đời sống hằng ngày: kêu gọi chu toàn trách nhiệm, kêu gọi sống xứng đáng hơn, kêu gọi sửa đỗi đời sống. Nhiều lúc những lời đó làm cho chúng ta khó chịu, không muốn nghe. Có những lúc chúng ta phản ứng mạnh mẽ hơn vì những lời đó làm cho chúng ta ái ngại. Những lời mời gọi và nhắc nhở đó, những lời làm cho chúng ta khó chịu đó là những lời kêu mời chúng ta đến dự bàn tiệc nước trời. Nhưng mỗi người đáp lại như thế nào? Cứ nhìn lại đời sống, nhìn lại những hành động đã qua, xem chúng ta đáp lại lời mời như thế nào?

Chúng ta hứa vào dự tiệc, nhưng nhiều lúc chúng mãi bận rộn với những toan tính thiệt hơn hằng ngày, chúng ta mất quá nhiều thời gian với gia tài riêng tư của mình: đó là sự ích kỷ, sự hẹp hòi và cả những cố chấp trong con người của mình, nên không còn nghe thấy gì ngoài bản thân mình. Chúng ta chỉ còn biết tính toán thiệt hơn, cố làm sao mang cho mình thật nhiều những gì mình muốn, không cần biết đó là đúng hay sai, đồng thời cũng để ngoài tai những lời nhắc nhở chân thành. Như thế thì làm sao chúng ta có thể ngồi vào bàn tiệc đã dọn sẵn và đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta giống như đứa bé, ngồi trước phần ăn nhưng không chịu dùng những gì của mình.

Nếu chúng ta chu toàn trách nhiệm hằng ngày, cho dù những khó khăn vất vã, nhưng vẫn chấp nhận và can đảm vượt qua. Nếu chúng ta biết lắng nghe và nhìn lại chính mình, để nhận ra những gì sai lỗi, để làm lại cho tốt. Nếu chúng ta lắng nghe tiếng Chúa qua những việc làm tốt đẹp, những cử chỉ yêu thương, những lời nói ủi an khi cần thiết; đó là chúng ta đang bước vào phòng tiệc với chiếc áo cưới chuẩn bị sẳn sàng, và dự tiệc vui mừng với chủ.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa kêu mời, để xứng đáng dự tiệc Nước Trời.

 

74.Chúa Nhật 28 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Luy Hữu Độ, CRM)

THIÊN CHÚA: ĐẤNG ƯU TIÊN VÀ TỐI HẬU

Người Ba Tư kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau:

Có một nhà hiền triết xuất hiện giữa phố chợ và nói sẽ giải đáp được mọi thắc mắc của bất cứ ai. Có một anh chăn chiên muốn hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông, anh cầm trong tay một con chim sẻ và đặt câu hỏi: “Thưa ngài, trong tay tôi có một con chim. Ngài là người thông thái giải đáp mọi vấn nạn, vậy xin hỏi ngài, con chim trong tay tôi còn sống hay chết”. Biết đây là cái bẫy, vì nếu nói chim sống thì tức khắc anh chăn chiên bóp nó chết trước khi mở bàn tay. Nếu nói chim chết thì anh ta mở bàn tay cho chim bay đi. Trước sự chờ đợi của đám đông, nhà hiền triết từ tốn trả lời như sau: Con chim trong tay ngươi sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi cho nó sống thì sống, nếu ngươi muốn nó chết thì nó chết.

Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc, đó là niềm khao khát thâm sâu nhất của con người, nhưng chúng ta được hạnh phúc hay không là tùy ở chúng ta, giống như con chim sống hay chết là tùy ở anh chăn chiên Hạnh phúc đích thực của mỗi người chúng ta là Thiên Chúa, là Nước Trời. Phúc Âm viết Thiên Chúa mời gọi con người tới dự tiệc cưới. Tiệc cưới đó là hình ảnh Nước Trời, là nơi đem lại hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu. Thế nhưng người ta không đáp lại, viện cớ đi thăm trại, viện cớ đi buôn bán. Đi thăm trại, đi buôn bán tự nó không phải là việc xấu, nhưng họ đã làm một việc khờ dại là chỉ chú ý đời này mà quên đi đời sau. Đi thăm trại, đi buôn bán tựu kỳ trung là lo làm giàu. Họ nghĩ lầm: giàu sang đem lại hạnh phúc. Nhưng cái nghịch lý lớn nhất của cuộc đời là khi con người tìm cách lấy đầy tâm hồn mình bằng những của cải chóng qua thì đó là lúc con người cảm thấy trống vắng nhất trong tâm hồn.

Đừng lấy lý do tôi quá bận rội với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình. Bận rộn chỉ là tấm ảnh dựng nên để che đậy những lười biếng, những tiêu cực của mình. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không? Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi bận rộn.

Thiên Chúa không phải là bông hoa để trang trí cuộc đời. Thiên Chúa là một Đấng tối cần không thể thiếu vắng trong cuộc đời chúng ta. Hạnh phúc Nước Trời không phải là một con bài trong Casino, thua con bài này ta đánh con bài khác. Hạnh phúc Nước Trời là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng và can hệ vì chỉ có một lần thôi: Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa thì muôn đời tôi được, trái lại từ chối thì tôi đánh mất đời đời.

Vậy thì Thiên Chúa phải là Đấng ưu tiên và tối hậu trong cuộc đời chúng ta. Ngài phải ỡ trên mọi lý do bận rộn, trên mọi của cải đời này. Và hạnh phúc Nước Trời là một thứ suốt đời tôi chuyên tâm tìm kiếm..

 

75.Chúa Nhật 28 Thường Niên

(Suy niệm của Lm Nguyễn Tiến Huân)

GỌI THÌ NHIỀU MÀ CHỌN THÌ ÍT

Quan niệm “Tiệc cánh chung” là một quan niệm rất phổ thông trong đạo Do Thái. Vì thế ví dụ “Đức Vua làm tiệc cưới” mà Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng gợi lại tư tưởng bữa “Tiệc cánh chung” mà Tiên tri Isaia đá nói tới: “Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi tất cả các dân trên núi nầy một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon” (Is 25,6- Bài đọc 1)

Đức Vua đây, tức là Thiên Chúa, đã nhờ “Hoàng tử” của mình là Chúa Giêsu Kitô dọn tiệc Nước Trời. Khách được mời chính thức và trước hết là dân Do Thái. “Nhưng họ không thèm đếm xỉa và bỏ đi... Thậm chí có kẻ còn bắt đầy tớ Vua (là các Tiên tri và cả chính Con của Người là Chúa Giêsu, sứ giả cuối cùng (Mt 21, 35-39) mà nhục mạ và giết đi” (Mt 22, 5-6)

Vì thế Thiên Chúa là Vua bèn “thịnh nộ và phái quân binh đi tru diệt bọn sát nhân đó và thiêu hủy thành phố của chúng” (Mt 22,7). Sau đó Đức Vua Thiên Chúa phán: “Tiệc đã sẵn sàng nhưng những khách được mời đã không đáng dự”. (Mt 22,8) và ngài truyền cho đi mời “mọi người gặp được, bất luận tốt xấu”. (c 9).

Theo thánh Luca, họ gồm cả những kẻ ăn mày, tàn tật, đui mù, què quặt (Lc 14, 21). Đúng như lời Chúa nói: “Ta bảo các ngươi: nhiều kẻ từ đông sang tây sẽ đến và dự tiệc Nước Trời, còn chính con cái trong nhà lại bị loại ra” (Mt 8,11).

Nước Thiên Chúa, ơn Cứu Độ, vậy là từ nay thuộc về mọi dân tộc: “Bởi các người (Do thái) đã khước từ những lời của Thiên Chúa nên chúng tôi quay sang người ngoại” (Cv 14,46). Và “Bởi họ (Do thái) đã sa ngã, nên ơn Cứu Độ đã về phần dân ngoại” (Rm 11,11). Lại nữa, Nước Thiên Chúa ở trần gian với tự do chọn lựa lành dữ nên gồm có người lành lẫn kẻ ác, - như ruộng lúa có cỏ lùng, mẻ lưới đầy cá tốt lẫn cá xấu (Mt 13, 36-47).

Nhưng khi ngày Tận thế đến sẽ có sự phân biệt và chọn lọc (Mt 13,41-49): người lành người tốt thì được thưởng, còn kẻ dữ người xấu thì bị phạt. Cũng vậy, kẻ dự tiệc mà mặc y phục lễ cưới, là ơn Chúa đã sắm sẵn, thì sẽ được chọn, còn kẻ “không mặc y phục lễ cưới” thì sẽ bị “đuổi ra bên ngoài ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng” (Mt 22, 11-12).

Tục lệ Do Thái: ai vào ăn tiệc cưới cũng phải mặc y phục chủ đã may và treo sẵn ở cửa vào. Ai không mặc là lỗi luật, là khinh chủ. Ví thế “Anh ta câm miệng không nói được gì để tự bào chữa” (Mt 22,12).

Nhờ tình thương của Chúa, chúng ta đã được Thiên Chúa mời tham dự Tiệc cưới Nước Trời. Đó là một vinh dự, một ơn huệ đặc biệt chúng ta phải cảm tạ Chúa và phải lo “mặc y phục” ơn Cứu độ và các việc lành phúc đức, kẻo lại bị loại ra vì: “Kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít” đấy (Mt 22,14).

Lạy Chúa, tuần này con quyết tâm Suy niệm bài Phúc âm và xét xem con đã mặc “y phục lễ cưới” sẵn sàng để vào dự tiệc Nước Trời chưa?”.

 

76.Dự tiệc cưới Nước Trời

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

A. DẪN NHẬP.

Bài Tin mừng hôm nay nói về bàn tiệc Nước Trời. Qua dụ ngôn ấy, Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết: Thiên Chúa yêu thương con người, Ngài mở rộng cửa để đón tiếp mọi người vào dự bàn tiệc Nước Trời. Lời mời gọi có tính cách rộng rãi, Ngài mời gọi mọi người không trừ ai, dù tốt dù xấu, miễn là phòng tiệc phải đầy người.

Tuy thế, lời mời gọi đó còn chờ sự đáp ứng của từng người, mỗi người có quyền tự do, họ có thể chấp nhận hay từ chối. Trong thực tế, nhiều người đã từ chối lời mời gọi thật tình đó. Nhiều người đã từ chối bằng cách viện ra những lý do không vào đâu như bận đi xem ruộng vườn, bận đi buôn bán hoặc làm bất kỳ một công việc nào khác.

Trước sự từ chối của dân Chúa, Thiên Chúa quay sang dân ngoại, mời họ vào Nước Trời cho thật đông để họ được thưởng thức những cao lương mỹ vị mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ. Tuy nhiên, muốn vào dự tiệc Nước Trời cũng phải có điều kiện: phải mặc áo cưới. Phải mặc y phục lễ cưới là phải có một sự hoán cải tâm hồn để xứng đáng là công dân Nước Trời.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Is 25,6-9.

Tiên tri Isaia đã mô tả cho chúng ta hạnh phúc viên mãn trong thời sau hết. Đó là tiệc cưới mà Thiên Chúa dọn cho mọi người trên núi. Tiệc cưới có những cao lương mỹ vị, có bê béo, rượu ngon. Đấy là hình ảnh của hạnh phúc tối cao mà những người bạn của Chúa sẽ được hưởng. Trong bữa tiệc đó, người dự không những được thưởng thức những thức ăn ngon, mà còn được cất khỏi mọi buồn sầu tủi hổ, tang chế.

Hình ảnh mà Isaia mô tả là hạnh phúc Nước Trời được Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người không phân biệt ai.

+ Bài đọc 2: Pl 4,12-14.19-20

Ở trong tù, thánh Phaolô viết thư gửi cho tín hữu Philipphê cho họ biết: những sự giúp đỡ vật chất của họ cũng không cần lắm vì một mặt Ngài đã quen sống trong cảnh thiếu thốn về vật chất; hơn nữa, có Chúa giúp đỡ để ngài thắng lướt được mọi nghịch cảnh.

Ngoài ra, ngài vẫn trân trọng lòng hảo tâm của tín hữu đã giúp đỡ ngài. Tất cả những sự giúp đỡ ấy đều đáng qúi và Ngài xin Chúa đền đáp xứng đáng tấm lòng thơm thảo của họ,

+ Bài Tin mừng: Mt 22,1-14.

