Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 64
Tổng truy cập: 1363636
CÁI ÔM HÔN THÁNH THIỆN
CÁI ÔM HÔN THÁNH THIỆN
Người đàn ông đã sáng chế ra lại “Cái Ôm Hôn Thánh Thiện” ở thời đại chúng ta là ông Leo Busaglia. Ông đã viết một bài trong cuốn báo “Women’s Day” với tựa đề là “Cuộc Giáng Sinh theo Matthêu Mập.” Buscaglia lúc đó mới tốt nghiệp đại học là một thầy giáo và được bổ nhiệm để tổ chức một hoạt cảnh Giáng Sinh. Các vai trong hoạt cảnh đã được các em trong lớp sắp đặt. Riêng vai Thánh Giuse thì do em “Matthêu Mập” phụ trách. Các học sinh đều cho rằng Matthêu Mập đóng vai Thánh Giuse là đúng nhất, tuy nhiên Buscaglia thì lưỡng lự bởi vì em là một học sinh cao nhất trong lớp và đồng thời cũng là một đứa trẻ hiếu động nhất. Sau những tuần tập dợt, ngày trình diễn đã đến. Sau khi bài thánh ca hát đến câu cuối, “Chúa Kitô, Đấng Cứu Tinh đã sinh ra… Chúa Kitô Đấng Cứu Tinh đã giáng trần,” thì tấm màn sân khấu mở ra. Trên sân khấu, Đức Mẹ và Thánh Giuse đang nằm ngủ trên những bao bột, và xung quanh là các con vật đang kêu ra những tiếng của chúng. Cynthia đã quên vai của cô là con chiên, và cô đã rống “mu mu”, tiếng của con bò. Còn Paul thì chỉ quay xuống nhìn khán giả và chạy vô trong. Sau đó, thiên thần thứ nhất xuất hiện. Trên tay của thiên thần là Chúa Hài Đồng. Một cách cẩn thận, thiên thần đặt em bé trên đống rơm ở phía chân của Đức Mẹ và đọc bài Phúc Âm Giáng Sinh của Chúa Giêsu theo Thánh Luca. Sau đó, Matthêu Mập, trong vai Thánh Giuse, thức dậy, ngáp, và giựt mình khi nhìn xuống phía chân của Đức Mẹ. “Cho đến ngày hôm nay”, Tiến Sĩ Buscaglia viết, “tôi vẫn không thể tưởng nổi điều gì đã ám ảnh nó. Matthêu Mập đánh thức Đức Mẹ và hét lên, “Maria, Maria, thức dậy và nhìn xem em bé bà đã có trong đêm qua!”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Thánh Gioan Tẩy Giả đã khuyến khích đám đông đang vây quanh ông hãy mở mắt và tâm hồn mình ra mà nhìn vào Chúa Giêsu, Đấng đến sau ông, nhưng có trước ông, và ông không đáng cởi dây giày cho Ngài.
Chúa Giêsu là Người độc nhất trong lịch sử của loài người. Sự giáng trần của Ngài là một sự kiện độc nhất, mà Ngài đã hiện hữu từ muôn đời và bây giờ đến trong thế gian với thân phận con người. Ngài độc nhất trong lời giảng dạy và việc làm. Ngài độc nhất trong sự hiền lành và quyền năng. Ngài độc nhất trong cái chết và sự phục sinh. Ngài độc nhất vô tội. Điều mà Thánh Gioan Tẩy Giả tuyên bố cũng giống như lời thiên thần báo tin Giáng Sinh của Chúa Giêsu cho các mục đồng”…này tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa” (Lc 2:10-11).
Dân Chúa là đoàn dân của sự vui mừng, bởi vì trong và qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa ban chính Ngài cho chúng ta cho dù trong cảnh tối tăm nhất của cuộc đời chúng ta. Toàn bộ Tân Ước là những cuốn sách vui mừng từ đầu cho tới cuối. Sự vui mừng này được diễn tả một cách đặc biệt trong thư của Thánh Phaolô. Ngài đã phải trải qua bao nhiêu đánh đập, sỉ nhục, gian nan, tù tội. Hơn nữa, ngài còn phải đương đầu với biết bao nhiêu vấn đề trong xã hội cùng với biết bao nhiêu người khác: cả triệu người trong cảnh nô lệ; cả triệu người đói khổ, và hàng ngàn người chết oanh liệt chỉ vì họ là Kitô hữu. Và trong những lúc như thế, Thánh Phaolô đã không ngừng khuyến khích các cộng đoàn: “Anh em hãy vui mừng luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!… Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô Giêsu” (Phil 4:4-7).
Thánh Tông Đồ Phaolô đã biết rằng cuộc sống vui mừng có động lực thu hút sự sống vào chính nó. Điều đó có nghĩa là sự chan chứa niềm vui thì tự đặt mình vào chỗ đón nhận thêm sự sống, niềm vui, và hy vọng. Ngược lại, người chối bỏ cuộc sống là người luôn than thở và thất vọng. Họ hướng về sự tiêu cực, tối tăm, bệnh tật, và sự chết. Chúng ta nhìn thấy rõ sự đó. Đó là một định luật của cuộc sống. Đó là một phần mà Chúa Giêsu đã có ý nói tới khi Ngài phán: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất” (Mt 13:12). Đó là cách xoay tròn của cuộc sống. Khi mà tâm hồn của bạn tràn ngập niềm vui, thì bạn sẽ lãnh nhận nhiều hơn nữa; ngược lại, khi tâm hồn bạn không có chút niềm vui nào, thì bạn sẽ mất tất cả. Thánh Phaolô cũng biết rằng cuộc sống vui tươi thì có chiều hướng lan truyền cho người khác.