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn tiệc cưới để cho biết: Thiên Chúa muốn ban hạnh phúc Nước Trời cho dân Do thái, dân ưu tuyển của Ngài, nhưng rất tiếc họ đã từ chối vì họ chuộng những giá trị trần gian hơn. Trước sự từ chối đó, Thiên Chúa đã mời những người ngoại đạo vào Nước Trời thay cho dân Do thái, dân này đã từ chối không chịu vào Nước Trời vì họ đã bị các nhà lãnh đạo dẫn đường sai lạc.

Tuy nhiên, muốn vào Nước Trời phải có điều kiện: phải mặc áo cưới. Áo cưới đây ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Đến dự tiệc Nước Trời

I. TÌM HIỂU DỤ NGÔN.

1. Phong tục tổ chức tiệc cưới.

a) Việc mời chia thành hai giai đoạn.

Những công việc diễn tiến trong dụ ngôn này hoàn toàn phù hợp với phong tục bình thường của dân Do thái. Đối với những bữa tiệc cưới, khi thiệp mời được gửi đi thì thời giờ không được xác định rõ, và khi mọi việc đã xong đâu vào đấy thì những người giúp việc mới ra đi mời lần cuối cùng xin quan khách đến dự. Như vậy, vị vua trong câu truyện này đã gửi thiệp mời dân lâu rồi, nhưng đến khi mọi việc sẵn sàng thì lời mời cuối cùng mới gửi đến và đã bị người ta từ chối.

Truyện: Tiệc cưới hoàng tử

Mùa xuân năm 1947, cả thế giới chú ý tới hàng tin lớn trên báo chí cho biết: công chúa Elizabeth của nước Anh sẽ đẹp duyên với hoàng tử Philippe, người Hy lạp. Cuộc tình duyên này quan trọng, bởi vì công chúa Elizabeth sẽ lên ngôi kế vị vua cha vì không những trên vương quốc Anh và Bắc Ái nhĩ lan, mà còn đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm trên 50 quốc gia lớn nhỏ như Ấn độ, Canada, Úc, Tân tây lan... Ai cũng tò mò theo dõi lễ cưới lịch sử này. Cuộc lễ được tổ chức ngày 20.11.1947 tại tu viện cổ kính Westminter, nơi chôn cất các bậc vương quân và những nhân vật lớn nước Anh. Người ta không những theo dõi những nhân vật chính là cô dâu chú rể mà còn chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới. Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt, từ những vị nguyên thủ quốc gia đến các vị thủ tướng và các nhà chính trị, từ những nhà qúi tộc đến những nhà tỉ phú. Nói tắt, tất cả những nhân vật quan trọng hàng đầu của nước Anh và nhiều nước trên thế giới đều lấy làm vinh dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó (Phạm văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng năm A, tr 215).

b) Khách được mời tham dự.

Theo phong tục của nhiều dân tộc xưa, tiệc cưới hoàng tử chẳng những các đại thần được ưu tiên mời, mà còn tất cả thần dân đều được hưởng lộc của nhà vua. Tiệc cưới hoàng tử Nước Trời chẳng những ưu tiên cho dân tộc Do thái, mà còn cho toàn thể muôn dân, vì toàn thể nhân loại đều là thần dân của Ngài. Như tiên tri Isaia đã loan báo:”Chúa Tể trời đất sẽ thiết tiệc đãi muôn dân”.

2. Ý nghĩa dụ ngôn.

a) Đối với người Do thái.

Đây là lời tố cáo đối với người Do thái: Quan khách đã được mời nhưng đến giờ lại từ chối không đến. Họ tiêu biểu cho người Do thái. Từ xưa họ đã được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài, nhưng khi Con Chúa Trời xuống thế gian, và họ được mời gọi theo Ngài, tin nhận Ngài thì họ lại khinh dể, đã từ chối lời mời đó. Rốt cuộc lời mời của Thiên Chúa đến trực tiếp với những tội nhân và người ngoại bang, là những kẻ không bao giờ có kỳ vọng được mời vào Nước Trời.

Còn một chi tiết nữa là vua thịnh nộ với kẻ từ chối, lại còn sỉ nhục và giết các đầy tớ của vua, sai quân đi diệt những kẻ không nhận lời mời và đốt thành của chúng. Chi tiết này dường như không ăn nhập với việc mời dự tiệc cưới. Nhưng chúng ta nhớ lại, khi Matthêu viết sách Phúc âm của ông vào giữa năm 80-90 SC, những gì đã xẩy ra trong thời gian giữa lúc Chúa Giêsu sống và lúc viết sách Phúc âm? Câu trả lời là: kinh thành Giêsrusalem bị quân Rôma phá hủy khoảng năm 70 SC. Giêrusalem thực sự bị tàn phá, không còn hòn đá nào chồng trên hòn đá nào, đền thờ bị cướp phá và bị đốt, tại hoạ này đã đến cho những kẻ không nhìn nhận Con Thiên Chúa khi Ngài đến trong thế gian.

b) Đối với mọi thời đại.

Lời mời gọi trong dụ ngôn này là lời mời gọi của Thiên Chúa đối với mọi người chúng ta. Được mời gọi vào dự tiệc cưới, tiệc cưới Con Thiên Chúa, là một vinh dự lớn lao, lại không phải mất tiền. Khi Kitô hữu được mời là được mời đến để vui vẻ, và chúng ta sẽ mất niềm vui nếu chúng ta không nhận lời mời.

Nhưng nhiều khi chúng ta lại từ chối lời mời gọi của Chúa vì những lý do chẳng ra cái gì như đi thăm ruộng, đi buôn bán... Người ta dễ bận rộn với điều tạm bợ và quên những điều liên quan tới đời đời. Quá bận tâm với những điều mắt thấy được thì dễ quên với những điều mắt không thấy được. Quá chăm chú nghe những lời mời gọi của thế gian, thì khó nghe được tiếng gọi êm dịu của Thiên Chúa.

Lời mời gọi của Chúa dành cho ta là lời mời gọi của ân sủng. Những kẻ được qui tụ là những nẻo đường không có quyền đòi hỏi gì nơi nhà vua cả. Họ không bao giờ có thể ngờ rằng mình sẽ được dự tiệc cưới và càng không xứng đáng để dự tiệc đó. Những việc xẩy đến với họ không bởi điều gì khác hơn là lòng quảng đại của nhà vua mở rộng đôi tay đón tiếp họ. Bởi ân sủng, lời mời được ban ra, và bởi ân sủng mà người ta được nhóm lại.

3. Dụ ngôn chiếc áo cưới.

Chúng ta có thể coi chiếc áo cưới là phần nối tiếp của dụ ngôn khách mời dự tiệc, hoặc coi như là một dụ ngôn riêng. Tuy coi như dụ ngôn riêng nhưng cũng là câu chuyện nối tiếp và giải rộng ý nghĩa câu truyện trước, trong câu truyện ở đây có một thực khách đến dự tiệc của nhà vua, nhưng không chịu mặc lễ phục.

Thuần phong mỹ tục coi lễ cưới là ngày lễ trọng đại của gia đình, tất nhiên có nghi thức long trọng với những trang phục đẹp đẽ chỉnh tề. Những hạng người bê bối thô lỗ tục tằn, vô lễ, vô kỷ luật đều bị loại bỏ vì nó bôi nhọ nếp sống văn hóa trong sáng và đạo đức.

Nếu ai nhận dụ ngôn chiếc áo cưới gắn liền với dụ ngôn trên thì thắc mắc: ra đường mời vào, ở giữa ngã ba đường cái thì làm gì có áo cưới? Trả lời cho thắc mắc đó, ta để ý: người đó không chữa tội gì cả, là dấu anh ta có lỗi, không cần biết nguyên do. Theo thói quen, thời xưa khách qua cửa đã có người trao áo cho, không biết người Do thái có thói quen nào? Có áo mà không mặc là lỗi tại mình vì thế nên không mở miệng chữa tội được câu nào.

Muốn vào dự tiệc cưới thì tối thiểu phải có y phục lễ cưới. Theo thánh Matthêu, muốn vào dự tiệc cưới trong nước Thiên Chúa thì mỗi người phải nhận thức rằng Giáo hội càng ngày càng đông, nhưng Giáo hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không có một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương kẻ có tội và Giáo hội của Ngài đầy tội nhân hơn là các vị thánh, nhưng dù sao, muốn vào Giáo hội, Chúa cũng đòi hỏi có sự ước muốn trở lại chân thật, một “chiếc áo trắng rửa tội”, một sự ao ước “mặc lấy Chúa Kitô”.

Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Thánh kinh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật.

II. BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.

1. Dấn thân gia nhập vào Hội thánh.

Thiên Chúa mời gọi ta: Ngài muốn có những người tham dự tiệc cưới đó. Ngài có sáng kiến trước. Lời mời gọi đó được chuyển đến ta qua các vị sứ giả của Chúa, nhất là Chúa Kitô. Chúa Kitô đến trên trần gian để mời gọi ta và sửa soạn cho ta có bộ áo cưới, tức là cứu rỗi ta. Việc sửa soạn áo cưới được cụ thể hóa bằng việc mến Chúa yêu người, tức là đời sống đức tin nhờ ơn thánh.

Nhân loại chúng ta đáp lại lời mời gọi qua trung gian là Chúa Kitô và Giáo hội. Chúng ta đến dự tiệc cưới không phải với tính cách là “khách” mà thôi, nhưng còn với tư cách là con cái trong gia đình, nhờ đó sự vui vẻ thân mật càng tăng thêm. Hiện thời bữa tiệc đó đã bắt đầu nhờ Chúa Kitô vì ta đã có ơn thánh và hằng ngày tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể chờ ngày Chúa lại đến.

Tuy chấp nhận lời mời gọi của Chúa đâu phải là sự dấn thân mang tính chất nhất thời. Đó là một tiến trình đòi hỏi phải liên tục dấn thân và thích ứng bởi vì cuộc sống thường nhật rất dễ khiến chúng ta sao lãng và bỏ quên mất sự sống đời đời, bởi vì thức ăn tầm thường của cuộc đời này dễ nhét đầy bụng chúng ta và làm cho chúng ta quên đi bữa tiệc vĩnh cửu.

Chấp nhận lời mời của Chúa không chỉ là vấn đề gật đầu một lần rồi sau đó quên tuốt đi, và việc này giống như câu nói “Tôi đồng ý” trong hôn nhân. Câu “tôi đồng ý” này đâu phải là điểm kết cho một tiến trình mà chính là điểm khởi đầu. Nhận lời Chúa cũng giống như tốt nghiệp đại học bởi vì sự tốt nghiệp không phải là điểm kết thúc cho công cuộc học vấn mà chỉ là bệ phóng cho sự học hỏi tiến xa hơn mà thôi.

2. Dự tiệc Thánh Thể hằng ngày.

Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta tham dự bữa tiệc của Nước Trời. Trong Thánh kinh, nhiều bữa được nhắc đến: như bữa ăn tổ phụ Abraham khoản đãi ba người khách lạ dưới lều vải (St 18,1-8), như bữa tiệc người cha già mừng người con đi hoang trở về (Lc 15,22-32). Chúa Giêsu đã đi dự đám cưới ở làng Cana (Ga 2,1-10), Ngài cũng dọn bữa ăn cho các môn đệ sau một đêm lao lực (Ga 21,1-14), cho dân chúng được ăn no nê tự 5 chiếc bánh và 2 con cá. Tất cả để báo hiệu bữa tiệc Thánh Thể.

Thì, hôm nay, tiên tri Isaia ví Nước Trời như một bữa tiệc mà Chúa khoản đãi mọi dân tộc, nhất là những ai đói khát tự do, công chính. Chúng ta cũng hãy sốt sắng tham dự vào bữa tiệc thánh là Lời Chúa và Thánh Thể, hãy “hân hoan vì Chúa khoản đãi và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt”.

3. Y phục xứng kỳ đức.

Tục ngữ Pháp có câu:”La soutane ne fait pas un moine”: chiếc áo dòng không làm nên ông thầy tu. Câu tục ngữ ấy có ý nói rằng muốn trở thành một tu sĩ thực thụ thì cần phải có đời sống xứng đáng với bậc tu của mình. Người ta quí trọng tu sĩ là do đời sống thánh thiện của họ chứ không phải do cái áo của họ. Cho nên quần áo thì phải đi đôi với đức độ, nghĩa là phải có cả bề trong lẫn bề ngoài.