Bạn hãy nghĩ đến một người nào đó mà đã gây ảnh hưởng lớn lao trong cuộc sống của bạn. Người đó không phải là người sống tiêu cực hoặc thất vọng, nhưng là một người biết vui sống. Chúng ta nhìn thấy một điều gì đó ở trong họ mà chúng ta cũng muốn ôm ấp. Trong công cuộc truyền giáo của chúng ta, đó là cách thức mà chúng ta có thể kéo người khác đến với Chúa Kitô.
Các Kitô hữu thời sơ khai đã có thể lôi kéo thế giới tin theo Chúa Kitô là bởi vì họ đã biết lan tràn sự vui mừng của họ ra cho thế giới. Đánh mất niềm vui đó là dấu hiệu chúng ta đã đánh mất Thiên Chúa. Và thế giới không còn trông mong điều gì ở chúng ta.
Thiên Chúa ban cho dân Ngài sự vui mừng, và qua đó, Ngài ban sự vui mừng cho thế giới!
31. Suy niệm của nhóm Đồng Hành
Chi Tiết Hay
Cách đặt câu hỏi để rồi phủ nhận của ba câu 7, 8 và 9, có mục đích nhấn mạnh một điểm. Ý thứ nhất, một người bạo dạn như Gioan thì tương phản với cây sậy mỏng manh. Thứ hai, một người bình dị và khắc khổ như Gioan chắc chắn không mặc sang trọng. Thứ ba, Gioan khác hẳn với những tiên tri thông thường, và đây là điểm chính. Gioan khác biệt hẳn ở chỗ ông là người dọn đường cho Chúa tới. Điều đó làm cho Chúa và những ai theo Ngài trở nên cao trọng hơn nữa.
Gioan biết Đức Giêsu là Đấng Kitô nhưng ông không thể hình dung ra được. Trước tiên, ông thắc mắc tại sao Đức Giêsu lại muốn chịu phép rửa, kế đến ông phân vân tại sao Đức Giêsu không làm những việc trọng đại như trừng phạt kẻ có tội và giải phóng những người bị áp bức.
“Người mù được thấy”: Sách Cựu Ước đã nói rằng Đấng Mêsia sẽ chữa lành kẻ bị đui mụ Đức Giêsu là người duy nhất trong Cựu Ước cũng như Tân Ước đã chữa lành người mù, và đây cũng là phép lạ mà Ngài thường làm nhất.
“Người cùi được sạch”, bệnh phong cùi là điều ô uế không những cần được chữa khỏi mà còn đươc rửa sạch nữa.
“Kẻ nghèo được nghe tin mừng”, đây là điểm cuối cùng, và là tột điểm, làm ta liên tưởng đến các Mối Phúc Thật trong Mt 5:3.
Đứng về phía những người nghèo khó luôn là việc làm phản với văn hóa, và đó không phải là điều người ta mong đợi nơi Đấng Cứu Thế sẽ làm. Bởi vậy, “phúc thay kẻ nào không bị vấp ngã vì Ta.”
Một Điểm Chính
NGƯỜI CAO TRỌNG NHẤT
Gioan là người cao trọng nhất. Đối với đân chúng đó là điều thật khó hiểu vì ai có thể cao trọng hơn Abraham, Môisen, Đavít, v.v. Gioan là người cao trọng nhất vì ông là người dọn đường cho Chúa. Thật rõ ràng rằng những người được Chúa chúc phúc sẽ cao trọng hơn, và trở thành những người cao trọng nhất. Họ là ai? Họ là những người nghèo khó đã được Chúa đem tin mừng tới. Chúa Giêsu đã hoàn toàn đảo lộn thế giới. Vì thế không có gì lạ khi ngay cả Gioan cũng không hiểu nổi.
Suy Niệm
Chúa Giêsu nói: “hãy thuật lại cho Gioan những gì các ngươi nghe và thấy.”
– Tôi thấy gì và nghe gì?
– Chúa Giêsu nói gì và làm gì?
– Người ta phản ứng ra sao?
– Tôi nghĩ và cảm nhận những gì Chúa Giêsu nói và làm?
– Tôi có tin rằng nước Chúa cao trọng, cao trọng nhất?
– Cao trọng ở khía cạnh nào?
– Tôi có nghe và thấy nước Chúa cao trọng nhất trong cuộc sống hàng ngày không?
– Tôi có phải là người nghèo đón nhận tin mừng không?
– Tôi có thể nào tin rằng tin mừng của Chúa Giêsu là cho kẻ nghèo khó không?
Gioan ở trong tù đã nghe nói về những việc làm của Đức Kitô, và đã sai môn đệ đến hỏi Ngài: “Ngài có phải là ‘Đấng sẽ phải đến’ hay chúng tôi còn phải chờ đợi người khác?” – Chúng ta biết câu trả lời của Đức Kitô (Mat. 11:2-5). Và sau khi tán dương ông “Gioan người-làm-phép-rửa”, Ngài thêm: “… Hơn nữa, người bé mọn nhất sinh vào Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông” (Mat. 11:11).
Câu hỏi của Gioan và câu trả lời của Đức Kitô làm chúng ta liên nghĩ đến rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng, rải rác trong các bài giảng hoặc dụ ngôn hoặc động tác của Đức Kitô đối với “người bé mọn nhất sinh vào Nước Thiên Chúa”. Chúng ta chỉ cùng nhau suy niệm câu của chính Đức Kitô nêu lên hỏi các môn đệ Ngài, và hỏi mỗi một chúng ta, hôm nay, bây giờ: “… Còn anh em, anh em bảo tôi là ai?” (Mat. 16:15)
Thánh Phêrô hăng hái trả lời: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mat. 16:16), nhưng sau đó chối từ Thầy kính yêu, “Con Thiên Chúa hằng sống”. Chẳng những một lần mà đến ba lần! Chẳng những chối “không hề biết”, mà còn thề “…tôi thề là không biết người đó!” (Mat. 26:69-75; Mc.14:66-71; Lc. 22:54-60; Ga.18:25-27).
Thánh Phaolô, trái lại, hùng hổ lên đường tìm bắt những người tin theo Đức Kitô, “bất luận đàn ông hay đàn bà, đều trói giải về Giêrusalem”. Trên đường tới gần Damas, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông. Ông ngã xuống đất và nghe tiếng nói: “Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ tôi?”. Ông hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Tiếng từ trời đáp: “Tôi là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ.” (Cv. 9:1-5).
Thánh La San bị người nhà chê bai và khinh thị vì bán hết gia tài phân phát cho người nghèo đói, bị giáo quyền đương thời “treo chén” vì cùng một số thầy giáo quê mùa dấn thân trọn vẹn dạy dỗ và giáo dục “con em gia đình nghèo hèn giới thợ thuyền không ai chăm lo”, để rồi cuối cùng trước khi tắt thở đã thốt lên: “Tôi thờ lạy thánh ý Chúa qua mọi biến cố xảy ra trong đời tôi”.
Phần chúng ta, hôm nay, bây giờ, chúng ta trả lời làm sao cho Gioan Tẩy giả? Chúng ta trả lời làm sao cho câu hỏi của chính Đức Kitô?
Phải chăng
* mỗi lần chúng ta “thật tình yêu thương hướng dẫn một em bé lớn lên trong lối sống đạo dức, lành mạnh” (thánh La San);
* mỗi lần chúng ta đưa tay giúp đỡ một người già yếu;
* mỗi lần chúng ta mĩm cười thông cảm, ủi an một người đang buồn sầu;
* mỗi lần chúng ta thật tình chung vui chia sẻ với một người gặp điều may mắn và cùng họ cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa;
* mỗi lần chúng ta tự dè xẻn chi tiêu hằng ngày để chia sẻ và thông phần giúp đỡ một người đang gặp tai ương;
* mỗi lần v.v….
là câu trả lời thích đáng nhất cho câu hỏi của chính Đức Kitô: “Còn anh em, anh em bảo tôi là ai?”?
33. Còn đợi chờ ai? – Lm. Phạm Quốc Hưng
“Có phải Ngài là Đấng sẽ đến, hay chúng tôi phải đợi người khác?”
Bà Terry có một cô con gái tên là Cathy đến tuổi kết hôn. Bà bắt đầu để ý giúp con chọn bạn trăm năm. Cathy rất thân mẹ và tâm sự với mẹ về mẫu người lý tưởng của cô: “Anh ấy phải là người hơn con ít là hai tuổi, phải cùng là Công giáo, tương đối dễ coi, phải bằng con hay hơn con ít nhiều về trình độ học thức nghĩa là phải có bằng BA hay BS, chưa bao giờ kết hôn, không bồ bịch lăng nhăng, biết đàn ca và nhảy đầm chút ít, không hút thuốc hay rượu chè cờ bạc, có công ăn việc làm đàng hoàng, biết cách đối xử với gia đình của anh ấy, và nhất là phải được mẹ bằng lòng.”
Nghe con tâm sự như thế, bà Terry rất đỗi vui mừng vì bà cũng có cùng ý nghĩ như Cathy. Bà sung sướng khi được Cathy kể cho bà nghe các liên hệ tình cảm của nàng để bà góp ý. Có rất nhiều chàng trai để ý Cathy, nhưng không ai hội đủ những điều kiện hợp với mẫu người lý tưởng mà nàng đã đưa ra.
Đến một ngày nọ, bà nghe Cathy kể về một chàng trai đang để ý nàng tên là Tony với tất cả những phẩm chất mà Cathy hằng mong mỏi. Chỉ còn một điều kiện duy nhất Tony chưa có là phải được bà bằng lòng. Thế là bà Terry nói Cathy mời Tony về nhà chơi để bà góp ý. Chỉ sau ít lần gặp gỡ Tony, bà đã nhận ra đây đúng là mẫu người chồng lý tưởng cho con mình và đúng là mẫu rể quý bà hằng mong đợi. Bà nói với Cathy: “Đây chính là người rất xứng hợp với con, mẹ hoàn toàn bằng lòng và sẽ tận tình lo chuyện thành hôn cho hai đứa.”
Nhưng bà ngạc nhiên khi nghe Cathy nói: “Nhưng con sẽ không lấy Tony đâu vì con không có cảm tình với anh ấy.” Bà Terry buồn bực nói với con: “Già kén kẹn hom. Con còn đợi chờ ai?”
Cũng như Cathy đang kiếm tìm một người bạn trăm năm lý tưởng, mỗi người trong nhân loại qua bao thế hệ cũng chờ mong một Đấng Cứu Thế, một mẫu người lý tưởng có thể làm thỏa mãn mọi khao khát chân thiện mỹ của lòng người.
Chúa Giêsu Kitô chính là mẫu người lý tưởng mà con tim nhân loại qua mọi thời đại hằng khao khát mong chờ. Ngài là người duy nhất có thể làm thỏa mãn mọi ước mơ sâu thẳm nhất của lòng người – ước mơ được thóat khỏi ách nô lệ của tội lỗi và nết xấu, ước mơ được sự sống đời đời, ước mơ được biết chân lỳ toàn vẹn, ước mơ được chiếm hữu sự thiện tuyệt đối, ước mơ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp vô cùng. Vì Ngài chính là Đấng Cứu Chuộc nhân thế, là nguồn Chân-Thiện-Mỹ, là Thiên Chúa làm người để đưa con người lên hàng Thiên Chúa, nghĩa là cho con người được chia sẻ chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.