Cung cách một người thể hiện tinh thần của người đó. Khi đến thăm một người bạn, ta sẽ không mặc bộ đồ làm vườn mà đến. Chúng ta biết rõ rằng quần áo không thành vấn đề đối với bạn chúng ta, cũng không phải chúng ta muốn trình diễn, nhưng vì vấn đề phải tôn trọng nên chúng ta đến nhà bạn một cách gọn gàng và chỉnh tề. Chuẩn bị trước như thế là chúng ta bầy tỏ cảm tình và sự tôn trọng của mình đối với bạn.

Đối với nhà của Chúa cũng vậy, ví dụ này không quan hệ gì đến việc ăn mặc của chúng ta khi đến nhà thờ để trình diễn, nhưng cần có trang phục cho linh hồn, tấm lòng và tâm trí của chúng ta. Đó là sự khao khát, trông đợi, lòng khiêm nhường và thống hối, đức tin và sự tôn kính. Đây là bộ áo lễ nếu không mặc vào thì sẽ không dám đến gần Chúa. Điều thường xẩy ra là chúng ta hay đến nhà Chúa mà không sửa soạn chút nào. Nếu mỗi người chúng ta đều sửa soạn trước khi đến nhà thờ bằng lời cầu nguyện ngắn, suy nghĩ và tự kiểm điểm bản thân thì sự thờ phượng mới đúng là sự thờ phượng thật. Một sự thờ phượng đem lại nhiều tốt lành cho tâm hồn mỗi người, cho Hội thánh và cho thế giới.

Chúng ta đã nhận lời mời của Chúa mà vào dự tiệc Nước Trời. Đây là một vinh dự lớn lao Chúa dành cho ta. Nhưng vinh dự ấy đòi chúng ta phải vươn lên bằng một đời sống lành thánh, một đời sống kết hợp với Chúa, để có thể nói như thánh Phaolô:”Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà chính Chúa Kitô sống trong tôi”. Trách nhiệm của chúng ta là phải giữ mình không để cho vật dục hay của cải trần gian lôi kéo xuống giống như con vật, ngược lại phải vươn lên làm con cái ánh sáng để xứng đáng là công dân Nước Trời.

Truyện: Đại bàng con

Chuyện kể rằng: Có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại bàng. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.

Một ngày kia, đang bưới móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bàng con bỗng thấy một con đại bàng lớn bay lượn trên không trung thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi gà mẹ:

- Mẹ ơi, sao mình không bay như chim kia trên trời?

- Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được!

- Thế chúng ta là ai?

- Chúng ta là gà rừng!

Bỗng một ngày, đang khi bươi chải kiếm ăn trên đống rác cậu lại thấy đại bàng mẹ bay lượn trên đầu gọi:

- Bay lên con ơi, bay lên đại bàng con của mẹ. Thế giới của con là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này! Bay lên đi con.

Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo:

- Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.

Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng sao đại bàng kia cứ bảo ta là đại bàng con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có khó khăn gì, có lẽ chưa quen thôi. Nào hãy thử lần nữa xem.

Thế là cậu đại bàng đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi. Cậu bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới từ trên cao, lòng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn (Thiên Phúc, Như Thầy đã yêu, năm A, tr 145-146).

Kitô hữu là người được Thiên Chúa tuyển chọn, làm con cái của Ngài. Họ là những con đại bàng, luôn ngước mắt nhìn cao, mong bay lên cùng Thiên Chúa là Cha đầy yêu thương. Họ luôn sống trong tâm tình của thánh Augustinô:”Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa. Tâm hồn con luôn thao thức cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa”.

Đừng bao giờ nghĩ mình là giống gà rừng, để cúi đầu bươi chải, an phận với những hạnh phúc nhỏ nhoi tầm thường. Tuy được những con sâu bọ là miếng mồi ngon đấy, nhưng chúng cũng nằm trên đống rác, đống phân. Chúng ta hãy vươn mình lên, vươn lên mãi cho tới trời cao, nơi quê hương thật của chúng ta ở đó.

Chúng ta hãy thực hiện lời thánh Phaolô đã dạy: ”Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21).

 

77.Dự tiệc miễn phí

Một lần nọ, tôi nghe được mẫu đối thoại như sau:

- Lúc này sao "giấy báo thuế" đến liền liền. Rầu hết sức!

- Giấy báo thuế là gì?

- Là thiệp mời đi đám đó.

- Được nhiều người mời là niềm vinh dự chứ sao lại rầu.

- Biết vậy rồi, nhưng đâu phải đến ăn không rồi về được. Phải có bao thơ chứ. Mày biết không trong vòng một tháng mà có đến 5 cái thiệp mời. Hầu hết là những chỗ không thể bỏ được nên phải bấm bụng vay tiền để đi chứ làm sao có đủ!!!

Qua mẫu chuyện nhỏ trên đây, chúng ta thấy được mời dự tiệc là một niềm vinh dự. Vì niềm vinh dự ấy chúng ta phải chịu mất tiền và mất thời gian. Niềm vinh dự ấy lại tăng thêm cho chủ nhà khi những người được mời đi dự đầy đủ. Thế nhưng, thật là buồn cho chủ nhà khi tiệc đã dọn sẵn mà những người được mời chẳng thấy ai. Tâm trạng này phần nào phản ảnh tâm trạng của ông vua trong dụ ngôn Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay.

Nhà vua sai đầy tớ đi tận nhà những người được mời và dặn: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới! " (Mt 22, 4)

Đáng buồn thay, những người được mời họ viện đủ lý do: "Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết" (Mt 22, 5b - 6). Họ đâu biết rằng làm như thế sẽ khiến nhà vua buồn như thế nào. Buồn ở đây không phải vì họ không ông nhưng ông buồn vì chính những người được mời này đã tự làm hại đến chính mình. Họ đã từ chối niềm hạnh phúc nhà vua chuẩn bị sẵn cho. Chắc chắn nhà vua là người giàu sang nên chẳng cần bao thơ làm chi. Nhà vua dọn tiệc và mời họ đến dự miễn phí nhưng họ lại từ chối.

Hình ảnh nhà vua này chính là Thiên Chúa của chúng ta. Thiên Chúa chuẩn bị sẵn cho chúng ta bữa tiệc Nước Trời và mỗi Thánh lễ cũng chính những bữa tiệc Thánh miễn phí. Thiên Chúa ban cho chúng ta một cách hoàn toàn nhưng không. Thế nhưng, đáng buồn thay có nhiều người lại tìm đủ mọi lý do để từ chối. Họ quên rằng khi từ chối như vậy là họ đang tự làm hại chính mình.

Hãy xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết nhanh chóng đáp lại lời mời gọi của Chúa đến hưởng hạnh phúc Nước Trời mà Người đã dọn sẵn cho chúng ta.

 

78.Mời vào dự tiệc cưới – Lm. Thu Băng

Mẹ Têrêsa thuật lại một câu chuyện như sau: Này kia có một cặp vợ chồng trẻ, đến tu viện tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho người nghèo. Thấy họ còn quá trẻ mà lại tặng cho chúng tôi một số tiền quá lớn, tôi tò mò hỏi: Hai con có thể cho mẹ biết tiền này ở đâu mà hai con có nhiều thế? Họ trả lời: Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước khi cưới chúng con quyết định không may sắm đồ cưới, không đãi tiệc linh đình mà để khoản tiền này dành cho những người không được may mắn như chúng con. Mẹ tiếp lời: Việc cưới hỏi mà không thiết tiệc, không may đồ cưới tại Ấn Độ là một hổ thẹn và tủi nhục cho cha mẹ hai họ. Mẹ hỏi các con: Tại sao các con quyết định một cách táo bạo như thế, không làm phật lòng cho cha mẹ? Hai bạn trẻ trả lời: Chúng con yêu nhau, chúng con muốn cuộc khởi đầu sống chung bằng một hy sinh không mặc áo cưới, không thiết tiệc bạn bè bằng món tiền chúng con đã dày công đóng góp cho nhau.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhiều lần mời gọi các tín hữu đặc biệt lưu tâm đến tình trạnh trẻ em bị bỏ rơi trên thế giới. Các em là nạn nhân của nghèo đói, của xã hội đã làm cho các gia đình không có đủ phương tiện cung cấp những của ăn cần thiết để nuôi dưỡng con cái. Ngài cũng nhắc lại tình yêu đặc biệt của Thiên Chúa, Ngài mời gọi các bạn hữu tới dự tiệc cưới đã dọn sẵn. Nhưng những người được mời không màng chi đến lời mời gọi, không màng chi đến tiệc cưới thịnh soạn. Họ mải lo làm giầu, mãi lo buôn bán, mải lo kinh doanh, mải phát triển kiến thức, mải lo con đường danh vọng đến nỗi nhức đầu khi người mời cứ vồn vã, lải nhải bên tai, khiến họ phải có phản ứng mạnh: đánh đập, giết đi. Họ không nhìn ra lời mời qúy báu của vua trời đãi tiệc. Một bữa tiệc thịnh soạn hơn cả mọi thứ mà họ đang theo đuổi, tìm kiếm.

Hạnh phúc thay cho đôi vợ chồng trẻ mới cưới, họ nhận ra lời mời của vua trời và sẵn sàng khước từ mọi vinh hoa danh vọng trần thế, để sẵn sàng mặc bộ áo cưới sang trọng của người nghèo mà vào dự tiệc cùng vua trời. Trong thế gian có cả hàng tỷ người được vua trời mời vào dự tiệc, nhưng được mấy người biết nghe theo lời mời gọi, sẵn sàng xếp đặt mọi công việc riêng, sẵn sàng từ bỏ mọi danh lợi, mọi vinh hoa trần thế, mọi quyến luyến vật chất, sẵn sàng hy sinh tiền tài, danh vọng, chức quyền, công việc của đời để đến theo Chúa vui hưởng hạnh phúc bất diệt.

Chúa đã phán: Kẻ gọi thì nhiều mà kẻ chọn thì ít. Hỡi những ai đã được Chúa kêu gọi, những ai đã được Chúa tuyển chọn, bạn là kẻ có phúc hơn mọi người vì phần thưởng của bạn được gấp trăm ngay ở đời này. Hãy cố mà nắm giữ lấy.

 

79.Gọi nhiều, chọn ít

(Suy niệm của Lm. Minh Vận)

Chúng ta còn nhớ trước đây không lâu, một đám cưới thật vĩ đại, linh đình và sang trọng vào bậc nhất trong lịch sử của kỷ nguyên hiện đại. Đó là đám cưới của hoàng tử Charles và cô giáo vườn trẻ Diana tại Anh Quốc. Khắp thế giới cả mấy trăm triệu người chăm chú theo dõi những ngày dài nô nức chuẩn bị, với những lễ nghi cổ truyền, y phục hoàng triều lộng lẫy và sang trọng, những buổi yến tiệc tiếp tân triền miên; những cuộc hòa tấu ca hát nhảy múa, những lời trầm trồ ca ngợi mối tình đằm thắm của đôi bạn trẻ Hoàng Tử Charles và Công Chúa Diana... Báo chương và các đài truyền hình, truyền thanh, các phóng viên thi đua nhau loan tin; Chính Phủ các quốc gia gởi điện văn chúc mừng, các quà tặng đắt giá xứng bậc vua chúa tới tấp bay đến. Tưởng như niềm vui hạnh phúc đó không bao giờ tàn. Nhưng rồi ai nấy cũng học được một bài học khôn ngoan và đắt giá về hạnh phúc mau qua chóng tàn nơi trần gian này!

I. Những thực khách danh dự

Bài sách tiên tri Isaia và bài Tin Mừng theo Thánh Mátthêu chúng ta vừa nghe, đều cùng dùng một hình ảnh tiệc cưới, để mặc khải cho chúng ta hiểu một phần nào hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa sẽ ban cho những kẻ Người tuyển chọn. Khi đó không còn chết chóc, không còn tang chế, không còn than khóc, tủi hổ hoặc sầu đau nữa. Chỉ còn hân hoan, vui mừng, sướng vui, an bình và hạnh phúc, một hạnh phúc vĩnh cửu và trường tồn trong vinh quang bất diệt không hề tàn phai. Nhưng những ai được vinh dự thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đó?