Nhưng làm sao có thể biết được Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa làm người và là Đấng Cứu Thế mà nhân loại hằng mong đợi, khi có quá nhiều bậc vĩ nhân từng xuất hiện trong lịch sử nhân loại, những vĩ nhân đã có hàng triệu người sùng bái như Socrates, Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca, Mohammed?
Đức Cha Fulton Sheen đã đưa ra ba tiêu chuẩn để giúp ta nhận biết ai là Đấng Cứu Thế đích thực được Thiên Chúa sai đến cho nhân loại.
Thứ nhất: Người ta phải được thông báo trước về sự xuất hiện của người ấy.
Thứ hai: Người ấy phải làm được những phép lạ để mọi người thấy rõ quyền năng của Thiên Chúa ở nơi người ấy.
Thứ ba: Những lời nói và việc làm của người không được đi ngược với lương tâm và lý trí tự nhiên của con người.
Tất cả những nhân vật vĩ đại nói trên đã không thỏa mãn tiêu chuẩn đầu tiên, chưa nói đến hai tiêu chuẩn sau.
Chỉ một mình Chúa Giêsu Kitô đủ cả ba tiêu chuẩn trên.
Sự ra đời, nơi sinh, hoàn cảnh tị nạn, các hoạt động, cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu đều đã được các ngôn sứ nói đến trước đó cả ngàn năm trong thời Cựu Ước.
Chúa Giêsu đã thực hiện rất nhiều phép lạ để chứng minh Ngài thực sự là Đấng Thiên Sai. Phép lạ cả thể và lớn lao nhất mà Ngài đã thực hiện chính là phép lạ phục sinh của chính Ngài.
Tất cả các giáo huấn của Ngài không đi ngược với lương tâm và lý trí tự nhiên của con người, nhưng đã hướng lòng trí con người đến những gì cao trọng nhất và đáng yêu nhất là chính Thiên Chúa. Chính Ngài đã thực hiện hoàn hảo tất cả những gì Ngài hướng dẫn kẻ khác.
Như vậy, Chúa Giêsu Kitô chính là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất đáng chiếm hữu trọn vẹn tình yêu của trái tim nhân loại.
Đó chính là điều mà Tin Mừng hôm nay muốn nói với chúng ta.
Các môn đệ của Gioan được sai đến với Chúa Giêsu đã thay mặt toàn thể nhân loại qua mọi thời đại để hỏi Ngài câu hỏi quyết định sau: “Có phải Ngài là Đấng sẽ đến hay chúng tôi còn phải đợi người khác?” (Mt 11:3)
Chúa Giêsu đã tự xác nhận Ngài là Đấng Thiên Sai vì chính Ngài đã thực hiện những phép lạ và hoàn tất những lời tiên tri về Ngài như sau: “Các ông hãy tin lại cho Gioan mọi điều tai nghe mắt thấy: Mù được sáng mắt và què được đi, phung hủi được sạch, và điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại, và ngườ nghèo khó được nghe báo Tin Mừng; và phúc cho người không bị vấp ngã vì Ta.”(Mt 11:4-6)
Đấng Thiên Sai mà nhân loại mong mỏi đợi chờ qua bao thế hệ đã đến với nhân loại và đã hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chua dành cho chúng ta.
Đó là niềm vui của Hội Thánh suốt hơn hai ngàn năm nay, và Hội Thánh không ngừng mời gọi mọi người chia sẻ niềm vui ấy, nhất là trong mùa vọng.
Thật thích hợp khi Giáo Hội biểu lộ niềm vui lớn lao ấy qua việc gọi Chúa nhật tuần này là “Chúa Nhật Mừng Vui” với việc xử dụng màu hồng trong phụng vụ. Nhưng chúng ta chỉ cảm nhận niềm vui này cách trọn vẹn khi chúng ta có cùng một niềm tin của Hội Thánh nơi Chúa Kitô và chấp nhận bước vào liên hệ tình yêu thiết thân với Chúa Kitô, qua việc lắng nghe và thực hành tất cả những lời Chúa Kitô và Hội Thánh truyền dạy.
Đó chính là điều các thánh đã chọn để thực hiện trong cuộc đời các ngài.
Nếu không chấp nhận Chúa Giêsu Kitô là Đấng Thiên Sai, thì chúng ta còn đợi chờ ai?
Lạy Mẹ Maria là Đấng “làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy”, xin Mẹ hãy cầu cùng Chúa cho chúng con ngày thêm xác tín rằng chỉ một mình Chúa Giêsu Con Mẹ là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất có thể đem lại niềm vui viên mãn và ý nghĩa trọn vẹn cho cuộc sống của chúng con. Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giêsu cho chúng con luôn gắn bó với Người trong mọi nơi mọi lúc, và hân hoan làm chứng về Người cho những ai chưa nhận biết Người để niềm vui cứu độ được lan rộng nơi tất cả những tâm hồn thiện chí. Amen.
34. Kiên nhẫn đợi chờ – Lm. Minh Nhiên
Một trong những điều chúng ta thường phải làm trong cuộc sống hôm nay khi đi xin việc, ghi danh đi học, gặp bác sĩ, đi máy bay… là điền đơn trả lời các câu hỏi về căn tính nghề nghiệp khả năng của mình và rồi kiên nhẫn ngồi đợi chờ.
Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến chuyện thánh Gioan ngồi trong tù đợi chờ câu trả lời thánh nhân hỏi về căn tính của Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”
Người ta bảo tìm ra căn tính của mình là một điều quan trọng trong cuộc sống. Nếu biết rõ mình là ai chúng ta sẽ bớt đi sự nóng nảy căng thẳng khó chịu với chính mình và với người khác. Chúng ta sẽ bình an, hạnh phúc, dễ sống hòa hợp hơn, và có thể bình tâm khám phá căn tính của người khác, nhờ đó đem đến sự thông cảm nơi gia đình, bạn bè, quen thuộc hay trong cộng đoàn, quốc gia.
Tìm ra căn tính của mình, của tha nhân, của Chúa Giêsu, đòi thời gian. Thời gian đó dài bằng của cuộc sống của mình, đòi kiên nhẫn. Tuy nhiên, câu hỏi của thánh Gioan phản ảnh cuộc sống con người: muốn biết rõ và biết rõ ngay.
Chuyện thần thoại Ấn Độ kể rằng: Shiva là vị thần tạo dựng muôn loài. Ngài sung sướng trong công việc tạo dựng với đôi tay của Ngài, nhưng dẫu là thần ngài không tránh khỏi sự nhàm chán. Shiva chán ngán những gì Ngài tạo dựng. Phải làm gì? Dễ dàng, Shiva phá hủy những gì đã tạo dựng và làm nên cái mới. Cái mới cũng lại dần trở nên quen thuộc và ngài lại phá hủy rồi bắt đầu lại. Tiến trình tạo dựng, tiêu hủy, tạo dựng, tiêu hủy vẫn tiếp diễn liên tục. Shiva là một vị thần không kiên nhẫn.
So sánh thần Shiva và Thiên Chúa, chúng ta thấy có sự tương phản rõ rệt. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa kiên nhẫn. Dù con người sa ngã phạm tôi, Ngài không bất nhẫn hủy diệt. Ngài không chỉ tạo dựng nhưng còn hứa cứu chuộc. Lời hứa cứu chuộc có lẽ là điều khó nhất cho con người chúng ta hiểu được. Thiên Chúa đã đi vào lịch sử con người với điều kiện sống của con người để chỉ cho thấy tình yêu của Thiên Chúa và giá trị của con người. Ngài đến với thân phận con người dưới hình một em nhỏ. Ngài không đến như một vị vua oai hùng khiến chúng ta sợ hãi nhưng đến mong chờ chúng ta đáp trả tình yêu.
Chúng ta sống trong một xã hội đòi hỏi giải pháp nhanh chóng ngay lập tức cho mọi vấn đề. Nhanh hơn thì tốt hơn, người ta bảo chúng ta vậy. Và điều đòi hỏi trả lời nhanh chóng ngay lập tức này còn đi sâu cả vào trong lãnh vực tâm linh nữa. Chúng ta muốn Chúa Giêsu đến và đến nhanh. Chúng ta muốn được ơn cứu độ ngay mà không muốn đón nhận đau khổ do sự từ bỏ mình hay phải chờ đợi. Nếu Thiên Chúa không hòa hợp với chương trình thời gian tính của chúng ta, chúng ta cảm thấy mình bị lường gạt hay tệ hơn nữa Thiên Chúa đã quên chúng ta rồi.
Lá thư thánh Giacôbê nhắc nhở: Kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ. Thiên Chúa đã đến và sẽ đến, thái độ đợi chờ của chúng ta sẽ như thế nào? Phải chăng chúng ta cố gắng tìm hiểu căn tính của Đấng Kitô, noi gương bắt chước Đấng đã đến đem niềm vui, niềm hy vọng đến cho những người không có hy vọng. Điều cần để ý là những người mù, què, câm, điếc, phong hủi là những người đã đang phải đối diện với những thách đố của cuộc sống, gặp những trở ngại cần vượt qua. Nói một cách chung, họ là những người đang sống được nhờ tình thương lòng bác ái quảng đại của người khác. Chúa đến đem hy vọng cho họ là những người không có niềm hy vọng.
Phải chăng chúng ta kiên nhẫn đợi chờ trong an bình hạnh phúc: Một đêm nọ hai vợ chồng đang ngủ bỗng họ cảm thấy mùi khói nhà cháy. Người chồng mau lẹ nhảy ra khỏi giường tìm hiểu lý do rồi vội vàng nói với người vợ là một góc nhà của họ đang bị cháy. Nói xong, anh cầm tay vợ và cả hai mò mẫm bò qua hành lang đầy khói. Sau một lúc vất vả mệt nhọc mới đến được cửa đàng trước. Khi qua được cửa, người chồng lấy làm lạ khi thấy trên mặt vợ một nụ cười mỉm. Anh kêu lên: “Nhà của mình đang bị cháy, và chúng ta may mắn thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Vậy điều gì có thể khiến em có thể cười được trong lúc này chứ?” Người vợ đáp: “Xin lỗi anh, em không thể nhịn không cười được, vì đây là đêm đầu tiên hai vợ chồng mình đi ra ngoài chung với nhau sau 5 năm lập gia đình.” Người vợ kiên nhẫn đợi chờ với tâm hồn an bình để có thể cười được khi gia đình gặp tai biến.
Sau cùng, một đàng phải kiên nhẫn đợi chờ, một đàng phải noi gương yêu thương của Đấng Kitô tích cực dấn thân: Don’t wait for a smile to be nice. Don’t wait to be loved, to love. Don’t wait for best job, to begin to work. Don’t wait to have a lot, to share a bit. Don’t wait for the fall, to remember the advice. Don’t for pain, to believe in prayer. Don’t wait to have time, to be able to serve. Don’t wait for any one else pain, to ask for apologies… neither separation to make it up. Don’t wait, because you don’t know how long it will take. Đừng chờ nột nụ cười rồi mới niềm nở. Đừng chờ được yêu rồi mới yêu. Đừng chờ cô đơn mới nhận thức được tình bạn. Đừng đợi việc làm thật tốt rồi mới bắt tay vào việc. Đừng đợi có nhiều mới chia sẻ một chút. Đừng đợi vấp ngã, mới nhớ lại lời khuyên nhủ. Đừng đợi đớn đau, mới tin vào lời nguyện cầu…. Đừng đợi có thời giờ, mới có thể phục vụ. Đừng đợi có thêm kẻ đau khổ, mới xin thứ tha. Cũng đừng đợi chia rẽ, mới giải hòa. Đừng đợi, vì bạn không biết sẽ phải chờ đến bao giờ (TLQ phỏng dịch)
35. Gioan, vị tiền hô – Sr. Đào Thuỷ
Theo thói thường, người ta sẽ cảm thấy rất khó chấp nhận những ai dám sửa sai, nói thẳng đến những lỗi lầm của mình. Nếu người sửa sai là công chính, hành động và ngôn từ đồng nhất thì người nghe sẽ cảm thấy phải nghe theo lời sửa đổi đó hoặc phải tìm cách tống khứ người kia đi; và trong trường hợp của Gioan Tẩy giả đã rơi vào tình trạng thứ hai: ông lên án sự loạn luân của nhà vua nên bị giam tù và cuối cùng đã bị chém đầu.
Trong tù, Gioan đã sai các môn đệ đến gặp Chúa Giêsu để hỏi xem Ngài có phải là đấng Messiah mà muôn dân đang mong đợi không. Có một số nhà chú giải cho rằng chính trong nhà giam, Gioan cảm thấy cô đơn và đâm ra nghi ngờ về “ông Giêsu” với sứ mạng của ông ấy, nên mới cho môn đệ đi hỏi thay cho mình, nhưng lời chú giải này xem ra cũng không có lý lắm trong trường hợp của Gioan Tẩy Giả. Ông vốn quen với đời sống âm thầm, đơn lẻ trong rừng vắng với những khó khăn, thử thách của chốn cô tịch. Ông đã đặt tất cả niềm tin nơi Thiên Chúa, hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẵn sàng lên tiếng chống lại những bất công của xã hội, của quyền thế nên ông đã biết và chấp nhận hậu quả đi kèm: đụng đến vua thì sẽ bị tù tội. Thế thì việc ông sai môn đệ đến gặp Chúa Giêsu để làm gì?
Vai trò của Gioan Tẩy giả luôn luôn thống nhất: người tiền phong mở đường cho Chúa đến. Ông trung thành với sứ vụ của mình trong việc kêu gọi mọi người sống công minh chính trực. Ngay trong tù giam, ông không nỡ để các môn đệ bơ vơ như rắn mất đầu nên đã sai các môn đệ mình đến gặp và hỏi Chúa Giêsu về vai trò của Ngài. Gioan đã nói thẳng cho môn đệ biết mình không phải là Đấng Messiah (dù rằng ngay sau khi Gioan mới chết rồi, vẫn có một nhóm nhỏ tin rằng Gioan mới là Messiah) đồng thời ông cũng muốn giới thiệu các môn đệ đến với Chúa Giêsu để chính họ được nghe, được biết về đấng Messiah thật sự. Vì thế, việc “sai đi” của Gioan không có nghĩa tiêu cực như một sự nghi ngờ, mà là điều tích cực của việc gián tiếp giới thiệu về Đấng Messiah.
Và xem ra Chúa Giêsu cũng trả lời theo cùng một đường lối “gián tiếp” đó. Thay vì trực tiếp trả lời “Phải” hoặc “Không phải”, Ngài lại nói: “Các anh hãy về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy, tai nghe: người mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng…” Tuy nhiên, những công việc mà Chúa Giêsu làm đó, lại chính là những gì mà trong Cựu Ước, tiên tri Isaiah đã loan báo về Đấng Cứu thế.
Xét về vai trò của Gioan Tẩy giả hôm nay, chúng ta có thể học được một bài học rất quý giá nơi ông: ông luôn luôn hướng người khác về Chân lý, về Đấng Cứu thế mà ông biết rõ mình không phải là Cứu Cánh đó. Nghe thì đơn giản nhưng nhiều khi người ta dễ mắc phải sai lầm khi muốn người khác chạy đến cầu cứu mình về vật chất hoặc tinh thần và khi làm ơn thì muốn được mang ơn trả ơn hoặc chỉ muốn xây dựng tinh thần, nghĩa thiết cá nhân thay vì hướng dẫn họ đến với Thiên Chúa là nguồn Ủi an và Cứu cánh thật sự của con người. Vô tình chúng ta có thể làm cho hình ảnh Chúa bị mờ nhạt trong đời mình và trở nên bức tường cản trở ơn Chúa xuống cho người khác qua con người của mình. Do đó, chúng ta có thể vô tình làm cho người thụ ơn mỗi khi cần gì thì chỉ biết chạy đến với chúng ta là một thụ tạo và dừng lại ở đó thay vì chạy đến với Thiên Chúa.
Ngoài ra, trong phương diện này hay phương diện khác, chính chúng ta cũng là những người mù, què, cùi, điếc, hoặc chết trong đời sống thiêng liêng. Chúng ta hãy xin Chúa chữa lành con yếu đuối của chúng ta và ban cho chúng ta ơn kiên nhẫn và bền đỗ để có thể nhận ra Chúa trong cuộc sống và hướng dẫn chúng ta về quê hương đích thực.
Câu hỏi gợi ý:
-
Tại sao Gioan Tẩy Giả lại sai môn đệ mình tới hỏi Đức Giêsu xem Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không? Theo ông nghĩ, nếu Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Vua Do Thái, thì ông sẽ đóng vai trò gì bên cạnh Ngài?