Theo các nhà chú giải bài Tin Mừng hôm nay, thì những thực khách vinh dự được Nhà Vua mời dự tiệc cưới của Hoàng Tử, tức là những người được thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đó chính là những người Do Thái, Dân Riêng của Chúa nói chung và phái Pharisêu nói riêng. Nhưng vì họ quá tự mãn kiêu căng, ham hố trần tục và bất trung với Chúa, nên chính tự họ đã loại mình ra khỏi Vương Quốc Thiên Chúa là Giáo Hội Chúa Kitô trên trần gian và Hạnh Phúc vĩnh cửu trên Quê Trời.

II. Để được thừa hưởng phúc vĩnh cửu

Qua bài Tin Mừng, chúng ta thấy mình được diễm phúc Chúa yêu thương mời gọi chúng ta vào dự yến tiệc của Chúa, sau khi những thực khách danh dự được mời trước không xứng đáng được nếm hưởng. Chính Chúa đã phán qua dụ ngôn: "Tiệc cưới đã dọn sẵn, nhưng những kẻ được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".

Dân tộc được diễm phúc là Dân Riêng của Chúa đã từ chối Chúa, không tiếp nhận Chúa Cứu Thế và giáo lý của Người, nên đã bị loại ra ngoài không được gia nhập Giáo Hội Chúa và thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời, nên Chúa đã kêu gọi dân ngoại, thuộc bất cứ cấp bậc nào trong xã hội và qua mọi thời đại vào dự yến tiệc của Chúa, làm thành phần của Giáo Hội và thừa hưởng hạnh phúc Chúa đã sắm sẵn cho những kẻ Chúa yêu thương tuyển chọn.

III. Để sống xứng đáng ơn tuyển chọn

Là Kitô Hữu, những người được Chúa yêu thương tuyển chọn gia nhập Giáo Hội Chúa, với quyền thừa hưởng gia nghiệp hạnh phúc vĩnh cửu của con cái Chúa, chúng ta phải sống thế nào cho cân xứng với ơn cao cả đã lãnh nhận?

Hơn nữa, là những linh hồn sống Đời Thánh Hiến, đã được Chúa tuyển chọn giữa muôn người, tách biệt ra khỏi trần gian để sống một cuộc sống cao cả hơn, siêu thoát hơn, đảm trách một sứ mạng trọng đại hơn, với những phương thế hữu hiệu và có bảo đảm hơn, để đạt tới Hạnh Phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban, chúng ta càng phải sống thế nào hầu xứng đáng với những ơn chúng ta đã lãnh nhận?

Chúng ta cần phải trung thành với ơn Chúa tuyển chọn theo địa vị chức bậc của mỗi người, bằng cách tuân theo những giáo huấn của Chúa đã truyền dạy, theo gương Thánh Phaolô Tông Đồ dân ngoại: "Trong mọi trường hợp và hết mọi cách" ngài chỉ biết chu toàn thánh ý Thiên Chúa và do đó, ngài đã dám tin tưởng và quả quyết chắc chắn rằng: "Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi" (Phil 4:13).

Trái lại, nếu bất trung với ơn Chúa ban, chúng ta cũng sẽ bị loại ra ngoài đồng số phận với những thực khách danh dự được mời trước, nhưng lại kiêu căng tự phụ, không đáng nếm hưởng yến tiệc của Chúa, là chính Hạnh Phúc Chúa hứa ban cho các con cái Ngài đã yêu thương tuyển chọn, như lời Chúa đã quả quyết: "Những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít" (Mt 20:16).

Kết Luận

Mẹ Maria là Đấng hằng trung tín với ơn Chúa. Vậy là con Mẹ, xin Mẹ chia sẻ lòng trung tín của Mẹ cho chúng ta và tăng thêm sức mạnh, giúp chúng ta biết theo gương Mẹ, trung tín với ơn Chúa tuyển chọn tùy theo bậc sống và địa vị cuả mỗi người, để chúng ta đáng Chúa ban ơn trợ giúp sống xứng với ơn tuyển chọn làm con cái yêu dấu của Chúa và Giáo Hội, hầu đáng được hưởng Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban cho các con cái Chúa.

 

80.Tiệc cưới - Thiện Mỹ

Trong một họ đạo thuộc vùng "kinh tế mới" có một bổn đạo nghèo nàn bệnh tật, thiếu thốn cả về của ăn lẫn thuốc uống. Trong hoàn cảnh thương tâm như thế, cha sở cũng chẳng dư dật gì mấy vì còn phải lo nhiều thứ trong nguyện đường còn mới sơ khai đang trong thời gian lập xứ, cha tìm cách quyên góp tiền bạc nơi những người có phần nào dư giả... Nhưng người thứ nhất trình bày với cha: Con sắp sửa phải mua chiếc Honda, cũng còn thiếu một chút nữa. Người thứ hai cũng thưa: Con đang chuẩn bị xây nhà, không biết thừa thiếu ra sao, con lo lắng quá. Và người thứ ba thứ tư cũng có lý do tương tự như trên. Đang lúc thất vọng có một bà góa ăn mặc đơn sơ bình dị từ tốn bước vào nhà xứ đưa cho cha một phong bì để biếu người bệnh tật kia. Cha sở thật cảm động nói: "Số tiền này giúp cho người nghèo đó bớt được nhiều phần lo lắng. Nhưng con làm gì mà dành dụm được số tiền đó. Hơn nữa con còn phải đề phòng lo cho gia đình con trong lúc hiểm nghèo chứ?".

- "con còn một con bò, hai con heo, và mấy chục con gà, nếu cần con bán để chi phí...". Bà ấy đáp.

- Cha sở tiếp: "Nhưng bà có người con yêu duy nhất, cũng phải lo cho nó ăn học, để rồi phụng dưỡng bà trong lúc tuổi già?".

- Bà đáp lời: Thưa cha, nếu Chúa thương cho học hành khá, làm ăn ra tiền để có điều kiện đỗ đạt cao hơn thì quả là điều đáng quí. Còn không nó học được tới đó cũng là cám ơn Chúa lắm rồi...".

Câu chuyện ở trên là hình ảnh và là một trong những món ăn của nước trời. Bà góa đã biết dự tiệc cưới còn nhiều người khá giả hơn thì không ngồi vào bàn tiệc cưới nước trời.

Tiệc cưới Thiên Đàng chính là biết đáp lại lời mời của Thiên Chúa, thực thi điều Ngài dạy, trong mối tương quan sống đời đức ái trọn hảo. Cuộc sống đời này sẽ là bản sao chép cho cuộc mai hậu. Chúa sẽ photocopy, đóng một tròn để lưu trữ những việc thiện ta làm trên nước trời.

Thật là may mắn cho những ai đã đáp lại tiếng Chúa mời đi dự tiệc cưới nhờ bí tích rửa tội. Qua "vé vào cửa ấy" chúng ta sẽ được hưởng muôn vàn ân sủng nhờ các bí tích tiếp theo. Ở trần thế có biết bao tâm hồn khao khát chân lý, khao khát Chúa như Thánh vương Đavít đã cầu nguyện:

"Lạy Chúa, hồn con khao khát Chúa, thân xác con mòn mỏi đợi trông Chúa, như mảnh đất khô không có nước" (Tv 63).

Để đáp lại những tấm lòng thiện chí, Thiên Chúa đã kêu mời mọi người mọi giai cấp đến dự tiệc cưới nước trời như trong trình thuật Phúc Âm Thánh Matthêu diễn tả trong đoạn 22 từ câu 1-14 gồm tóm vào hai sự việc:

- Dự tiệc cưới.

- Mặc áo cưới.

Đọc đoạn Phúc Âm trên chắc ta thấy hơi ngỡ ngàng khi thấy có những kẻ dại dột chối từ lời mời của hoàng gia. Thực tế trong đời sống thiêng liêng lại đã xảy ra như thế: Thiên Chúa sai các tiên tri trong cựu ước, các tông đồ trong tân ước để đến với các dân của Ngài. Thế mà các Đấng ấy đã bị giết, thậm chí họ giết cả Chúa Giêsu con yêu dấu của Ngài nữa.

Nhưng Thiên Chúa vẫn không bỏ con người, luôn kêu gọi mọi người gia nhập giáo hội, vào hàng ngũ tu sĩ, giáo sĩ. Nhất là Ngài kêu gọi ta đi vào chính sự thánh thiện của Ngài, đi vào đời sống tiềm mật của Ngài. Nhưng ích lợi ở điểm là ta phải biết nhận ra được tiếng Chúa, không để tiếng Ngài xào xạc như tiếng lá rừng. Nhiều khi chúng ta nại vào lý do bận bịu công việc trần thế để từ chối lời Ngài mời gọi như câu chuyện dụ ngôn trong phúc âm hôm nay: Người bận chuyện này kẻ bận chuyện khác để rồi không cùng dự bữa tiệc hoan lạc thân tình với Chúa.

Còn vấn đề thứ hai mà Thánh Matthêu mô tả việc Chúa đòi hỏi khi đi dự tiệc cưới là phải mang áo cưới. Đó là trang phục của linh hồn; Lòng trí phải khiêm tốn khao khát trông đợi yêu mến Chúa và tha nhân. Chiếc áo cưới ta sắm ở đời này là để đời sau chúng ta mặc trên nước trời. Nó có sang trọng lộng lẫy vinh quang phú quí hay tầm thường là tùy ở công lao thêu dệt mỗi ngày từng giây từng phút, trong việc thực thi các nhân đức, với con tim luôn tìm cách yêu mến Thiên Chúa.

Để đạt kết qủa phong phú và khỏi cố công vô ích, chúng ta hãy cậy nhờ Đức Mẹ Maria đầy tình thương nhân ái, luôn giúp đỡ người yếu đuối còn đang nơi thế trần. Hơn nữa Mẹ là mẹ Đấng Cứu Thế, Mẹ sẽ hiểu con Mẹ hơn ai hết, Mẹ sẽ chỉ đường dẫn lối cho ta sắm chiếc áo cưới thật vừa ý thích của Chúa Giêsu con Mẹ.

 

81.Dụ ngôn tiệc cưới và áo cưới

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

1. Từ những khách mời “không xứng đáng… đến gặp ai cũng mời”:

Trước sự phẫn nộ của đối phương, còn dân chúng lại hồ hở chào mừng Người bằng những lời tung hô "vạn tuế, Đức Giêsu đã tiến vào thành Giêrusalem trong tư cách Messia. Khi giảng dạy ở trong Đền Thờ, Người thường bị các thượng tế và kỳ mục trong dân hạch sách. Rõ ràng là họ tới có ý chất vấn Người đã lấy quyền nào mà nói và hành động như vậy: "ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy. Ai đã cho ông quyền ấy” (21,23). Nhưng Đức Giêsu đã từ chối trả lời họ, bao lâu mà chính họ vẫn lẩn tránh câu Người hỏi họ: "Phép Rửa của Gioan do đâu mà có. Do Trời hay do người ta (21,24). Trong bối cảnh gay cấn như vậy, mà ba dụ ngôn về xét xử Chúa dùng để nói với họ như một lời cảnh giác mạnh mẽ và cuối cùng, được đặt vào:

Dụ ngôn hai người con đực sai đi làm vườn nho (Phúc âm Chúa nhật 26).

Dụ ngôn những ta điền sát nhân (Phúc Am Chúa nhật tuần rồi).

Dụ ngôn tiệc cưới (Phúc âm Chúa nhât 28 này).

Đọc bản văn dụ ngôn những khách mời dự tiệc như được viết trong Phúc âm Matthêu, chúng ta có thể nhận thấy ngay những lời giáo huấn của Chúa được các cộng đồng tín hữu gìn giừ và nghiền gẫm, đã phải trải qua quá trình truyền đạt và thích nghi cho tới khi được các thánh sử soạn thảo thành văn nhất định. Chắc hẳn trong nội dung lời giáo huấn của Chúa, thì dụ ngôn này, theo như diễn ý của J.Jérémias, có nghĩa như "một sự bênh vực và biện minh" cho Phúc âm.

Th. Matura giải thích: "Những người đạo đức (các Pharisiêu), những nhà "thần học (các kinh sư), những người lãnh đạo tôn giáo của dân (các tư tế) dù không đón nhận Tin Mừng Nước Trời Chúa Giêsu loan báo, mà theo nguyên tắc là có ý dành cho họ trước tiên. Trái lời dân chúng và nhiều người sống bên lề (các người thu thuế, "tội lỗi), những người bị những kẻ thông trị loại bỏ thì lại tỏ ra sốt sắng lắng nghe lời Chúa kêu gọi và vui lòng đi theo Người (Lc 15,1-2), khiến cho giới có đầu óc khó chịu và buông lời chỉ trích. Dụ ngôn những khách mời dự tiệc cưới là câu trả lời cho thái độ giả hình này. "Chính các ông cũng giống như những người khách được mời này mà lại chối từ. Các ông cho đó chướng mắt, vì tôi được các người vốn bị cáo ông khinh bỉ, quây quần bên tôi: chính các ông mới là những người đã không thèn đếm xỉa tới, đã từ chối và các ông còn điểu này: không phải những người công chính mà là những người tội lỗi mới cần cứu độ!”

Điểm hóc búa của dụ ngôn Chúa kể, quả là gay cấn phải chứng tỏ và đúng, cách người cư xử với những người tội lỗi và lên án thói giả hình của giới lãnh đạo. Đức Giêsu đã biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa đối với những người bé nhỏ, đồng thời người cũng tố cáo những kẻ từ chối lời mời gọi của Phúc Âm, và như thế bị loại khỏi bàn tiệc Nước Trời mà Người đến khai trương" (Assemblées du Seigneur" số 59, trang 18-19).

Khi đem nội dung trên vào Phúc âm của mình để trình bày cho cộng đồng tín hữu của ngài là những người gốc Do Thái giáo, thánh sử Matthêu khác với tác giả Luca, có sửa đổi nhiều chi tiết làm thay đổi ý nghĩa ban đầu của dụ ngôn này để hướng tới một ý nghĩa ẩn dụ (mỗi chi tiết đều mang một ý nghĩa).

2. “Người kia” trong dụ ngôn ban đầu, trở thành “một ông vua kia mở tiệc cưới cho con mình”.

Cl. Tassin gợi nhớ lại: Cựu ước đã hứa hẹn sự hiệp nhất phu thê giữa Thiên Chúa và dân Người và Phúc âm đã trình bày Chúa Giêsu như vị Tân lang của những đám cưới được trông đợi này (x. Mt 9,15). Thế nên thánh Matthêu cung cấp ngay cho ta những chìa khoá cần thiết giúp cho việc đọc "("Phúc âm thánh Matthêu ”, NXB Centurion, trang 230).

+ Cũng vậy, người đầy tớ duy nhất trong Phúc âm Luca được tăng lên thành nhiều loại: các câu 3.4.8.13.

+ Và không những, các người đầy tớ này bị người ta hắt hủi, mà còn bị xỉ nhục và giết chết các (câu 6 và 7) như trong dụ ngôn những tá điền sát nhân. Và cũng như trong dụ ngôn này, sự trừng hạt không muộn màng. Th. Matutura chú giải: Đức Giêsu khiển trách những người lãnh đạo tôn giáo, thì họ hăng hăng chối từ sứ mệnh của người... Việc đưa xen vào dụ ngôn, hai câu 6 và 7 càng làm rõ nét phương diện này, bởi thì rõ ràng là đối với thánh Matthêu, những khách mời thoái thác kia, chính là những người Do thái không tin. Cách họ đối xử với các người được sai đến (các ngôn sứ bị chúng giết 3,32-36) lôi kéo sự trừng phạt đến cho họ: ám chỉ qúa rõ ràng việc thành Giêrusalem bị tàn phá" (O.C. trang 20-21).

+ Không trì hoãn, vua liền sai những sứ giả khác "đi ra các ngã đường", gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.

+ Các đầy tớ thi hành lệnh ngay, gặp ai"bất luận tốt xấu cũng tập hợp lại. Th. Matura nhận định: "Cách diễn tả này chứng tỏ rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, Người lựa chọn mà không đòi hỏi, nhưng chỉ vì lòng thương xót (Mt 6, 45). Giống như những dụ ngôn cỏ lùng và chiếc lưới, nó cũng mô tả tình trạng của cộng đồng tín hữu thời thánh Matthêu, lúc đó không phải mọi người đều thánh thiện cả. Sau cùng lời diễn tả ấy chuẩn bị cho câu chuyện về người xâm nhập phòng tiệc bị loại ra" (O.C. trang 23).

3. Từ việc được mời… đến việc tham dự tiệc cưới:

“Phòng tiệc cưới lúc này đã đầy thực khách". Theo tập tục Đông phương cổ, người chủ tiệc không ngồi bàn ăn với các thực khách, nhưng ông đi lại chuyện trò, thăm hỏi họ. Chi tiết hơi lạ là gia nhân ra các nẻo đường, gặp ai bất luận tốt xâu, cũng tập hợp cả lại vào phòng tiệc, thì những người ấy đâu có thời giờ mà thay đồ. Thế nên mới có câu chuyện về áo cưới. Đang khi tất cả phần thứ nhất của dụ ngôn này nói cho những người chống đối Phúc âm, thì phần kết của dụ ngôn lại nhắm nhóm người vốn cho mình vẫn sống theo Phúc âm đó là cộng đồng các môn đệ Đức Giêsu. Th. Matura giải thích: "Họ phải cảnh giác đối với ý nghĩ cho rằng chỉ cần được gọi và đáp lại Tin Mừng là bảo đảm được rỗi linh hồn. Không cần phải tuyên xưng danh Đức Kitô, tham gia vào cộng đồng của người (tức là chịu phép Rửa dể được vào phòng tiệc), còn phải chu toàn các công việc mà đức công chính mới đòi hỏi (Mt 7,21). Nếu không dù là đã được nhận vào phòng tiệc rồi, người ta vẫn có nguy cơ bị nén ra ngoài bị loại trừ vĩnh viễn khỏi Nước Trời" (O.C. trang 25).

Bởi vậy Giáo Hội không thay thế Israel, vì lịch sử dân tộc này vẫn trước sau như một. Phần các tín hữu, nên biết lượng sức mình yếu đuối giòn mỏng và vẫn chưa đáp trả đủ tình yêu Thiên Chúa của Đức G'iêsu Kitô dành cho mình, chứ đừng vội thấy người khác bị Chúa trừng phạt mà vui mừng.

BÀI ĐỌC THÊM:

“Một Giáo Hội mời gọi hết mọi người” (Giám mục L. Daloz trong "Le Règne des cieux s'est approché", Desclée de Brouwer, trang 301-302).

"Thế chỗ cho dân tộc được kêu gọi trước nhất, những kẻ được mời gọi ở đây, chính là những lớp người của mọi dân tộc, họ ở trên các công trường, tại những ngã ba, ngã tư đường. Không còn nữa những chiếc ghế được dành riêng cho ai: "Gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới!". Vấn đề được xét đến không phải là dân Do thái là một dân như thế, mà là thái độ tự mãn, và chối từ, sự không chú ý lắng nghe lời mời gọi của Chúa: "Họ không thèm đếm xỉa tới lại bỏ đi: Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn". Thái độ đó vẫn xảy ra hôm nay, bất cứ lúc nào. Người ta cố gắng và cho là điều quá tự nhiên khi xếp đặt các giờ phút gặp gỡ với Chúa, các việc đạo đức của đời sống Kitô hữu, việc cầu nguyện... vào những giờ phút thừa thải, những ngày giờ chẳng còn công chuyện gì để làm, sau giờ lao động, sau những công việc thường ngày, cả sau khi đã vui chơi nữa, sớm muộn, còn đâu thì giờ rảnh rỗi nữa. Người ta bắt đầu trở nên bê bối, rồi tìm cớ chữa lỗi cho mình rằng: "Làm việc cũng là cầu nguyện rồi...". Dần dần mỗi ngày một chút, người ta không còn cầu nguyện, tham dự các bí tích, các buổi hội họp và việc huấn luyện nữa, viện cớ rằng: "Tôi không còn thì giờ để cầu nguyện nữa...". Đôi khi thái độ từ chối tiếp nhận Đức Giêsu, từ chối đáp lại tiếng gọi của Chúa là do không biết hoặc thù địch với Người. Đức Giêsu gây phiền hà, là chướng ngại. Thế là chống đối, là bách hại. Không cứ gì một dân tộc mới làm thế, mà mọi người đều có khả năng làm như vậy, và chúng ta đều là thành phần của nhân loại này! Nhưng tiệc cưới không thể bị ế. Thiên Chua vẫn mời gọi không ngừng: "Các đầy tớ ấy liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận tốt xấu, cũng tập hợp cả lại". Tiếng Chúa kêu gọi dành cho hết mọi người; Người ngỏ lời với những người lương thiện cũng như kẻ bất lương, với người công chính cũng như kẻ tội lỗi đặc biệt là những người tội lỗi? Điều đó giúp ta nhìn rõ Giáo Hội vốn quy tụ mọi người.

Giáo Hội nhất định không phải là nơi tập hợp những "người thập toàn", là tổ chức gồm những người không có gì đáng chê trách cả. đôi khi chúng ta quan niệm Giáo Hội là thành phần ưu tuyển, có cảm giác rằng Giáo Hội phải loại trừ ra khỏi lòng mình tất cả nhưng ai không sống theo Phúc âm. Phải chăng đã đến lúc tôi sẽ là người đầu tiên phải bỏ đi ý nghĩ lầm lạc ấy?... Đúng là Giáo Hội đón nhận khá rộng rãi và điều đó không làm thoả mãn những ai muốn Giáo hội tạo cho mình một hình ảnh không tì vết! Liệu Giáo giội đưa ra một hình ảnh như thế có tốt không? Đó chẳng phải là con đường mở ra cho lối sống giả hình như đối với những người Pharisiêu sao? Phần cuối dụ ngôn nói đến một sự lựa lọc phải diễn ra, nhưng là vào giờ phút chót khi "vua tiến vào quan sát khách dự tiệc". Đấy cũng là điều mà hai dụ ngôn cỏ lùng và chiếc lưới đều nói lên: "Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính... " (13,49). Ai muốn vào dự tiệc Nước Trời, phải mặc y phục lễ cưới: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới”. Rồi vua truyền quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng". Vào dự tiệc Nước Trời không tuỳ thuộc nòi giống, hay là người của một dân tộc, nhưng căn cứ vào sự trở lại, thay đổi đời sống, những việc lành phúc đức... Khi nhận chiếc áo trắng trong lễ nghi Rửa tội, chúng ta đã được mời gọi "giữ cho tinh tuyền phẩm giá người con Chúa". Y phục của dân mới, y phục lễ cưới, chính là Đức Kitô mà chúng ta đã "mặc lấy", là phẩm cách người Kitô hữu, là ân sủng Chúa trao ban. Sống sao cho xứng đáng với những gì ta đã lãnh nhận, đó chính là một lời mời gọi.

 

82.Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia

(Chú giải của Lm Phanxicô X. Vũ Phan Long)

1.- Ngữ cảnh

Cả ba dụ ngôn nối tiếp nhau – Hai người con (21,28-32), Những người thợ vườn nho (21,33-46) và Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) – đều được gửi đến cho các thượng tế và các kỳ mục của Dân (x. 21,23) và đều mang một sứ điệp rất giống nhau. Bằng các dụ ngôn này, với một lời khuyến cáo lặp đi lặp lại, nghiêm túc, mạnh mẽ, Đức Giêsu muốn làm cho họ mở mắt ra để hiểu tương quan của họ với Thiên Chúa. Các thượng tế và các kỳ mục không được chạy theo ảo tưởng nào, nhưng phải thấy rõ tương quan đó trước khi quá muộn và phải điều chỉnh bản thân cho kịp thời.

Thật ra các dụ ngôn và các lời khuyến cáo không phải chỉ được dành cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, nhưng cũng được gửi đến cho thính giả mọi thời. Thiên Chúa không ép buộc; Người ngỏ với chúng ta và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Các người con được mời đi làm việc trong vườn nho của cha; những người thợ vườn nho được nhắc nhở giao nộp hoa lợi thuộc về ông chủ; những khách được mời được kêu gọi đến dự tiệc cưới. Không một ai bị bó buộc phải xử sự theo cách nào cả. Thiên Chúa kiên nhẫn và đại lượng ước muốn rằng lời mời của Người được đón nhận.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành bốn phần:

1) Mở (22,1);

2) Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại (22,2-7);

3) Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (22,8-13):

a) Mời mọi người (cc. 8-10),

b) Vấn đề áo cưới (cc. 11-13);

4) Kết luận: Lời bình của Đức Giêsu (22,14).

3.- Vài điểm chú giải

- mở tiệc cưới cho con mình (1): Hình ảnh bữa tiệc thiên sai có lẽ được mượn từ Cựu Ước (Is 25,6; 55,1-3). Nó diễn tả tính nhưng-không của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho Dân Người.

- nhưng họ không chịu đến (3): Dịch sát là “không muốn đến”. Mt dùng động từ “muốn” (thelô), là một động từ ngài ưa chuộng (x. 11,14; 16,24; 18,30; 19,17; 23,27b) để diễn tả một quyết định rõ ràng.

- Vậy các ngươi đi ra (9): Công thức mệnh lệnh poreuesthe (các ngươi hãy đi) oun (vậy) khiến chúng ta hướng tới công thức phân từ poreuthentes oun có giá trị như một mệnh lệnh ở Mt 28,19, khi Đức Giêsu sai phái các môn đệ đi đến với Dân ngoại (“muôn dân”).

- các ngả đường (9): Từ diexodos thuộc Bản LXX có nghĩa là điểm bắt đầu hay là điểm đến, phần xa nhất của một miền đất. Vậy dịch diexodoi tôn [h]odôn là “các ngả đường” dường như không chính xác. Đây là điểm mà từ đó con đường ([h]odos) bắt đầu hay kết thúc. Như thế các đầy tớ đi ra khỏi thành và tỏa ra khắp nơi cho đến tận biên cương của vương quốc.

- bất luận xấu tốt (10): Những người “xấu” này có thể là những người tội lỗi, một khi đã được kêu gọi nhưng-không, sẽ sửa mình khi đã vào trong Vương Quốc hoặc trong Hội Thánh; mà cũng có thể là những người xấu theo nghĩa tuyệt đối, sẽ bị loại trừ ngày nào đó khỏi Vương Quốc (hoặc khỏi Hội Thánh). Các câu 11-14 hiểu theo nghĩa thứ hai này.

- quan sát (11): Động từ theaomai có nghĩa là “nhìn xem; chiêm ngưỡng; quan sát”. Bên Đông phương, các nhân vật quan trọng không ngồi ăn chung với các khách mời, nhưng chỉ xuất hiện vào một lúc nào đó để chào cách quan khách. Phân đoạn gồm cc. 11-13 hẳn là một bản văn áp dụng cho đời sống Hội Thánh (trong khi cc. 1-10 áp dụng cho lịch sử dân Do Thái), nay được đưa vào đây để sửa chữa một lối giải thích quá tự do cc. 1-10. Quả thật, việc đi vào Hội Thánh là chuyện nhưng-không, nhưng cũng không được quên rằng đấy là Hội Thánh của Đức Vua! Đã nhận ơn, thì phải sống theo chiều hướng của ơn đã nhận.

- không có y phục lễ cưới (12): Vào thời Thượng Cổ, không có tập tục các khách mời phải mặc một bộ y phục riêng cho tiệc cưới; chỉ cần một bộ y phục sạch sẽ, trang trọng, là được. Do đó, công thức “y phục lễ cưới” khiến độc giả phải nghĩ đến nghĩa ẩn dụ. Cụm từ “y phục lễ cưới” (endyma gamou) này hẳn cũng là thực tại được dụ ngôn Những người thợ vườn nho nói đến, đó là các hoa trái của Vương Quốc, phải có trước khi ra trước tòa phán xét. Đây là “sự công chính” thường được TM Mt nói đến (ch. 5–7: 5,20; 6,33…). Xem thêm: Is 61,10; Ep 4,24; Gl 3,27; Kh 19,6-8; 7,9-17.

- kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít (14): Ngôn ngữ Híp-ri không có những hình thái đặc biệt cho các tính từ ở dạng so sánh (comparative: better; more) hay tối thượng cấp (superlative: best; most); do đó, người ta dùng cách kiểu nói quanh (paraphrases). Phải dựa vào ngữ cảnh thì mới xác định được nghĩa so sánh nằm ở dưới. Xem Mc 9,42; Mt 22,36; 26,24; Lc 10,42; 18,14…

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Mở (1)

Dụ ngôn này được ngỏ với những thính giả đã được nói đến (“họ” = “các thượng tế và người Pharisêu”, x. 21,45), những người phải gánh lấy tất cả trách nhiệm và tội lỗi, khi từ khước Đức Kitô.

Chính dụ ngôn gồm các câu 2-13. Câu 14 là một lời bình của người kể, tức Đức Giêsu. Sau lời giới thiệu ở c. 2, dụ ngôn được triển khai thành hai phân đoạn, cc. 3-7 và cc. 8-13. Mỗi phân đoạn bắt đầu bằng việc nhà vua sai các đầy tớ đi mời khách đến dự tiệc cưới. Lần mời thứ nhất thất bại; lần mời thứ hai thành công. Tuy nhiên, mỗi lần đều kết thúc bằng một tai họa. Trong trường hợp thứ nhất, tai họa đổ xuống trên những người được mời; trong trường hợp thứ hai, tai hoạ chỉ đổ xuống trên một người khách.

Ta thấy dụ ngôn này và dụ ngôn trước có những điểm giống nhau. Một bên, đó là ông chủ nhà có một vườn nho, ở đây là một vị vua. Ông chủ nhà sai đầy tớ hai lần đến vườn nho để nhận hoa lợi; đức vua sai các đầy tớ hai lần đi mời khách tới dự tiệc. Trong cả hai trường hợp, các tôi tớ đều thất bại vì những người họ đến gặp tỏ ra xấu xa. Trong cả hai trường hợp, có liên quan đến một “người con [trai]”. Những điểm song song đó cho hiểu rằng hai câu chuyện nhắm đến một số nhân vật như nhau. Ông chủ vườn nho và đức vua chỉ là một, đó là Cha trên trời; người con trai chắc chắn là Đấng đã tự gọi mình là “Người Con” (11,27). Các tôi tớ chính là các ngôn sứ. Còn những người được mời chính là Dân bất trung của Thiên Chúa.

Trong dụ ngôn Tiệc cưới, nhân vật duy nhất hành động tích cực là nhà vua. Chỉ một minh ông nói, chứ không có đối thoại. Ngoại trừ cc. 5-6 và c. 10, truyện hệ tại các hành vi hoặc các lệnh truyền của nhà vua.

* Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại (2-7)

Tuy nhiên, hai dụ ngôn cũng có những điểm khác nhau. Trong dụ ngôn Những người thợ vườn nho, vấn đề là một đòi hỏi về công bình; ở đây là một lời mời, một vinh dự diễn tả cho một ai đó. Một bên là ông chủ đòi hỏi điều thuộc về ông, bên kia là vị vua quảng đại, muốn mời tối đa người ta đến thông phần vào niềm vui của ngày cưới hoàng tử. Trong trường hợp sau này, thái độ thiếu quan tâm càng đáng trách hơn, vì ở đây không còn chuyện vi phạm một quyền, nhưng là một xúc phạm nặng nề đến danh dự. Đã thế, thái độ thiếu quan tâm còn trầm trọng đến mức trở thành sự căm thù chẳng hiểu vì sao. Ngay ở đây cũng có thể đặt lại câu hỏi của dụ ngôn trước: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” (21,40). Câu trả lời không còn phải là một đe dọa, nhưng là một hành động trừng phạt. Như thế, từ dụ ngôn kia sang dụ ngôn này, có một sự tiệm tiến.

Những “người đã được mời” (keklêmenous) là những người được báo tin về tiệc cưới đúng thời điểm. Đây là các bạn hữu, những người đang sống trong những tương quan thân tình với nhà vua. Việc nhà vua sai đầy tớ đến và mời thúc bách (c. 4) cho thấy cử chỉ tối hậu của lòng tốt của nhà vua, nhưng đã không được đáp lại. Thế mà nhà vua chỉ nhận được một sự từ khước dứt khoát (“không muốn đến”, c. 3). Các động lực thâm sâu là họ có những mối quan tâm thực tiễn, những của cải vật chất (chủ đề của Mt: x. 8,18-22; 19,21). Dưới ánh sáng của dụ ngôn trước, qua việc nhà vua sai các đầy tớ lần đầu (c. 3), độc giả có thể nghĩ đến các ngôn sứ trong Cựu Ước; qua lần sai phái thứ hai (cc. 4-6), họ có thể nghĩ đến các tông đồ và các nhà thừa sai (x. 21,34.36). Các độc giả cũng đã biết Israel thường xử tệ và giết các ngôn sứ (x. 23,34-35). Còn những khách được mời, thoạt tiên độc giả sẽ nghĩ đến các thượng tế và người Pharisêu, vì các dụ ngôn được nói cho họ. Tuy nhiên, không nhất thiết chỉ nghĩ tới giới lạnh đạo Do Thái, bởi vì các sứ giả của Đức Giêsu được cử đến với toàn thể Israel (x. 10,5-6.23).

Câu 6 có vẻ đột ngột: đi từ “kẻ thì …, người thì …” (hos men … hos de), ta không chờ đợi “còn những kẻ khác” (hoi de loipoi), nhất là một tội ác (giết các đầy tớ). Nhưng các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái, thì hiểu rằng du ngôn đang nói về các thừa sai của họ, các vị này đã bị bách hại tại Israel (10,16-23) cũng như nói về các ngôn sứ Cựu Ước cũng đã bị bắt bớ trước rồi (5,12; 21,35-36). Nhưng c. 7 thì thật lạ, kể cả với các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái. Không còn cỗ bàn, bò tơ, thú báo nữa. Nhà vua lên đường hành quân, chắc chắn đâu có thể làm một sớm một chiều. Dù sao, từ tư cách những người đầu tiên được ưu đãi, người Do Thái trở thành những đối thủ đầu tiên chống lại ơn cứu độ, và mục tiêu đầu tiên cơn giận Thiên Chúa nhắm tới. Họ bị đánh giá là “không xứng đáng” (c. 8) không phải vì họ có những thiếu sót hay sự ngu dốt nào tự nhiên, nhưng do họ từ khước.

Đức vua đã huy động quân lính đi “tru diệt bọn sát nhân và thiêu hủy thành phố của chúng” (c. 7). Các khách được mời nay được gọi đơn giản là “bọn sát nhân”. Tại sao sự việc lại trở nên gia trọng đến mức ấy? Dường như các khách được mời sống ngay trong thành phố nơi tổ chức lễ cưới. Các kẻ sát nhân chỉ là một vài người trong số khách được mời thôi. Chẳng lẽ mọi người khách mời khác đều đáng xử như những kẻ sát nhân? Đàng này, cả thành bị thiêu hủy, hẳn là với tất cả những người vô tội. Nếu muốn tiếp nối câu chuyện cho hợp lý, thì phải nói đến việc mời những người khác. Tất cả các thắc mắc này khiến ta phải nhìn nhận rằng cc. 6-7 là một câu lạc lõng. Rất có thể tác giả đang nghĩ đến cuộc tàn phá Giêrusalem đã xảy ra vào năm 70. Chỉ điều này mới giải thích được vì sao tác giả gán một tầm quan trọng đặc biệt cho chuyến hành quân trừng phạt và cuộc thiêu hủy thành phố. Và những kẻ sát nhân không phải chỉ là một vài người tạo cớ cho tác giả viết dụ ngôn, nhưng là tất cả các thợ làm vườn nho đã giết người con sau khi bàn bạc với nhau (21,38-39). Như thế ở đây tác giả Mt không chỉ làm chứng trung thành về các lời của Đức Giêsu đã được truyền đạt cho ngài, nhưng còn cung cấp cho chúng ta cách thức giải thích các lời này cho các thành viên của các cộng đoàn tiên khởi của Hội Thánh. Hai phương diện này được kết nối chặt chẽ với nhau. Chỉ lời được Hội Thánh phát xuất từ các tông đồ hiểu và giải thích đúng đắn mói có thể được coi như là Lời Chúa, được Chúa Thánh Thần linh hứng và buộc chúng ta tin nhận.

* Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (8-13)

Phân đoạn này gồm hai truyện khác nhau được kết nối lỏng lẻo (cc. 8-10 và 11-13). Câu truyện có thể kết thúc ở c. 10. Chính cụm từ “xấu và tốt” ở c. 10 khiến độc giả nghĩ rằng câu truyện có thể còn tiếp.

Bây giờ các đầy tớ có nhiệm vụ ngỏ lời mời với những người khác, mà không chọn lựa. Họ có nhiệm vụ đưa tất cả những ai họ gặp trên đường khắp cùng bờ cõi vương quốc (diexodoi tôn [h]odôn) vào phòng tiệc. Tác giả Mt không nói là “người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” như Lc 14,21, vì hiểu chữ “tất cả” (“mời hết vào”) theo nghĩa khác: kẻ xấu người tốt đều được mời. Lần mời này thành công. Chẳng mấy chốc phòng tiệc đã đầy một khối người đa tạp. Sự đa tạp này không do khác nhau về y phục, về địa vị xã hội hay về những yếu tố bên ngoài. Đây là một sự khác biệt bên trong, chủ yếu, giữa “người xấu và người tốt (c. 10). Chúng ta chỉ hiểu được tình trạng này nếu khởi đi từ thực tế tác giả đang nghĩ tới. Lời mời đã được ngỏ với dân Israel, nhưng họ đã không muốn đón nhận; thế là lời mời được gửi đến một dân mới, Dân ngoại. Đây không còn phải là một dân gồm những người trong sạch và các thánh, mà là một xã hội đa tạp gồm những người xấu và những người tốt. Ta gặp thấy có cả hai hạng người này trong Hội Thánh, như cỏ lùng giữa lúa tốt (13,28; x. dụ ngôn Chiếc lưới: 13,47-50). Dù sao, phòng tiệc cũng đã đầy vì mọi người được tự do đi vào. Thế nhưng đến đây, bài dụ ngôn vẫn chưa kết thúc “có hậu”. Bởi vì sẽ có một cuộc biện phân quyết định: lời mời không khẳng định là người ta sẽ thực sự được tham dự vào lễ cưới. Trước tiên phải có một cuộc phán xét: phải tách cỏ lùng khỏi lúa tốt. Đây chính là mục tiêu của phân đoạn thứ hai (cc. 11-13).

Đến đây khung cảnh vẫn là bữc tiệc, nhưng sự chú ý lại xoáy vào chiếc áo cưới. Ông chủ dường như không còn phải là vị vua trước đây nữa. Ông không đến để chiêu đãi một bữa tiệc linh đình nữa, mà đến để “quan sát” (theasasthai; x. 2 V 9,18) các khách dự tiệc. Ông đã thấy có một người không có “y phục lễ cưới” (endyma gamou). Nhà vua gọi anh ta là “này bạn” (hetairos), nhưng thái độ rất cứng rắn, không khoan nhượng. Dĩ nhiên người ta tự hỏi là làm thế nào người kia có thể có một cái áo cưới (và tất cả những người khác thì lại có sẵn áo cưới!) khi mà anh ta bị mời đột ngột giữa đường. Như thế là bất công trắng trợn! Chính điểm gây “sốc” này cho hiểu rằng đây không phải là vấn đề một cái áo theo nghĩa cụ thể. Chúng ta đã được chuẩn bị cho cách giải thích này bởi vì dụ ngôn đã ghi trước đó là trong phòng có kẻ xấu người tốt. Rõ ràng người không có áo cưới thuộc về hạng kẻ xấu. Cũng chính điểm này mới giúp hiểu cách đối xử người ấy sẽ phải chịu: không phải là đuổi ra ngoài, nhưng “quăng ra chỗ tối tăm” (x. 8,12; 25,30), nơi sẽ phải “khóc lóc nghiến răng” (x. 8,12; 13,42.50; 24,51; 25,30), tức là người ấy bị tiêu vong. Sự “câm miệng” của người khách này chứng tỏ lời trách của ông chủ là đúng. Người này, cũng như những người đầu tiên, đã không hề quan tâm đến vinh dự đã nhận; họ đã đến tiệc cưới với đầu óc tầm thường, thô thiển, không trân trọng, không biết ơn.

Bữa tiệc là hình ảnh Nước thiên sai; chiếc áo tượng trưng cho các tư thế căn bản để được vào và ở lại đó. Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ phải có một “sự công chính dồi dào hơn” (x. 5,20); đây chính là tinh thần mới người ta phải có để sống các tương quan với Thiên Chúa.

Nhận được lời mời không đương nhiên là được cứu độ vĩnh viễn. Con số những người được kêu gọi thì nhiều, điều này có nghĩa là nhiều người được để cho đi vào, không phân biệt, không điều kiện. Họ không cần phải giữ luật Môsê, họ không cần phải chịu cắt bì. Nhưng khả năng đi vào không có nghĩa là một bảo đảm; đi vào trong sự hiệp thông Hội Thánh không có nghĩa là được đi vào trong Nước Thiên Chúa và lúc tận thế. Phải phân biệt giữa niềm cậy trông đầy tín thác và phó thác với sự tự phụ, tự hào không cơ sở là mình có ơn cứu độ.

* Kết luận (14)

Câu kết luận này là một lời bình của Đức Giêsu. Câu này, “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”, thường được giải thích theo hai cách. Cách thứ nhất cho rằng “những người được chọn” đây là những người được nhận một ơn đặc biệt khiến họ có thể sống gần kề hơn với những sự thuộc về Thiên Chúa và có thể cậy dựa nhiều hơn vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa đối với họ. Dĩ nhiên con số này ít, còn đa số chỉ nhạn được một ơn thông thường. Cách thứ hai, phổ biến hơn, giới hạn khẳng định của Đức Giêsu vào trường hợp những người Do Thái thời Người mà thôi: tất cả đều được gọi vào Nước Trời theo nghĩa là tin vào Người, nhưng tuyệt đại đa số đã từ khước đi vào Nước ấy khi loại trừ Đấng Mêsia.

Cả hai cách giải thích này đều có phần giá trị, nhưng không khớp với dụ ngôn. Cách thứ nhất giả thiết rằng người khách bất xứng đã bị quăng ra ngoài bởi vì đã lén đi vào một nhóm nhỏ gồm những người được ưu tuyển; nhưng bản văn nói rõ là người ấy bị loại bởi vì thiếu điều tối thiểu cần thiết cho sự đoan trang của bữa tiệc. Cách thứ hai cũng không thỏa đáng. Bởi vì người khách bị loại đã đi vào với nhóm thứ hai, nên người này là một người ngoại chứ không phải là một người Do Thái; thế nhưng lại chính vào lúc loại trừ người ấy mà Đức Giêsu mới công bố lời nói về nhóm nhỏ những người được chọn. Đàng khác, hiểu sát bản văn, chúng ta thấy câu này không phù hợp với các sự hiện: trên con số lớn các khách dự tiệc, chỉ có người bất xứng này bị loại trừ; làm sao có thể nói đến một số “ít” (nhỏ) những người được chọn?

Do đó, giải pháp đơn giản nhất nằm ở bình diện ngữ học (philologie): đây là hai công thức so sánh theo ngôn ngữ Sê-mít ở thể ngầm, mà ta có thể dịch ra như sau: “Những kẻ được gọi thì nhiều [hơn], nhưng những người được chọn thì ít hơn”. Hiểu như thế, chúng ta thấy phù hợp với ngữ cảnh: con số người được gọi thì rất đông, nhưng rồi có những người từ khước và có người bị loại trừ. Quả thật, nhiều người được gọi, nhưng những người được chọn thì ít hơn. Do đó, điều hết sức quan trọng là để ý mà thực hiện những điều kiện cần thiết để cho việc chúng ta được kêu gọi đưa chúng ta đến chỗ được chọn vĩnh viễn (x. Lc 13.22-24 trong chiều hướng này).

+ Kết luận

Tầm nhìn của bản văn có thay đổi: Từ chỗ minh họa lời rao giảng của Đức Giêsu, dụ ngôn đã trở thành một minh họa đời sống của Hội Thánh. Đã là những người được thừa hưởng những lời hứa của Thiên Chúa, người Do Thái cũng là những người đầu tiên được đón nhận Tin Mừng, từ phía Đức Giêsu cũng như từ phía các tông đồ. Vậy mà họ vẫn không tin: thái độ cứng tin này quả là một mầu nhiệm, nhưng cũng không làm hỏng được các kế hoạch của Chúa quan phòng. Vào lúc tác giả Tin Mừng viết, thì Hội Thánh đã quy tụ lại nơi bàn tiệc thứ hai rồi. Các tín hữu thuộc về Hội Thánh cũng như các khách dự tiệc phải luôn luôn trong y phục chỉnh tề vì bất cứ khi nào vị thẩm phán cũng có thể xuất hiện và loại họ khỏi phòng tiệc vĩnh viễn. Cũng như dân Do Thái đã bị loại bởi vì họ đã tỏ ra bất xứng khi từ chối lời mời, người Kitô hữu cũng có thể bị loại trừ mặc dù đã đón nhận lời mời.

Tuy nhiên, chính chúng ta phải thấy mình được Thiên Chúa kêu gọi và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Thiên Chúa vẫn cứ nhắc lại các lời kêu gọi và tiếp tục gửi đến các sứ giả của Người.

5.- Gợi ý suy niệm

1. Hoàn cảnh hiện tại có đặc điểm là Thiên Chúa kêu gọi qua trung gian các tôi tớ, sự tự do của con người và sự đại lượng của Thiên Chúa. Từ hoàn cảnh này, ta không được rút ra những hậu quả sai lạc. Ta không được cho rằng tiếng gọi của Thiên Chúa là một đề nghị không quan trọng, rằng chúng ta có thể tùy nghi đón nhận hoặc từ khước, rằng chúng ta có một tự do không giới hạn có thể không những chọn lựa mà còn xác định được các hậu quả của sự chọn lựa, rằng sự tự do của Thiên Chúa là dấu cho thấy Ngài yếu đuối và dửng dưng. Bây giờ Thiên Chúa là Đấng kêu gọi và mời mọc; con người là những người hành động, đáp trả với khả năng quyết định tự do. Nhưng đến cuối, Thiên Chúa sẽ là Đấng hành động và xác định vĩnh viễn. Ai từ chối làm việc trong vườn nho sẽ bị loại khỏi Nước Trời (x. 21,31). Ai không giao nộp các hoa lợi của vườn nho và xử tệ với các tôi tớ của ông chủ sẽ bị mất vườn nho và phải chịu một kết thúc thảm thương (21,41). Ai không đón nhận lời mời đến dự tiệc, sẽ bị loại trừ (22,8).

2. Chúng ta có thể chọn lựa tự do, nhưng chúng ta không còn tự do nữa đối với các hậu quả của sự chọn lựa của chúng ta, bởi vì chúng ta không thể tự do xác định chúng, nhưng chúng thuộc về cách do Thiên Chúa xác định. Chúng ta có thể nói không với tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng chúng ta không thể đạt được sự thể hiện tốt đẹp cuộc sống chúng ta với tiếng không này. Cần phải ý thức như thế để không xử sự cách phi lý, khi không đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa.

3. Bữa tiệc không chứa những yếu tố khiến có thể nghĩ đến tiệc Thánh Thể, nhưng chính hình ảnh vẫn có thể gợi ra những bữa tiệc agapê và các cuộc cử hành phượng tự thường xuyên trong Hội Thánh. “Các đầy tớ” (douloi) của dụ ngôn thứ nhất ở đây được gọi là “những người phục dịch” (diakonoi); từ ngữ diakonoi khiến ta nghĩ đến các thừa tác viên trong các cử hành phụng vụ. Áo cưới nêu bật tình trạng thánh thiện và ân sủng mà người ta phải có để được đến gần bàn tiệc của Chúa.

4. Trong các dụ ngôn Cỏ lùng và Lưới cá (13,37-43.49-50), Đức Giêsu cũng đã nói rõ rằn Hội Thánh cũng là một phần của tập thể pha trộn là thế giới, “thửa ruộng” của Con Người. Như thế, các thành viên của Hội Thánh phải để ý đừng thuộc về “những kẻ xấu” đứng đó mà không có y phục lễ cưới. Chỉ có một người trong dụ ngôn bị cật vấn có nghĩa là từng người phải trả lẽ, chứ không thể cây dựa vào người khác.

5. Vào ngày chúng ta được rửa tội, chúng ta đã được mặc một áo trắng, và vị chủ lễ đã chúc chúng ta giữ cho nó được tinh tuyền cho đến ngày Phán xét. Nếu chúng ta đã làm hoen ố bộ áo rửa tội này, chúng ta vẫn có thể đến trình diện trước tòa của lòng từ bi thương xót, đo là bí tích hòa giải. Tại đây Đức Giêsu lại giặt sạch bộ áo cưới của chúng ta và lại mời chúng ta vào tham dự bữa tiệc vương giả của Người, trong niềm vui của tình thân mật đã tìm lại được. Như thế, cũng đừng bao giờ tự hào rằng mình đã “tới nơi”, cũng đừng phê phán ai. Không phải vì ta đang “ở trong” mà ta đã được bảo đảm, và có quyền xét đoán những người “ở ngoài”, những người chưa biết mà đi vào, hoặc thậm chí những người đã từ khước. Cho dù có ở trong Hội Thánh hay Nước Thiên Chúa, chúng ta vẫn chỉ là “khách được mời”, do ân huệ nhưng không.

 

83.Suy niệm của Noel Quession

Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình...

Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những định nghĩa to tát trừu tượng về Thiên Chúa, về thiên đàng, về Giáo hội. Không? Tin Mừng đúng ra là một là một cuốn sách cao cả bằng nhiều hình ảnh. Khi nhìn sự thành công về mặt truyền hình của các đám với hoàng gia thì hình ảnh mà Đức Giêsu sử dụng trong thời đại ấy xem ra còn mới... dù hình ảnh ấy có tính chất Phương Đông rõ nét.

Như thế, Đức Giêsu trình bày với chúng ta một Thiên Chúa làm đám cưới cho con trai mình: đây là câu chuyện đẹp nhất trần gian, câu chuyện tình yêu đẹp nhất! Rõ ràng là câu chuyện liên quan đến Người. Đức Giêsu là người yêu. Người đã cưới một hôn thê mà Người yêu say đắm: hôn thê đó là nhân loại. Hình ảnh hôn lễ này như “một sợi chỉ vàng" xuyến suốt toàn bộ Kinh Thánh: Hôsê 1 đến 3; I-sai-a 54,4-8 - 61,10 - 62,4-5; Giê-rê-mi-a 2,2 - 31,3; ê-đê-ki-en 16; Thánh vịnh 45,7-8,Diễm Ca, toàn bộ; Mác-cô 2, 19; Gioan 3;29; Mát-thêu 2 5, 1 -1 3 - 9, 1 5; Ê-phê-sô 5,25; 2 Cô-rin-tô 19,29 - 21,2-9' - 22,17; Khải Huyền 20,9 - 21,2-9 v.v...). Vâng, từ đầu này đến đầu kia của mạc khải, những quan hệ của Thiên Chúa với nhân loại là một "Giao ước" một "Lễ cưới". Điều đó sẽ thay đổi gì cho tôn giáo của tôi nếu như thay vì chỉ quan niệm tôn giáo ấy như những chân lý phải tin và những quy tắc về đạo đức phải tuân thủ, tôi đi đến chỗ quan niệm tôn giáo của tôi thật sự là "một câu chuyện tình yêu?

Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới...

Thiên Chúa mơ đến một bữa tiệc hoàn vũ cho nhân loại một bữa tiệc thật sự "vương giả"... một lễ hội! Bạn hãy thử hỏi bất cứ đứa trẻ nào để biết những trường hợp làm chúng rất sung sướng. "Đó là khi có nhiều khách mời đến nhà? ". Bữa ăn ngày lễ hội hoàn toàn là một biể u tượng của niềm vui được chia sẻ. Và ngày hôm nay vẫn thế, bữa tiệc cưới thường quy tụ nhiều khách khứa vui vẻ nhất: Món ăn chọn lọc, rượu ngon, tiếng nhạc lời ca, y phục lễ hội, khiêu vũ... Đến ngày lễ hội, bàn ăn đã sẵn sàng, Thiên Chúa cũng quy tụ các khách mời của Người. Nhưng khách được mời sắp làm gì?

Nhưng họ không chịu đến.

Ông vua tội nghiệp và thất vọng biết bao! Có gì mà chán nản.

Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi và dặn họ: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rãi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!".

Như trong dụ ngôn "những tá điền sát nhân", nhưng sự từ chối của nhân loại dường như không làm Thiên Chúa ngạc nhiên. Không chán nản, Người sai những đầy tớ khác đi để một lần nữa mời họ. Đây không phải là một câu chuyện cũ trong quá khứ. Hiện nay vẫn luôn luôn có những lời mời gọi. Trước tiên đây không phải là lời mời gọi của những người khác. Thiên Chúa đã gợi cho tôi một "thẻ" vào cửa. Tôi có nhận thức tôi đang được chờ đợi và có một chỗ đành cho tôi ở bàn ăn không? Thật vậy, tôi phải dùng thời gian để mỗi buổi tối tự hỏi về những lời mời gọi mà Thiên Chúa đã không ngừng gọi đến tôi suốt một ngày. Và mỗi Chúa nhật, hãy dùng thời gian để tự hỏi tôi đã bỏ lỡ những lời mời gọi nào của Thiên Chúa trong tuần.

Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.

Nhu trong "mùa hái nho đẫm máu” của Chúa nhật vừa qua chúng ta như chìm ngập vào bi kịch. Tiệc cưới đẫm máu cũng là biểu tượng cho sự khước từ Thiên Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu kể lại câu chuyện này, có lẽ một ít ngày trước cuộc khổ nạn của Người... trong tuần lễ cuối cùng của Người. Cái chết của Người đã được các thủ lãnh ở Giêrusalem quyết định trong bóng tối. Nhưng, chúng ta biết rõ không chỉ liên quan đến những người đồng thời của Đức Giêsu. Chính tôi... chính thế giới hiện nay...đang từ chối lời mời của Thiên Chúa. Sự mô tả tâm trạng sâu kín của những khách được mời ấy có tính thời sự nóng bỏng. Đức Giêsu mô tả hai hạng người: 1. những người "thờ ơ” với một sự lãnh đạm hầu như tự nhiên không có vẻ gì quan tâm đến việc mình được mời, và một cách rất đơn giản họ để cho công việc của họ cuốn họ đi... 2. và đến những người."phản bác” họ từ chối lời mời một cách có ý thức và tham gia dùng bạo lực giết hại các đầy tớ.

Như thế Đức Giêsu mô tả cho chúng ta tình trạng của thế giới hiện đại một cách chính xác. Chỉ cần đưa ra một vài ví dụ xác đáng của ngày hôm nay dưới những từ ngữ của ngày xưa... "Làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ? Tôi chỉ có một ngày Chúa nhật để chơi bóng đá và quần vợt. Đó là ngày mà tôi sẽ di du lịch. Đó lâu ngày mà tôi sửa chữa máy móc trong nhà. Tôi đã nhảy đầm cả buổi tối thứ bảy, làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ ngày Chúa nhật... Và rồi, tôi còn có bài tập phải làm và các kỳ thi phải ôn thi...". Thế đấy chúng ta đều bị xã hội tiêu thụ và chủ nghĩa duy vật ở xung quanh khống chế. Và chúng ta đều có nguy cơ cho Thiên Chúa đứng ở chỗ cuối. Biết bao âm thanh khác lấp mất những 'lời' kêu gọi của Người. "Hãy đến dự tiệc cưới của Ta?". Và chúng ta không hề nghe thấy!

Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng.

Lịch sử phương Đông cổ đại cung cấp cho chúng ta những giai thoại thuộc loại này. Nhưng một lần nữa, chúng ta biết mình đang ở trong thể loại dụ ngôn. Không nên tìm kiếm ý nghĩa chính xác cho mỗi chi tiết. Tuy nhiên, thành phố bị thiêu hủy làm chúng ta nghĩ đến một biến cố lịch sử chính xác đã lầm tổn thương những người Do Thái và những Kitô hữu của thế kỷ đầu tiên và đó là cơ hội để Hội Đường và Hội Thánh đoạn tuyệt nhau (Do Thái giáo và Kitô giáo tách rời nhau). Khi Mát-thêu viết câu chuyện này thì trong thực tế những đạo quân của Titus đã tàn phá thành Giêrusalem vào năm 70. Một số phận như thế đã có thể xảy đến cho thủ đô nổi tiếng của dân tộc ít-ra-en như thế nào? Những biến cố lịch sử có thể được giải thích theo nhiễu cách. Tuy nhiên, các ngôn sứ đã giải thích sự tàn phá của các thành phố lớn như một hình phạt của Thiên Chúa" (I-sai-a 5,26-29; Giê-rê-mi-a 5,15-17).

Rồi nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới". Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.

Vậy đây là những khách mời mà người ta không chờ đợi và chính họ chấp nhận lời mời. Những người Do Thái, những người khách mới đầu tiền, vì thế sẽ nhường chỗ cho dân ngoại.

Nhưng một lần nữa, chúng ta phải cảnh giác với sự tự mãn về chủng tộc. Bởi vì đây cũng là vấn đề của chính chúng ta. Một cách chân thật, chúng ta có thể đáp "vâng" với những lời mời gọi mà Thiên Chúa lặp lại trong đời sống hàng ngày của chúng ta hay không?

Đức Giêsu đã báo trước cho chúng ta: Căn phòng tiệc cưới sẽ đầy cho dù các "ông lớn" không thèm đáp lại. Người sẽ làm đầy phòng tiệc với những người rách rưới, bị loại trừ, những người đầu đường xó chợ. Thánh Luca trong bài dụ ngôn song song xác định rõ thành phần: "Các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt" sẽ thế chỗ cho những người được mời đầu tiên (Luca 14,21). Và Mát-thêu, trong một đoạn văn khác cũng đã nói với chúng ta điều dó: Những người thu thuế và những cô gái.điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông"

Vậy các người đi ra các ngã động gặp ai cũng mời, tốt xấu gì cũng mời... ".

Chúng ta hãy để cho những lời khác thường ấy tra vấn chúng ta. Chúng ta có được tấm lòng cũng bao la như Thiên Chúa hay không? Chẳng phải chúng ta luôn luôn bị chủ nghĩa ưu tuyển cám dỗ sao? Chẳng phải chúng ta luôn luôn mơ đến một Giáo Hội của những người thanh khiết, những chiến sĩ, những người có đức tin hoàn toàn sáng suốt sao? Chẳng phải chúng ta coi nhẹ những thực hành của "tôn giáo bình dân sao?".

Còn Thiên Chúa, Người mời gọi mọi người, không phân biệt, đủ mọi thành phần. Người lại còn ưu ái đến những người nghèo, những người ở bên lề, những người bị bỏ rơi vì thiếu thốn, những người nghèo khổ.

Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?". Người ấy câm miệng không nói được gì.

Lòng nhân từ của Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người xấu và tốt, không vì thế mà buông xuôi thành nhu nhược Biểu tượng về y phục thường gặp trong Kinh Thánh. Ơn cứu chuộc không bao giờ tự động có được: phải "đáp ứng" lời mời gọi của Thiên Chúa bằng sự biến đổi chính mình Phải "mặc lấy con người mới" (Ga-'lét 3,27; E-phê-sô 4,24; Cô-lô-xê 3,10).

Bấy giờ nhà vua bảo những người phục dịch: Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng?"

Hình phạt to lớn này và những từ ngữ khuôn sáo (Mt 8,12; 13,42; 24,51; 25,30) dùng để mô tả sự xét xử ấy làm nổi bật tính chất hoàn toàn tượng trưng của "Y phục lễ cưới", của chiếc áo dài hôn lễ! Đi vào trong phòng tiệc cưới một lần rồi thôi chưa đủ. Tiếp nhận Lời Chúa không phải để sau cùng cất Lời ấy vào chỗ an toàn.

Những người đã thay thế cho những khách mời đầu tiên cũng thế, không Phải là những người có quyền ưu tiên: nếu họ tỏ ra bất xứng với tiệc cưới của Thiên Chúa, họ sẽ bị ném "ra ngoài". Lời cảnh báo ấy rất nghiêm trọng? Nó cáo giác sự an toàn dễ dãi của chúng ta? Người tín hữu được nhắc nhở đến trách nhiệm của mình.

Lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô cùng. Nhưng người ta không thể coi thường sự thánh thiện của Người. Khi chúng ta được linh mục "mời gọi" đến hiệp lễ trong thánh lễ chúng ta nghe Ngài đọc: "Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Thiên Chúa". Và chúng ta chỉ có thể nói tiếng "vâng" nhưng trước hết phải nói rằng: “Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con... nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh".

 

home Mục lục Lưu trữ