-
Đức Giêsu đến có đúng theo sự suy nghĩ và lòng mong ước của Gioan Tẩy Giả và của những người Do Thái thời đó không? Nếu Ngài đến lần thứ hai thì liệu có đúng theo sự suy nghĩ và lòng mong ước của chúng ta không?
-
Tại sao khi Đức Giêsu đến lại có biết bao người vấp phạm vì Ngài? Vì họ thiếu thiện chí, hay vì họ chấp nhất vào nguyên tắc? Có thể rút kinh nghiệm lần Ngài đến trước để khi Ngài đến lần thứ hai ta khỏi vấp phạm vì Ngài không?
-
Suy Niệm
-
Thắc mắc của Gioan Tẩy Giả
Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa kêu gọi làm một ngôn sứ, đồng thời làm vị Tiền Hô để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Ông rất ý thức điều ấy, và đã hoàn thành nhiệm vụ ấy một cách hoàn hảo. Chính vì thế, ông đã bị ngồi tù do dám tố cáo những sai trái của chính quyền đương thời là vua Hê-rốt. Tình trạng khó khăn và tuyệt vọng trong tù dễ làm người ta xuống tinh thần, vì thế, đức tin của Gioan vào Đức Giêsu phần nào bị thử thách.
Có thể lúc đó ông tự hỏi: Nếu Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế mà ông có sứ mạng tiền hô cho Ngài, thì tại sao ông lại phải ngồi tù thế này? Nếu Ngài là Đấng Cứu Thế, thì ắt hẳn Thiên Chúa phải để ông ơ ngoài hầu hợp tác với Ngài thiết lập triều đại mới chứ! Ông sẽ phải là cánh tay mặt của Ngài chứ! Chắc chắn Gioan cũng quan niệm như mọi người Do Thái khác rằng Đấng Cứu Thế sẽ giải phóng dân Do Thái và sẽ trở thành một vị Hoàng Đế cai trị toàn cầu. Vì thế, khi Ngài đã bắt đầu ra mặt mà ông vẫn còn phải ngồi tù thế này thì quả là khó hiểu? Do đó, ông đã sai môn đệ của ông đến gặp Đức Giêsu để hỏi cho rõ. Và họ đã đến gặp Ngài.
-
Những điều ứng nghiệm nơi Đức Giêsu, Đấng Cứu Thế
Đức Giêsu đã không trả lời trực tiếp bằng cách xác định mình chính là Đấng Cứu Thế, nhưng trả lời gián tiếp bằng những dấu hiệu mà trước đó khoảng 700 năm ngôn sứ I-sa-i-a đã tiên báo về thời đại của Đấng Cứu Thế: “Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng” (xem Is 26,19; 29,18-19; 35,5-6a; 61,1). Đó là những điều mà Đức Giêsu đã dùng quyền năng của mình thực hiện trước mắt mọi người.
Thử đặt mình vào địa vị Gioan Tẩy giả và người Do Thái thời ấy xem, ta có thể tin được Ngài là Đấng Cứu Thế không, khi mà đầu óc ta cứ nghĩ rằng Ngài sẽ giải phóng đất nước Do Thái bằng binh hùng tướng mạnh, bằng chính trị và quân sự? Thế mà hiện tại trước mắt, Ngài chỉ là một thầy đạo không một tấc sắt trong tay! Làm sao tin được Ngài là Đấng ấy, nhất là khi thấy Ngài bị nộp và bị đem đi giết như một tội nhân?
Chính vì thế, ngay từ lúc này Ngài đã nói: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Liệu câu nói ấy có ứng cho chính chúng ta khi Ngài trở lại không? Nếu Ngài trở lại theo một cách thức thật bất ngờ, không đúng như cách ta vẫn thường nghĩ, liệu ta có vấp ngã vì Ngài không? Vì nếu Ngài trở lại đúng theo cách ta thường nghĩ, thì lời Ngài tiên báo là sẽ đến “như kẻ trộm” đâu còn đúng nữa? Vậy, ta cần phải tỉnh táo khi Ngài đến để khỏi vấp ngã vì Ngài.
-
Đức Giêsu đến để thực hiện một cuộc cách mạng tôn giáo.
Tôi e rằng khi Ngài đến lần thứ hai, rất nhiều người sẽ vấp ngã và xúc phạm đến Ngài như lần Ngài đến trước, vì Ngài sẽ không đến theo như quan niệm của họ, nhất là về mặt tư tưởng và giáo thuyết. Lý do:
Nhân loại luôn luôn tiến hóa và đổi mới. Vì thế, các tôn giáo – vốn là phương tiện phục vụ con người, dẫn con người đến với Thiên Chúa – cũng phải thay đổi theo để phục vụ con người một cách phù hợp và hữu hiệu hơn. Hiện nay, nhân loại đã bước sang thời đại internet, toàn cầu hóa, với tinh thần khoa học thực nghiệm, kỹ thuật hết sức tân tiến. Về mặt chính trị, nhân loại không còn chấp nhận được những chế độ độc tài, bưng bít thông tin, tự do hà hiếp bóc lột dân chúng. Những quan niệm tôn giáo cũ có thể thích hợp với nhân loại cũ, thời đại cũ, với những quan niệm khoa học cũ. Nay nhân loại đã đổi mới, những quan niệm và thể chế tôn giáo không thay đổi để phù hợp sẽ bị đào thải. “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư” (Lc 5,37). Đương nhiên trong tôn giáo có những điều cốt tủy không bao giờ thay đổi được. Vấn đề quan trọng là phân biệt cái nào có thể thay đổi và cái nào là cốt lõi không thể thay đổi được.
Tôn giáo và luật lệ của tôn giáo là một cái gì linh thiêng, thần thánh, được hiểu là do Thiên Chúa thiết lập, được vĩnh cửu hóa và tuyệt đối hóa bằng những lời chắc nịch trong Kinh Thánh (chẳng hạn: St 9,12; Xh 12,14; 32,13b; Đnl 29,28; 1 V 8,13; Tv 98,5; và vô số câu khác). Vậy thì con người nào ai dám thay đổi? Chỉ có những Đấng Thiên Sai như Đức Giêsu mới có thể làm chuyện ấy. Chính Đức Giêsu đã thực hiện một cuộc cách mạng vĩ đại về tôn giáo. Và cũng chính vì làm cuộc cách mạng ấy Ngài mới bị giết bởi tay các nhà lãnh đạo tôn giáo cũ. Thế là, như ta đã biết, vô số người đã vì Ngài mà vấp ngã!
-
Cuộc cách mạng tôn giáo của Đức Giêsu
Tôn giáo Do Thái do Thiên Chúa thiết lập nhưng do Mô-sê hình thành. Những luật lệ do Mô-sê ban hành được coi là linh thánh và vĩnh cửu, vì được hiểu là luật của Thiên Chúa. Nhưng thật ra luật ấy chỉ phù hợp với trình độ văn hóa và tâm linh của dân Do Thái thời thượng cổ. Luật ấy được xây dựng trên sự sợ hãi của dân chúng. Tương tự như khi con người còn là một đứa trẻ, muốn nó sống tốt thì không thể chỉ dùng lời khuyên và trông chờ vào sự hiểu biết của nó mà được. Lời khuyên hay mệnh lệnh phải đi đôi với roi vọt. Đối với một đứa trẻ, chỉ cần nó sợ roi để làm theo những mệnh lệnh của người lớn là đã đạt yêu cầu, và chỉ cần như thế nó đã được coi là một đứa trẻ ngoan. Tôn giáo thời Cựu Ước ứng với phương pháp giáo dục dành cho trẻ con, không thể trông mong vào sự ý thức, hiểu biết, hay tình yêu của con người được. Tiêu chuẩn của sự công chính vào thời này là chỉ cần giữ luật cho đúng là được. Và người Pha-ri-siêu thời Đức Giêsu chính là mẫu người được coi là trọn hảo của thời Cựu Ước. Không ai còn có thể giữ luật trọn vẹn hơn họ!
Nhưng từ Mô-sê đến Đức Giêsu, dân Do Thái đã trải qua khoảng 1250 năm, trình độ văn hóa và tâm linh của họ đã thay đổi. Họ đã thoát khỏi giai đoạn tạm gọi là “trẻ con” của họ để bước sang một giai đoạn trưởng thành hơn. Do đó, tôn giáo cũng phải thay đổi để thích hợp với trình độ mới của họ, và chính Đức Giêsu là người có sứ mạng thực hiện sự thay đổi ấy. Tôn giáo mới không còn được xây dựng trên sự sợ hãi nữa, mà xây dựng trên nền tảng tình yêu. Dân Do Thái hay nhân loại lúc này được so sánh với một con người đã bước vào tuổi thanh niên. Cha mẹ không còn giáo dục anh chàng theo kiểu roi vọt nữa, mà mong đợi nơi anh sự ý thức tự giác và tình yêu. Lúc này, nếu anh học hành hay làm việc chỉ vì sợ cha mẹ đánh đòn, thì anh không còn được coi là hay là tốt nữa, mà phải do một động lực khác thúc đẩy: chẳng hạn do biết tự lo lắng cho tương lai, do biết yêu thương và làm hài lòng cha mẹ, muốn làm nở mày nở mặt cho gia tộc. Vì thế, cách sống hay giữ đạo “vị luật” của người Pha-ri-siêu không còn được Đức Giêsu coi là công chính nữa: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20).
Những cuộc cách mạng vĩ đại về tôn giáo như Đức Giêsu đã từng thực hiện chắc chắn thời nào cũng bị những người đương thời chống đối vì chưa nhận ra sự hợp lý của nó. Họ còn chấp vào những hiểu biết cũ, quan niệm cũ, nguyên tắc cũ đã được nhập tâm từ nhỏ, và được coi là những chân lý bất di bất dịch. Họ cảm thấy cần bảo vệ những chân lý ấy. Chính vì thế rất nhiều người vấp phạm khi Ngài đưa ra những quan niệm mới, nguyên tắc mới.
Để nói lên sự ưu việt của thời “hậu cách mạng” do Đức Giêsu, Ngài đã đưa ra một thí dụ điển hình: “Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”. Gioan Tẩy Giả là mẫu người công chính của Cựu Ước, sự công chính của ông không thể sánh ngang với sự công chính của thời Tan Ước được. Thật vậy, về tinh thần và phong cách sống đạo, giữa Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu, giữa các môn đệ của hai vị có sự khác biệt rõ rệt. Điển hình như: “Các môn đệ ông Gioan tiến lại hỏi Đức Giêsu rằng: “Tại sao chúng tôi và các người Pha-ri-sêu ăn chay, mà môn đệ ông lại không ăn chay?”“ (Mt 9,14; Mc 2,18).
Vậy, chúng ta hãy tỉnh táo để khi Đức Giêsu đến lần thứ hai, với những bất ngờ không dè trước được, chúng ta không vấp phạm vì Ngài: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (Mt 11,6).
Cầu nguyện
Lạy Cha, lần trước Đức Giêsu đến đã có biết bao người vấp phạm vì Ngài. Xin cho con rút ra được những kinh nghiệm và bài học quí báu từ những sự kiện trong Tin Mừng để khi Ngài đến lần thứ hai, chính con nhờ đó sẽ không vấp phạm vì Ngài. Xin giúp con sáng suốt nhận ra kinh nghiệm và bài học ấy. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam