Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 42
Tổng truy cập: 1362316
CÁM DỖ NGUY CƠ VÀ CƠ MAY
CÁM DỖ NGUY CƠ VÀ CƠ MAY
(Suy niệm của Lm Pietro Nguyễn Hương)
Với Chúa nhật I mùa Chay năm A, phụng vụ Lời Chúa hướng sự chú ý của chúng ta tới một chủ đề chính đáng suy nghĩ đó là CÁM DỖ. Chủ đề này như là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các bài đọc. Nếu ma quỉ xuất hiện như làm một kẻ thù rất nguy hiểm của con người, thì Đức Giêsu là người chiến thắng tất cả các cám dỗ và cạm bẫy của Ma quỉ, trở thành khuôn mẫu và là Đấng cứu độ duy nhất và phổ quát của nhân loại.
Bài Đọc I từ Sách Sáng Thế (St 2,7-9. 3,1-7), kể cho chúng ta nghe lại câu chuyện sa ngã của tổ tiên chúng ta do những lời mời mọc ngọt ngào của con rắn. Adam va Eva bị cám dỗ ăn trái cấm của “cây biết lành biết dữ” (St 3,2). Họ đã sa ngã, xa rời Thiên Chúa, đánh mất sự sống và sự hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa, Đấng là nguồn mạch của mọi sự thiện hảo. Câu chuyện này cũng nhắc nhở chúng ta về một sự kiện lịch sử là nhân loại ngay từ đầu đã phạm tội và không có khả năng giải phóng mình khỏi tội lỗi và sự giữ. Nhân loại cần đến ơn cứu độ, sự hoàn nguyên đến từ Thiên Chúa.
Thánh Phaolô trong thư gửi các tín hữu Rôma (Rm 5,12-19), cho chúng ta lời giải đáp về mầu nhiệm cứu độ của nhân loại mà Đức Kitô đã mang lại qua mầu nhiệm thương khó, tử nạn và phục sinh của Đức Kitô: «Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính» (Rm 5,19).
Bài Tin mừng (Mt 4,1-11) giới thiệu với chúng ta kinh nghiệm của Đức Giêsu trong sa mạc, nơi Người bị cám dỗ và chống lại Satan như thế nào.
Chúng ta hãy nhìn vào ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu: cơn cám dỗ thứ nhất, trong lúc đói lã, Ma quỉ đề nghị Người biến những viên đá thành bánh để ăn. Đấy là cám dỗ đặc trưng về vật chất. Nhưng Đức Giêsu trả lời: «Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra» (Mt 4,4). Đức Giêsu đã từ chối cám dỗ này và sống phó thác vào Chúa Cha, vì đối với Người có một thức ăn quan trọng hơn “bánh mì” đó là Lời Chúa và thi hành theo Ý Cha.
Trong cơn cám dỗ thứ hai: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống đi!» (Mt 4,6). Đây là cám dỗ về lòng kiêu ngạo. Ma quỉ gợi lên sự ngờ vực, thách thức về Tình Yêu của Chúa Cha đối với Người, và để nghị Người sử dụng quền của mình để làm những cảnh ngoạn mục, tìm kiếm sự vỗ tay của đám đông. Trong câu trả lời: «Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi», Chúa Giêsu cho thấy Người là Con đích thực của Thiên Chúa, đã chọn một cách sống trong khiêm tốn, trong ẩn dật, và không cần phải bắt Thiên Chúa làm theo ý mình để biểu lộ tình yêu đối với mình. Cách đơn giản Người sống tin tưởng vào Cha.
Cuối cùng, Cám dỗ thứ ba liên quan đến sự khát khao quyền lực: "Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi. (Mt 4,9). Một cách công khai Ma quỉ để lộ mục đích của nó: hãy thờ lạy tôi chứ không phải Thiên Chúa, bạn sẽ có tất cả. Chúa Giêsu trả lời bằng một lối sống thực sự chỉ có tôn thờ và phục vụ một mình Thiên Chúa mà thôi.
Quả thật, cả ba cám dỗ của Đức Giêsu là “ba con đường dễ dãi để không trải qua Thập Giá” (Fulton Sheen), nhưng Đức Giêsu đã chấp nhận con đường Thập Giá, với một tình yêu và lòng phó thác hoàn toàn vào Cha. Như thế, Người đã chiến thắng và như thế qua Thập Giá, Người cứu độ chúng ta.
Cũng như Đức Giêsu, ngày hôm nay chúng ta sống trong thế giới này, một thế giới đầy cám dỗ, và cám dỗ hôm nay được mặc nhiều dáng vẽ hấp dẫn và đẹp đẽ. Đằng sau những cám dỗ là Ma quỉ, kẻ thù luôn dấu mặt. Kẻ được định nghĩa bởi Gioan như là cha đẻ của sự dối trá (Gv 8,44), một kẻ thù rất nguy hiểm không bao giờ ngủ, luôn sẵn sàng để thử thách chúng ta. Và như nhà thơ Baudelaire nói: “Sự quỉ quyệt nhất của ma quỉ là làm cho con người không tin rằng nó hiện hữu”.
Chúng ta đừng có sợ hãi vì Đức Kitô đã chiến thắng Satan để giải thoát ta khỏi Satan. Chúng ta hãy học hỏi từ Đức Giêsu, để chiến đấu với Ma quỉ bằng sức mạnh của Lời Chúa, và khí cụ của việc ăn chay, cầu nguyện và việc bác ái. Hãy học nơi Người để tĩnh thức luôn, để nói KHÔNG với từng cơn cám dỗ và nói VÂNG với Thiên Chúa. Đặc biệt là như Đức Giêsu, hãy để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn cuộc đời chúng ta, hãy trở nên nhảy cảm và dễ bảo với Người. Tôi xác tín rằng, nếu chúng ta bước đi trong sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ chiến thắng các cám dỗ, và qua những thử thách đó chúng ta sẽ trưởng thành trong Đức Tin và trong Tình Yêu với Thiên Chúa và với mọi người. Đó là tin vui và cùng với niềm vui đó chúng ta bắt đầu hành trình Mùa chay hướng về niềm vui phục sinh của Đức Kitô, Chúa Chúng ta. Amen!
46.Cám dỗ – Lm Trần Xuân Lãm
Thánh sử Matthêô, một người Do- thái, nhắm trước hết vào các độc giả Do-thái, ông muốn nhắc nhở: dân Do Thái đã sa chước cám dỗ khi họ sống trong hoang địa 40 năm trường, còn Chúa Giêsu đã chiến thắng các cám dỗ của ma quỷ, sau khi ăn chay 40 ngày nơi rừng vắng.
Có tất cả 3 cám dỗ nặng nề:
1- Cám dỗ cơm bánh hay vật chất: Trong hoang địa, dân Do thái kêu ca vì thiếu tiện nghi và lương thực. Chúa cho manna để nuôi họ. Nhưng họ nhàm chán thứ bánh họ ăn hằng ngày. Lương thực nói đây tượng trưng nhu cầu vật chất chúng ta muốn hưởng thụ. Trong cơn cám dỗ vật chất, Chúa Giêsu đã trưng lời sách Đệ nhị luật: “Người ta sống không chỉ bởi bánh, nhưng bởi lời từ miệng Thiên Chúa”. Mặc dù Chúa Giêsu cảm thấy đói, nhưng sự đói khát nghe lời Thiên Chúa còn quan trọng hơn là nhu cầu về cơm bánh. Ngài hơn hẳn dân Do thái xưa, Ngài tìm ý Thiên Chúa hơn là tìm sự thỏa mãn cho riêng Ngài.
2- Cám dỗ về sự thử thánh quyền năng Thiên Chúa: Dân Do thái luôn yêu cầu Chúa ban những dấu lạ điềm thiêng, nhưng Chúa từ chối vì họ không thực tâm tin vào Ngài, mà đơn thuần chỉ để thách thức Chúa. Hôm nay, khi ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu gieo mình xuống khỏi đền thờ, Ngài đã trả lời bằng cách trưng dẫn sách đệ nhị luật: “Ngươi đừng thử thách Thiên Chúa”. Những gì dân Do Thái khiêu khích Thiên Chúa nơi hoang địa, nơi đây ta thấy Chúa Giêsu đã chẳng hề làm.
3- Cám dỗ hạ mình thờ lạy ma quỷ: Xưa dân Do thái đã tạc tượng bò vàng và thờ lạy nó. Ngày nay, ngẫu tượng hay bò vàng chính là tiền tài, danh vọng, thú vui, vật chất, tiện nghi, sắc dục đem chúng ta xa lìa Chúa và dẫn ta đến chỗ thỏa hiệp, phạm tội. Chúa Giêsu chẳng màng bất cứ điều gì ma quỷ trưng dẫn, kể cả vương quốc nó muốn dâng tặng Ngài. Ngài đã chẳng cúi đầu thờ lạy nó, trái lại Ngài dõng dạc tuyên bố: “Ngươi chỉ thờ lạy một mình Thiên Chúa” (Đnl 6:13).
Thánh Mat-thê-ô chỉ ra rằng, trong khi dân Do thái đã ngã thua cám dỗ trong sa mạc, thì trái lại, Chúa Giêsu đã chẳng hề sa ngã. Bởi đó, Chúa Giêsu, là dân Is-diên mới, là con thật của Thiên Chúa, là thừa kế chính truyền của vương quốc Thiên Chúa. Những ai theo gương Ngài, sẽ vượt qua cám dỗ trong cuộc đời, và trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa.
47.Cám dỗ
Bấy giờ ma quỷ đem Chúa Giêsu lên nóc đền thờ Giêrusalem, cao cách mặt đất chừng bốn mươi mét, rồi bảo Chúa nhảy xuống, biểu diễn tài nghệ để người ta khâm phục, ca tụng. Như vậy là ma quỷ muốn cám dỗ Chúa về tính tự phụ tự cao, thích hư danh và thích phô trương ưu thế của mình. Đây cũng là một điểm yếu của con người. Lịch sử cổ kim đã ghi lại đầy dẫy những con người mang bệnh “muốn làm lớn”, muốn trở thành “mặt trời” để kẻ khác xoay quanh mình. Chẳng hạn, vua Babilon đã từng tuyên bố: “Ta sẽ lên trời, trên các vì sao của Thiên Chúa, ta sẽ bắc ngai ta, ta sẽ ngự trên núi Tao phùng, nơi bồng lai cực bắc, ta sẽ lên chót vót các tầng mây, ta sẽ đồng hàng với thượng đế”. Cũng vậy, ông Xêda, khi chưa lên ngôi hoàng đế Lamã, đã nói một câu phần nào trở thành kinh điển cho hậu thế: “Thà làm số một trong một làng nhỏ bé hẻo lánh bên xứ Gôn (Gaule), còn hơn làm số mười một ở kinh đô Lamã”. Và ngày nay, hằng năm, trên thế giới có xuất bản cuốn Ghi-nét (Guiness), sách ghi các kỷ lục thế giới: người nào chạy nhanh nhất, sống lâu nhất, ăn nhiều nhất, cao lớn nhất, có râu xịn nhất… nghĩa là chỉ những ai số một ở một lãnh vực nào đó mới được ghi tên vào cuốn sách ấy để hậu sinh biết. Từ ngày có cuốn Ghi-nét này, nhiều người đã cố gắng lập kỷ lục kỳ cục cốt chỉ để nổi danh, để thế giới biết tiếng. Đó, chúng ta thấy, bản tính con người muốn thần thánh hóa mình mà lại được ma quỷ thổi phồng lên nữa, thì còn gì bằng. Vậy Chúa có mắc bẫy của ma quỷ không? Không, ma quỷ muốn Chúa nổi danh sớm hơn chương trình đã định, và muốn Chúa nổi nang như một tài tử, một nhà làm xiếc có tài để dân Do thái tôn lên bậc thầy, và như vậy là làm trật được mục đích cứu rỗi nhân loại. Ý đồ thâm hiểm là như thế. Nhưng một lần nữa, Chúa dùng lời Kinh thánh để phản công lại ma quỷ: “Ngươi chớ thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Ma quỷ lại thất bại.
48.Đương đầu với cám dỗ
(Ttích trong ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
Người ta kể câu chuyện: trong ngày họp tổng kết cuối năm, báo cáo của các quỷ đều sút giảm việc lôi kéo con người, do đó Luxife đã yêu cầu các thành viên hiến kế làm thế nào để có thể cám dỗ hiệu quả nhất, và lôi kéo được nhiều người nhất. Một tên nói: Tôi sẽ hiện nguyên hình hoặc tạo ra những chuyện lạ lùng để làm lung lạc đức tin của người tín hữu. Tên thứ hai nói: Tôi sẽ lấy những hình ảnh các cô gái đẹp, các chàng trai hấp dẫn, tạo nên những chỗ vui chơi khiến cho các tín hữu mất cảnh giác. Cả hai ý kiến đều rất hay và được tất cả hội nghị vỗ tay. Tên thứ ba góp ý: Tôi sẽ nói cho mọi người tin là không có ma quỷ, cũng chẳng có cám dỗ, cuộc sống con người làm ra tiền thì phải hưởng thụ. Ý kiến này thật xuất sắc và nguy hiểm và được cả hôi nghị vỗ tay tán thưởng và chọn để hành động.
Thưa qúy OBACE, câu chuyện ấy cho thấy một sự thật, đó là ma quỷ có rất nhiều mưu mô, các cám dỗ thì muôn hình muôn vẻ, và cám dỗ nào cũng nguy hiểm nếu chúng ta không sẵn sàng để đương đầu với nó, nó sẽ hạ gục chúng ta.
Ngày xưa khi Thiên Chúa dựng nên con người, và cho con người được hưởng hạnh phúc trong vườn Địa Đàng, thì dường như Satan đã tức tối với Thiên Chúa, ghen tị với con người nên nó tìm mọi cách để tách con người ra khỏi Thiên Chúa. Câu chuyện trong sách Sáng Thế hôm nay đã dùng những hình ảnh hết sức đơn sơ để nói lên sự thất bại của nguyên tổ loài người trước sự tấn công của ma quỷ. Mượn hình ảnh con rắn là loài xảo quyệt, ma quỷ đã dụ dỗ Evà, và bà đã để mình mất cảnh giác trước những lời đưa đẩy ngọt ngào của nó.
Trước hết nó gieo vào trong bà Evà sự nghi ngờ Thiên Chúa: Có phải Thiên Chúa cấm các ngươi không được ăn mọi trái cây trong vười không? Qua một câu nói vu vơ như thế nó khiến cho bà Evà nghĩ rằng chắc Thiên Chúa không yêu con người, Ngài còn muốn giữ riêng cho Ngài điều gì đó, Ngài không muốn ban tất cả cho con người. Kế đến Satan nói với bà: Không chết chóc gì đâu, ăn trái cây vào, mắt ông bà sẽ mở ra và ông bà sẽ trở nên như thần linh. Với lời cám dỗ tiếp theo này, nó càng làm gia tăng sự nghi ngờ của bà Evà, và nó còn đưa ra một cái cám dỗ sâu xa hơn, đó là đụng chạm đến cái khát khao trở nên như thần linh trong mỗi con người, muốn biết trước được tương lai, muốn biết điều lành điều dữ, sẽ trở nên quyền phép ngang hàng như Thiên Chúa, muốn tự định đoạt cho tương lai của mình mà không cần đến Thiên Chúa, không phải lệ thuộc Thiên Chúa nữa. Bà Evà và đã xiêu lòng trước cám dỗ ngọt ngào này, bà nhìn trái cây thì đẹp mắt, ăn thì ngon, và đáng quý vì làm cho mình nên tinh khôn. Bà đã hái trái mà ăn, rồi còn đưa cho chồng nữa. Cái tội ông bà nguyên tổ gây ra nó không phải bởi hái một trái táo, mà nó là cái tội nghi ngờ tình yêu của Thiên Chúa, và muốn đặt mình ngang hàng với Thiên Chúa. Lúc bà tưởng mình nên như thần linh thì cũng là lúc bà thấy mình thất bại, mắt bà mở ra nhưng không biết được điều lành điều dữ trong tương lai, mà Thánh Kinh ghi lại, ông bà nguyên tổ chỉ nhìn thấy sự trần trụi, xấu hổ của mình mà thôi.
Nếu như nguyên tổ loài người đã thất bại trước cám dỗ của Satan, thì tin Mừng cho thấy Đức Giêsu là Adam mới đã không cậy dựa vào sức mình, nhưng Ngài đã dùng Thánh Thần và Lời Chúa làm vũ khí chống lại ma quỷ, và Ngài đã chiến thắng.
Trước khi bắt đầu sứ vụ công khai, sau khi chịu phép rửa, Thánh Thần đã dẫn đưa Ngài vào sa mạc, nơi đó, Ngài sống chay tịnh và chịu ma quỷ cám dỗ. Cám dỗ đầu tiên chính là cám dỗ về vật chất, cám dỗ về bản năng. Ma quỷ nhắm đến việc thỏa mãn cho cơn đói, nên nó nói với Chúa: Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy truyền cho những hòn đá này nên bánh đi. Nó muốn Chúa Giêsu nhân danh Thiên Chúa để thỏa mãn cho nhu cầu cái bụng của mình, và dùng quyền năng để tìm kiếm, thỏa mãn nhu cầu vật chất, để từ đó dùng vật chất để phục vụ cho nhiệm vụ Mesia của mình. Như thế có nghĩa là sẽ sự thành công sau này sẽ không phải bởi Thiên Chúa, mà do vật chất đem lại. Thấy được mưu mô của nó, Chúa Giêsu đã trả lời: Người ta sống không nguyên bởi bánh, như còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Cám dỗ tiếp theo: Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy gieo mình xuống đi, vì Thiên Chúa sẽ cho Thiên thần đưa tay nâng đỡ ông mà! Cám dỗ này như con dao hai lưỡi, nếu từ chối, thì có nghĩa là không tin Thiên Chúa sẽ đưa tay ra nâng đỡ, và nếu nghe theo, thì sẽ rơi vào tình trạng muốn thử thách tình yêu của Thiên Chúa. Qua cám dỗ này, ma quỷ nó cám dỗ Chúa dùng quyền năng của Thiên Chúa để phục vụ cho chính mình, để tạo ra những điều hấp dẫn ngoan mục thu hút dân chúng, làm những việc nổi tiếng để thuyết phục người nghe. Nhưng Đức Giêsu đã trả lời cho ma quỷ: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa của ngươi.
Cám dỗ thứ ba trầm trọng hơn, khi nó tự nhận tất cả mọi vinh quang thế gian là của nó, và nó nói: Nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, tôi sẽ cho ông tất cả. Với cám dổ này, ma quỷ muốn đặt Đức Giêsu về phía đối nghịch với Thiên Chúa, dùng quyền bính Mesia để giành lấy vinh quang, danh vọng, quyền lực về cho mình. Sấp mình thờ lậy nó, thì có nghĩa là hoàn toàn lệ thuộc vào nó, chịu sự chi phối của nó, tức là hạ bệ Thiên Chúa và đặt ma quỷ vào vị trị của Thiên Chúa. Với cám dỗ này, Chúa Giêsu đã có một phản ứng mạnh mẽ và quyết liệt: Satan, hãy cút đi, vì có lời chép rằng: ngươi phải thờ lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của người và chỉ thờ phượng một mình Ngài mà thôi. Chúa giêsu đã cương quyết không dung túng cho ý nghĩ sai lạc này, Ngài đã xua đuổi Sa tan và đã khẳng định vị trí và vai trò độc nhất của Thiên Chúa trong cuộc đời mình.
Thưa quý OBACE, cám dỗ chưa phải là điều tội, nó chỉ trở thành tội khi chúng ta chấp nhận chiều theo nó. Tuy nhiên với sư mưu mô xảo quyệt của ma quỷ và sự tinh vi của các cơn cám dỗ, chúng ta sẽ khó có thể đương đầu với nó nếu chúng ta không cậy dựa vào sức mạnh của Lời Chúa. Đó cũng là điều Tin Mừng muốn minh chứng cho chúng ta, vì chính Chúa Giêsu khi đương đầu với cám dỗ, Ngài không cậy dựa vào sức riêng của bản thân, nhưng Ngài đã cậy dựa vào lời Kinh Thánh làm vũ khí để đánh bại mọi cám dỗ ma quỷ bày ra nhằm làm chệch hướng sứ vụ Mesia của Ngài.
Ngày xưa ma quỷ đã thất bại trong việc cám dỗ Chúa Giêsu, ngày nay ma quỷ nó cũng không buông tha những người tin theo Ngài. Ngày nay nó không cám dỗ chúng ta cách rõ ràng, nhưng nó rất kiên nhẫn để đi từng bước khiến chúng ta chệch đường, sai hướng và rơi vào bẫy của nó. Chắc chắn nó không dùng những hình ảnh hết ghê sơ để cám dỗ hay hù dọa chúng ta, nhưng nó dùng những thứ tưởng chừng như vô hại, những lời lẽ ngọt ngào, những thói quen không tốt tích tụ từ ngày này qua ngày khác khiến chúng ta mất cảnh giác.
Nó cũng đang nhắm vào các bậc cha mẹ với lý do cơm áo gạo tiền để từ chối đến với Chúa, để nhắm mắt làm ngơ trước những giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống xao nhãng xa lìa Thiên Chúa và để cho gia đình mình trở nên nguội lạnh vắng tiếng đọc kinh thiếu giờ cầu nguyện, từ đó trở nên mảnh đất tốt cho ma quỷ gieo vào đó sự bất hòa cãi vã sự gian dối lươn lẹo, sự bất đồng bất hòa trong gia đình. Nó cũng đang cám dỗ nhiều người chỉ lo làm giàu mà quyên mất sự hiện diện và quyền năng của Thiên Chúa, muốn tự mình quyết định cho tương lai của mình mà không cần đến Thiên Chúa, nó cám dỗ nhiều người muốn biến mình trở nên như thần linh, muốn biết trước về tương lai của mình, biến mình trở nên những vị thày khôn ngoan đạo đức để lôi kéo người khác và khiến các tín hữu chạy đến với các thày bói toán để hỏi ý kiến thay vì đến với Thiên Chúa.
Nhiều bạn trẻ và nhiều người khác đang bị ngã gục bởi cám dỗ về vật chất danh vọng và quyền lực, họ đã tìm kiếm vật chất, danh vọng và quyền lực bằng mọi giá, thích nổi danh nổi tiếng, kể cả việc dẫm đạp lên phẩm giá của mình và giẫm đạp lên anh em, sẵn sàng cúi xuống để thờ lậy ma quỷ và đồng minh của nó là thế gian và dục vọng xác thịt, và quay lưng lại với giới răn lề luật của Thiên Chúa. Những cám dỗ mời chào của ma quỷ, của những trào lưu trong xã hội ngày nay, nó như viên đạn bọc đường vô cùng nguy hiểm, nó sẽ hủy hoại và giết chết nhiều tâm hồn không biết cậy dực vào Chúa mà chỉ cây dựa vào chính mình.
Xin cho chúng ta biết học nơi Chúa Giêsu, dùng Lời Chúa làm sức mạnh chống lại với cám dỗ của ma quỷ, và xin cho chúng ta biết noi gương Đức Maria là Evà mới luôn sẵn sàng thưa tiếng xin vâng để phó thác cuộc đời cho tình yêu và sư bảo vệ của Chúa. Amen.
49.Liên hệ – Lm. Vũ Đình Tường
Chương đầu sách Sáng Thế Ký tường thuật sự việc Chúa tạo dựng con người phỏng theo hình ảnh Chúa. Trình thuật cho biết từ nguyên thuỷ Chúa lấy bùn đất tạo nên con người và thở hơi vào lỗ mũi ban Thần Khí Chúa cho con người. Nhờ Thần Khí đó mà con người có sự sống.
Nguyên việc sáng tạo cũng đủ cho biết con người có quan hệ rất mật thiết với vũ trụ do Chúa tạo dựng. Đây là lí do chính giải thích tại sao con người lại có khuynh hướng yêu mến, quyến luyến trần thế.
Nguyên do
Ngoài ra, thân xác con người bởi đất mà ra. Con người nhận biết mình là bụi tro và sau cuộc đời khổ ải này sẽ trở về bụi tro. Nói cách khác thân xác con người là một phần của vũ trụ do Chúa tạo thành. Yêu thích vật chất, của cải thế gian chính là yêu thích cái cội nguồn thân xác trần thế của chính mình.
Chúa phán cho nhân loại con người hãy làm chủ chim trời, cá biển và những sinh vật trên mặt đất. Con người thi hành giáo huấn tích cực đến độ cạnh tranh, tranh nhau làm chủ và ngay cả tàn sát nhau để được quyền làm chủ trên đất, biển và không gian. Thực ra con người được mời gọi làm quản gia, chứ không phải là chủ gia. Nhiệm vụ của quản gia là bảo quản, coi sóc, bảo vệ, canh tác và hưởng thành quả của lao tác. Đòi làm chủ vượt quá quyền hạn của quản gia. Mầm mống của phản loạn chống lại chủ nhân vũ trụ, chống lại Đấng sáng tạo ra vũ trụ. Mình Chúa làm chủ tất cả. Mọi người đều là quản gia, công nhân của vườn nho Chúa.
Con người nhận biết của cải, vật chất trần thế rất thực tiễn. Hữu dụng cho cuộc sống và thoả mãn những nhu cầu con người. Chính những gì trái đất cung cấp làm con cho người trở nên thèm khát và muốn chiếm đoạt, chiều theo lòng ham muốn của cải.
Đam mê
Khuynh hướng đam mê của cải, chức tước tác động mãnh liệt cho một số thành phần vì họ khát khao có chúng. Với họ bao nhiêu vật chất cũng chưa vừa, sống bao lâu cũng chưa đủ. Vì ham của cải, vật chất trần thế nên họ chối bỏ Đấng sáng tạo vũ trụ. Đơn giản nhất là chối bỏ Ngài hiện hữu, để thay Ngài làm chủ vũ trụ. Từ đó họ tự do xưng mình là chủ mọi loài, kể cả sự sống. Tự trao trong tay quyền ban phát sự sống cho người khác. Để ai sống người đó sống, bắt ai chết người đó chết. Quả là lộng quyền, lộng ngôn. Ngày nào đó họ cũng chết, không cứu được mình. Phúc Âm vạch rõ ma quỉ cầm đầu kẻ lộng quyền, lộng ngôn khi nó hứa cho Đức Kitô vinh quang phú quí trần thế. Nó không có gì để cho ngoại trừ gian dối, lừa gạt. Chính lừa gạt, gian dối này mà nó hứa cho cả những gì nó không có. Điều ngạc nhiên là có người tin lời hứa hão huyền. Sẵn sàng gây chiến với anh em. Dùng thủ đoạn đối xử với nhau. Thủ đoạn đi chung với chém giết, thủ tiêu, khai trừ. Chết chóc, khổ đau, goá bụa, con côi, phát sinh từ lòng tham, từ đam mê làm chủ sinh ra.
Vũ trụ do Chúa tạo dựng là nơi con người sống và là nơi cung cấp nguồn thực phẩm cho thân xác. Vì thế con người cố gắng làm chủ càng nhiều của cải càng tự tin. Họ tin vật chất bảo vệ sự sống vì nó nuôi và làm đẹp thân xác. Chúa trao quyền cho con người làm chủ chim trời cá biển và mọi sinh vật trong mặt đất. Lời chúc phúc này chung cho mọi người, không riêng cho một cá nhân, tập thể nào. Mọi cố gắng tranh giành cho riêng mình, tập thể mình đều sai. Tranh chấp, bất hoà và tàn sát lẫn nhau vì của cải, vật chất; danh vọng, chức tước vì thiếu ơn Chúa và sa vào cạm bẫy, chước cám dỗ của satan.
Cám dỗ
Ma quỉ biết rõ lịch sử hình thành nhân loại ra sao. Bởi đất mà ra nên chúng dùng miếng ăn, hoa mầu ruộng đất và vinh quang phú quí trần thế cám dỗ con người. Cả ba chước cám dỗ đều có chung mục đích là lo cho thân xác: thực phẩm nuôi thân, mong nổi tiếng và lắm vàng, nhiều bạc. Vừa có tiếng vừa có miếng quả là một thách đố lớn. Tiếng và miếng đều đến từ môi miệng. Ma quỉ dậy con người quên đi con tim và nhắm vào hầu bao và bao tử. Chúng cố tình làm ngơ sự sống Chúa ban cho con người vì mục đích chúng là bóp nghẹt sự sống trường sinh.
Đức Kitô
Đức Kitô nhắc cho ma quỉ biết ngoài phần thân xác ra Chúa còn in dấu ấn tình yêu Ngài vào trong con tim ta. Nhờ dấu ấn tình yêu này mà con người có sự sống. Khi tạo dựng con người bằng bùn đất. Bùn đất đó chưa có sự sống. Sự sống chỉ xuất hiện khi Chúa thở hơi vào hình bụi đất đó. Từ đó bụi đất có sự sống do Chúa ban. Vì thế đừng quá lo lắng cho thân xác bụi đất mà hãy chú trọng vào sự sống trường sinh, cõi lòng con người. Đức Kitô nhắc con người ta sống không chỉ bởi cơm bánh mà còn do lời Chúa nữa. Cơm bánh cần cho thân xác; Lời Chúa cần cho tâm linh. Cơm bánh nuôi thân xác; Lời Chúa nuôi tâm linh.
Ngôn ngữ của môi miệng không mang lại sự sống; ngôn ngữ của con tim nối kết tình Chúa, tình người. Thiếu ngôn ngữ của con tim mọi sự sẽ trở về hư vô. Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, khi qua đời thân xác cũng sẽ trở về nguồn gốc của chúng là bụi tro. Sự sống trường sinh đến từ Chúa sẽ trở về với Chúa. Vì phát xuất từ Chúa nên tâm linh ví như cành cần thường xuyên liên kết với thân là Chúa để nhận sự sống, được thánh hoá hầu sống mạnh khoẻ, tinh tuyền.
Đức Kitô xua đuổi ma quỉ và nhắc cho chúng biết Thiên Chúa có quyền bắt chúng phải tùng phục Ngài. Ngài nhắc con người cần để ý, lưu tâm đến phần tâm linh nhiều hơn vì đó là sự sống trường sinh. Thần khí đó không bao giờ chết. Một là sống thảnh thơi trong tình yêu Chúa. Hai là lạc xa tình yêu Chúa. Bị lạc nó sống trong đau khổ, khắc khoải, nửa sống nửa chết, vì nó luôn muốn tìm về cội nguồn mà không được.
50.Cám dỗ
Thua keo này bày keo khác. Ma quỷ lại đưa Chúa Giêsu lên cao hơn nữa. Chúng đưa lên một ngọn núi. Từ ngọn núi này, chúng chỉ cho Chúa thấy tất cả quyền bính, vinh hoa, giàu sang phú quý, danh vọng và nói: “Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ ấy, nếu ông sấp mình bái lạy tôi”. Chúng ta thấy, ma quỷ thật tinh khôn, chúng thừa biết rằng: là con người, ai cũng ham danh vọng, chức quyền, tiền của. Quyền hành là điều kiện để có danh vọng và cung cấp hay đem lại hầu hết các nhu cầu vật chất. Ngược lại, tiền của cũng là điều kiện để có được quyền hành và danh vọng: đồng tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, và là cái lọng để che thân. Sống ở đời, hầu hết con người đều mang túi tham không đáy: người có tiền bạc, nhưng không có quyền hành, danh vọng, thì ra sức chiếm đoạt, giành giựt cho được địa vị, để có quyền, có danh gì với núi sông. Ngược lại, người có quyền hành, có địa vị, nhưng chưa có nhiều tiền thì dùng đủ mọi mánh lới, thủ đoạn, để kiếm cho thật nhiều. Còn người không có tiền bạc, cũng không có quyền hành, địa vị, thấy người khác có, nóng mũi cũng phải tranh giành cho được. Mọi người đều đầy tham vọng, mọi người đều bị quay cuồng trong những cám dỗ của danh vọng: “Cái vòng danh lợi cong cong. Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào”. Vậy Chúa Giêsu có mắc bẫy của ma quỷ không? Không, đứng những thứ phù vân đó, Chúa Giêsu đã chịu cám dỗ, nhưng Ngài đã chiến thắng cám dỗ. Ma quỷ thất bại hoàn toàn và bị Chúa đuổi đi: “Xéo đi, hỡi Sa tan, ngươi phải bái lạy Chúa là Thiên Chúa của ngươi và phải thờ phượng một mình Người”.
Là con người nói chung và là con cái Chúa, chúng ta đã gặp những chước cám dỗ, đang gặp những chước cám dỗ, hay sẽ gặp những chước cám dỗ. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ: bị cám dỗ chưa phải là xấu. Nếu chúng ta thắng cuộc là chúng ta thành công và được Chúa khen thưởng. Chỉ khi thua cám dỗ mới là xấu. Nhưng để chiến thắng được chước cám dỗ, thắng được ma quỷ, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác trước dịp tội, đừng đùa với lửa, phải cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, phải kiên quyết giữ vững lập trường: “Dù ai nói ngả nói nghiêng. Thì ta vẫn vững như kiềng ba chân”, “Dù ai nói ngược nói xuôi, ta đây vẫn giữ đạo trời khăng khăng”,”Dù ai sang cả mặc ai, thân này nước chảy hoa trôi sá gì”.
51.Chúa Nhật I Mùa Chay
(Suy Niệm Chú Giải Lời Chúa của Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Hằng năm, vào Chúa Nhật I Mùa Chay, Tin Mừng tường thuật cho chúng ta chuyện tích “Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa”. Vì thế, Tin Mừng của Phụng Vụ Lời Chúa Năm A này mời gọi chúng ta lắng nghe và suy gẫm câu chuyện Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa theo Tin Mừng Mát-thêu.
St 2: 7-9; 3: 1-7
Bài Đọc I, trích từ sách Sáng Thế, mô tả sự thử thách của người nữ đầu tiên bằng ngôn ngữ hình tượng. Trước sự chọn lựa: hoặc nương tựa vào Đấng Tạo Hóa, hay tự mình quyết định theo sự tự do của riêng mình, người nữ này đã sa ngã kéo theo nhân loại.
Rm 5: 12-19
Trong Thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô gợi lên rằng nhân loại từ nguyên thủy mang dấu ấn của tội lỗi, nhưng nhờ Đức Giê-su, được thoát khỏi tội A-đam và được tái sinh trong muôn vàn ân sủng.
Mt 4: 1-11
Tin Mừng Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chịu thử thách trong hoang địa. Xa-tan đề nghị cho Ngài những con đường cứu thế khác với con đường thập giá mà Chúa Cha đã chọn.
BÀI ĐỌC I (St 2: 7-9; 3: 1-7)
Sách Sáng Thế bắt đầu với hai chuyện tích về Cuộc Sáng Tạo: chuyện tích thứ nhất (St 1: 1-2: 4a) được biên soạn bởi truyền thống Tư Tế (P) vào thế kỷ IV trước Công Nguyên và chuyện tích thứ hai cổ xưa hơn (St 2: 4b-25) được biên soạn bởi truyền thống Gia-vít vào thế kỷ X trước Công Nguyên.
– Chuyện tích thứ nhất thuật lại cuộc sáng tạo trong sáu ngày theo cái khung của một tuần lễ Do thái mà đỉnh cao là ngày thứ bảy, ngày sa-bát. Chuyện tích này hình thành nên một đơn vị nhờ kỷ thuật đóng khung, bắt đầu với “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo nên trời đất” (St 1: 1) và kết thúc với: “Đó là nguồn gốc trời đất khi được sáng tạo.” (St 2: 4a). Diễn ngữ: “trời đất” chỉ toàn thể vũ trụ.
Bằng văn phong trang trọng có nhịp điệu của một bài thánh thi phụng vụ, tác giả truyền thống Tư Tế cho chúng ta biết làm thế nào Thiên Chúa đã dựng nên muôn loài muôn vật một cách tốt đẹp, trong đó con người là loài thụ tạo tuyệt hảo nhất (St 1: 31), vì Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người sau cùng như tuyệt đỉnh công trình sáng tạo của Ngài. Thêm nữa, Ngài đã tạo dựng con người có nam có nữ “theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài”.
– Chuyện tích thứ hai bắt đầu với “Ngày Đức Chúa, là Thiên Chúa làm ra đất và trời” (2: 4b). Như vậy, với diễn ngữ “đất và trời”, chuyện tích thứ hai trình bày công trình sáng tạo của Thiên Chúa khởi sự nơi mặt đất, trong đó con người là trung tâm. Chuyện tích thứ hai này còn tiếp tục kể cho chúng ta về “Thử Thách và Sa Ngã” (St 3: 1-7). Tuy nhiên, tác giả không dừng lại ở nơi một tương lai vô vọng không lối thoát do sự sa ngã của con người đầu tiên, nhưng tiếp tục kể cho chúng ta về án phạt và lời hứa cứu độ (St 3: 8-24). Như vậy, qua chuyện kể liên tục của mình, tác giả muốn giới thiệu lịch sử cứu độ và đưa ra lý do đầu tiên: tội của con người và niềm hy vọng tương lai được thoáng thấy ở nơi lời hứa cứu độ: “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3: 15).
Trong chuyện kể của mình, tác giả Gia-vít sử dụng kiểu nói trực tiếp và cụ thể: ông trình bày Thiên Chúa như nhân, nghĩa là Thiên Chúa hành xử như một con người. Ngoài ra, ông cũng không ngần ngại sử dụng ngôn ngữ thần thoại mà ông đã khai thác rất nhiều ở nơi kho tàng thần thoại rất phổ biến vào thời ông, nhưng ông sử dụng những chất liệu này cách tự do khi đặt chúng vào trong bối cảnh mới và ban cho chúng một tầm mức thần học khác biệt tận căn. Nhờ vận dụng hình ảnh và biểu tượng của khoa thần thoại, tác giả chuyển tải những suy tư nghiêm trọng nhất về nhân loại, như lời nhận xét của Đức Gioan Phao-lô II: “Đối với chuyện tích thứ hai về Cuộc Sáng Tạo, cách thức diễn đạt phù hợp với cách suy nghĩ của thời đại… Người ta có thể nói… rằng cốt là ngôn ngữ thần thoại. Quả thật, trong trường hợp này, thuật ngữ thần thoại không chỉ ra một nội dung huyền thoại, nhưng một cách thức cổ xưa để diễn tả một nội dung sâu xa hơn… Nội dung này đáng khâm phục ở nơi những điều liên quan đến những phẩm chất và độ đậm đặc của các chân lý mà nó chứa đựng” (Jean Paul II, Audience generale du mercredi 7 novembre 1979).
Hai đoạn văn đề nghị cho chúng ta hôm nay đều được trích từ chuyện tích thứ hai về cuộc Sáng Tạo, trong đó đoạn văn thứ nhất (St 2: 7-9) liên quan đến cuộc sáng tạo con người và đoạn văn thứ hai (St 3: 1-7) liên quan đến cuộc thử thách và tội nguyên tổ.
CUỘC SÁNG TẠO CON NGƯỜI (St 2: 7-9)
1. Con người, được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật
Trong chuyện tích thứ nhất, công trình Sáng Tạo diễn ra trong sáu ngày, trong đó người nam và người nữ được sáng tạo đồng lúc và cuối cùng, như tuyệt đỉnh của công trình sáng tạo. Trái lại, trong chuyện tích thứ hai, con người được sáng tạo đầu tiên trước mọi sinh vật, và được sáng tạo một mình, không người nữ; người nữ sẽ xuất hiện sau này. Đây là cách thức mà tác giả Gia-vít sử dụng để nhấn mạnh quyền tối thượng của con người. Đấng Sáng Tạo sắp biểu lộ tất cả niềm ưu ái của mình đối với thụ tạo đầu tiên của Ngài.
Đức Chúa sáng tạo con người được mô tả như một thợ gốm thần linh “lấy từ bụi đất nặn nên con người”; sau này, Đức Chúa sáng tạo mọi sinh vật cũng được mô tả theo cùng một cách như vậy: Đức Chúa “lấy đất nặn ra chúng” (St 2: 19). Tuy nhiên, sắc thái biệt phân giữa con người và các sinh vật khác được trình bày rất tinh tế: con người và sinh vật có chung một xác thể, vì thế, sau này, khi con người phạm tội, Thiên Chúa nhắc nhở cho con người nguồn gốc mỏng dòn của nó: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3: 19); nhưng chỉ duy một mình con người mới được Thiên Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi”, chính sự khác biệt này nói lên chiều kích cao cả của con người trên mọi loại thụ tạo.
Việc Đấng Sáng Tạo được mô tả như một người thợ gốm nhào đất sét mà nặn nên con người thuộc về di sản chung của nhiều dân tộc xưa. Ở Ai-cập, chính thần Knoum sáng tạo nên con người bằng cách nặn nên họ hàng loạt trên bàn xoay của người thợ gốm. Ở Sumer, chính mẫu thần Nammu nặn nên con người đầu tiên; ở Ba-by-lon, thần Ea “với đôi tay của mình đã sáng tạo nên con người”; ở Hy-lạp, một bản văn thần thoại kể rằng thần Démiurge nhân ái đã nặn ra con người bằng đất sét thấm đẫm nước mắt của thần. Con người sinh ra từ đất, đó là niềm tin tưởng khá phổ biến vào thời đó. Nhưng, về cơ bản, chuyện tích Kinh Thánh khác biệt với các chuyện tích này, đó là, người thợ gốm thần linh là Đấng Sáng Tạo, từ đất Ngài nặn nên hình người và làm sinh động hình người ấy bằng sinh khí của chính Ngài.
2. Con người, một sinh linh
Đức Chúa thổi sinh khí vào hình tượng người bất động để làm cho con người sinh động. Sinh khí mà Đức Chúa ban cho con người phát xuất từ Thiên Chúa, vì thế, khi trút hơi thở cuối cùng, con người sẽ hoàn lại cho Ngài. Thánh Gioan diễn tả cái chết của Đức Giê-su trên thập giá cũng bằng dụng ngữ này: “Rồi người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19: 30).
Khi mặc khải ngôi vị của Thần Khí và ân ban của Ngài cho con người trong Đức Giê-su, Tân Ước đã cho khoa nhân loại của sách Sáng Thế chiều kích đích thật của nó. Đấng Sáng Tạo lập lại cử chỉ này trên mỗi người lãnh nhận bí tích Rửa Tội khi Ngài thổi hơi sự sống siêu nhiên vào họ, có nghĩa họ được tái sinh.
3. Đức Chúa thiết lập nơi cư ngụ cho con người
Giữa khung cảnh đất hoang vu trơ trọi, thiên Chúa đã làm nẩy sinh một vườn cây kỳ diệu. Khu vườn này được gọi là “Ê-đen”, nghĩa là khu vườn xinh đẹp, và “về phía Đông” nghĩa là ở phía mặt trời mọc, dấu chỉ ánh sáng và sự sống. Trong khu vườn kỳ diệu này, Đức Chúa cho mọc lên đủ loại cây đơm bông kết trái xanh tươi nhờ một dòng sông từ vườn chảy ra tưới khắp bốn phía. Rồi đặt con người vào đó.
4. Cây trường sinh và cây biết thiện ác
Trong các loại cây này, có hai loại cây không thuộc vào bất kỳ loại thảo mộc nào: “cây trường sinh” và “cây biết thiện ác”. “Cây trường sinh” là hình tượng cổ điển trong vùng Cận Đông xưa, đó là cây bất tử. Tính cách biểu tượng của nó được hổ trợ bởi bóng dáng tự nhiên (cây cao bóng cả bốn mùa xum xê cành lá) và bởi chiều kích phụng vụ: trong những thánh điện, các vị thần linh được cho là nhờ ăn trái của cây này mà bất tử. Điều này được phản ảnh ở nơi St 3: 22: sau khi con người đã ăn trái cây này, Đức Chúa là Thiên Chúa nói: “Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi” (St 3: 22).
“Cây biết điều thiện điều ác” là dụng ngữ sáng tạo của truyền thống Gia-vít. Có thể tác giả đã được gợi hứng, ít nhiều, từ một vị tiền nhiệm Ba-by-lon: ở lối vào nơi cư ngụ của các vị thần, có hai cây: cây trường sinh và cây chân lý. Chúng ta cũng gặp một cặp đối xứng nổi tiếng khác: thi hào Homère nói với chúng ta rằng trước đền thờ của các thần linh trên đỉnh núi Ô-lim-píc, có hai chậu được chôn sâu dưới đất; một chậu chứa đựng những điều thiện, chậu kia chứa đựng những điều ác.
Ở nơi diễn ngữ “biết điều thiện điều ác”, động từ “biết” chỉ sự hiểu biết do từ kinh nghiệm. Khác ngôn ngữ của những triết gia, ngôn ngữ Híp-ri thích liên kết những cặp mâu thuẫn để nói lên cái toàn thể, chẳng hạn như ngày và đêm, bóng tối và ánh sáng, nam và nữ…, vì thế đây cốt là một sự khôn ngoan siêu phàm, một phẩm chất đặc biệt mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể sở hữu tròn đầy.
Đoạn trích dẫn ngắn hôm nay không kể ra việc Thiên Chúa canh giữ cây biết điều thiện điều ác này; tuy nhiên, phần tiếp theo câu chuyện cho thấy điều đó. Thiên Chúa ấn định cho con người một giới hạn bất khả vượt qua, nhưng Ngài không rào cây này để dành riêng cho Ngài; Ngài phó thác cho lương tri của con người.
THỬ THÁCH (St 3: 1-7)
Phần thứ hai của Bài Đọc I là phần đầu chương 3 của sách Sáng Thế, giới thiệu chuyện tích về cuộc thử thách và tội nguyên tổ. Đây là một đề tài rất phổ biến hay ít ra rất gần với đề tài thuộc thể loại anh hùng ca: một vị anh hùng tìm cách lấy cắp một trong những đặc quyền của các vị thần, như ở Lưỡng Hà Địa, nhân vật Gilgamesh ra đi tìm kiếm cây trường sinh; ở Hy-lạp, Prométhée ăn cắp lửa thiêng, hoặc Héraclès đoạt lấy những trái táo trường sinh. Ngoài ra, cũng có biết bao đề tài tương tự ở Ấn Độ xưa, vân vân.
Tác giả kinh thánh biến đổi sâu xa hành động này khi định vị nó vào trong văn mạch thần học duy nhất và đặc thù. Ông biến đổi tham vọng của con người thành nguyên mẫu của tội cũng như tiền lịch sử của Sự Ác. Mặt khác, ông chủ ý mô tả biến cố nội tâm hơn là một biến cố bên ngoài. Bức tranh về cuộc Thử Thách là một tiểu phẩm kiệt tác về sự phân tích tâm lý.
1. Con rắn
Chuyện tích về sự thử thách bắt đầu với câu then chốt gây sửng sốt này: “Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi loài vật hoang dã, mà Thiên Chúa đã làm ra nó”. Như vậy trong tấm thảm kịch sắp diễn ra, người kể chuyện giới thiệu một nhân vật kỳ lạ, một con rắn biết nói, biểu tượng sự Ác, mà truyền thống đã nhận ra ở nơi con vật này là quỷ vương (Kn 2: 24). Ngay lập tức, vị ác thần này bị giảm thiểu đến mức tối đa: kẻ sắp tỏ mình ra là đối thủ của Thiên Chúa không gì khác hơn là một con vật “trong mọi loài vật nơi hoang dã”, một thụ tạo giữa mọi loài thụ tạo mà Thiên Chúa đã dựng nên, chứ không là một hữu thể tối cao, một ác thần như đối thủ của Thiên Chúa tốt lành. Việc giải thích Cựu Ước theo nhị nguyên: cuộc xung đột giữa Thiện và Ác, bị loại bỏ ngay từ những trang đầu tiên của bộ Kinh Thánh.
Tại sao chọn lựa con rắn? Trước hết, trong hầu hết những chuyện tích thần thoại, cây trường sinh mà các thần linh giữ lấy cho riêng mình để hưởng dùng, chung chung được mãng xà, con rồng hay ác thú, đôi khi quái vật, canh giữ. Truyền thống Gia-vít đã hướng sự chú ý đến cây biết điều thiện điều ác, chính điều ác mà ông liên kết với con rắn. Nhưng thay vì để cho con rắn làm kẻ canh giữ không cho con người tiến gần cây biết thiện điều ác, thì lại mở lối cho người phụ nữ đến gần và kích động lòng ham muốn ăn trái cây của bà. Con rắn hành xử như một kẻ gian ác. Chính ở nơi nét bút đặc thù này mà chúng ta đánh giá sự tự do của tác giả Kinh Thánh khi sử dụng hình tượng ngoại giáo.
Vả lại, nhiều dân tộc thời xưa đã nêu bật một cách nào đó hình tượng của con rắn. Họ liệt con rắn vào số những biểu tượng của sự sống và sự tái sinh: việc rắn thay da theo định kỳ xem ra nó sở hữu những bí quyết đem lại nguồn thanh xuân vĩnh hằng. Vì thế, bộ ba: người phụ nữ – cây – con rắn thuộc vào hình tượng của những việc thờ cúng cầu xin sự phong nhiêu và phồn sinh. Khoa ảnh tượng tôn giáo của thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên cung cấp nhiều ví dụ về đề tài này. Chúng ta không loại trừ rằng khoa ảnh tượng này đã là nguồn gợi hứng cho tác giả Kinh Thánh phác họa bức tranh này, nhưng ông đã tách nó ra khỏi ý nghĩa duy nhiên.
Mặt khác, rắn, con vật ở trong hang sâu dưới lòng đất, gợi lên mối giao du thân cận với địa giới, âm phủ, nơi ở của những vong hồn và những quỷ thần đáng sợ. Do đó, con rắn được xem như biết những bí ẩn của việc sinh tử mà địa giới nắm giữ. Cuộc đối thoại của con rắn với người phụ nữ diễn ra theo hướng này: con rắn tự phụ là mình biết những thiên cơ hậu vận như Thiên Chúa.
Cuối cùng, việc con rắn bị nguyền rủa không phải là không có hậu ý bút chiến. Vào thời truyền thống Gia-vít soạn thảo câu chuyện này, dân chúng vẫn còn tôn thờ trong đền thờ con rắn đồng được đồng hóa nó với con rắn đồng mà ông Mô-sê giương cao trong sa mạc. Phải đợi đến vua Khít-ki-gia, vào thế kỷ thứ tám, mới phá bỏ việc thờ cúng ngẫu tượng này: “Chính vua đã dẹp các tế đàn ở nơi cao, đập bể các trụ đá, bổ các bàn thờ và đập tan con rắn đồng ông Mô-sê đã làm, vì cho đến thời đó, con cái Ít-ra-en vẫn đốt hương kính nó; người ta gọi nó là Nơ-khút-tan.” (2V18: 4).
2. Người phụ nữ
Con rắn ngỏ lời với người phụ nữ: “Có thật Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được được ăn mọi thứ cây trong vườn không?”. Tên cám dỗ bắt chuyện với một mình người phụ nữ, vì bà đã không trực tiếp nghe những lời cảnh báo của Thiên Chúa. Ngoài ra, chắc chắn nó nghĩ rằng người phụ nữ này dễ bị xiêu lòng trước lời dụ dỗ ngon ngọt của nó hơn người nam. Mặt khác, đề tài về người phụ nữ đầu tiên phạm tội được gặp thấy ở nơi khác, chẳng hạn như ở Hy lạp trong câu chuyện thần thoại Pandore, người phụ nữ đầu tiên này mở cái chậu chứa đựng những điều xấu không phải lúc; vì thế, những điều xấu này tràn lan khắp mặt đất, chấm dứt hạnh phúc nguyên thủy của nhân loại.
3. Lời dụ dỗ dối trá
Để có thể gieo nghi ngờ vào lòng người phụ nữ, con rắn khôn khéo giả vờ ngây thơ hỏi người phụ nữ: “Có thật Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi không được ăn mọi cây trong vườn không?’” (3: 2). Theo cấu trúc câu của ngôn ngữ Híp-ri, đây không là một câu hỏi, nhưng là một câu nghi vấn mà người kể chuyện có dụng ý để nó trong thế lơ lững, nhằm để khích bác. Quả thật, người nữ phản ứng ngay tức khắc: “Trái cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái của cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa đã bảo: Các ngươi không được ăn, không được động tới, nếu không, sẽ phải chết” (3: 3). Câu trả lời của người nữ cho thấy, dù không được Thiên Chúa truyền đạt trực tiếp, người nữ hiểu rất rõ tính nghiêm trọng của lời cảnh báo này.
Lúc đó, tên cám dỗ tìm cách tẩy xoá ý tưởng về Thiên Chúa tốt lành và thiện hảo trong tâm trí của người phụ nữ; nó trình bày Ngài như kẻ ghen tuông và lừa dối, muốn giữ lấy những đặc quyền cho riêng mình: “Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng vì Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện điều ác” (3: 5). Với những lời dụ dỗ bùi tai này, người phụ nữ bắt đầu nghi ngờ Thiên Chúa; chính ở nơi ý tưởng sai lầm về Thiên Chúa mà tội lỗi sắp bén rễ.
4. Tấn thảm kịch của sự tự do
Lúc đó, người kể chuyện mô tả cuộc đấu tranh đang diễn ra trong lương tri của người nữ. Ông mô tả nó như cuộc chiến của một con người tự do, có trách nhiệm, hoàn toàn sáng suốt. Vì thế, không phải vì ăn trái cây biết điều thiện điều ác mà người nữ – và người nam- đã thủ đắc được sự biện phân điều thiện điều ác (như vậy sẽ là nghịch lý). Sự biện phân này (kể cả sự tự do) là một ân huệ của Đấng Sáng Tạo ban cho thụ tạo có lý trí của Ngài. Thiên Chúa đã quá mạo hiểm khi ban sự tự do cho con người. Một cuộc độc thoại diễn ra trong lòng của người nữ: “Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn”. Đây thực sự là một trình thuật tinh tế điển hình của sự thử thách, của cơn cám dỗ. Tội lỗi xem ra luôn luôn có sức quyến rũ đối với con người.
5. Tội lỗi
Vì thế, hành động của người nữ: “Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở với mình, ông cũng ăn”, diễn tả ý muốn toàn quyền quyết định, một sự tự mãn cao ngạo bất cần Thiên Chúa, nỗi khao khát tự mình quyết định điều thiện điều ác không cần thông qua lề luật của Thiên Chúa. “Việc cùng ăn một trái cây” liên hết hai người thành một cộng đồng cùng chung một trách nhiệm và một vận mệnh: “đồng hội đồng thuyền”, “đồng sinh đồng tử”. Đó chính là những đề tài rất nổi tiếng, và hơn cả đề tài, đó chính là những hành vi cúng tế và những nghi thức kết nghĩa huynh đệ trong xã hội.
Thế nên, trong thần thoại cũng như trong thực tế, những hành vi này – dù là những nghi thức kết giao đính ước nên vợ nên chồng, kết nghĩa huynh đệ đồng sinh đồng tử – đều có một điểm chung nhất đó là giới thiệu một tình huống bất khả đảo ngược. Vậy nên, trong những nghi thức kết giao, ai chấp nhận thức ăn mà người khác dâng hiến, dù khác nhau về bản tính hay môi trường, người đó dứt khoát trở nên “có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu” với người này. Theo đó, chúng ta có thể cho rằng chính con rắn (Xa-tan) dâng hiến trái cây, nó buộc chặt con người vào với nó vô phương cứu vãn, bởi vì con người, mà hai ông bà nguyên tổ đại diện, đã chấp nhận quà tặng của nó. Theo cách này, chắc hẳn tác giả của chuyện tích này đã muốn diễn tả con người đồng lõa với tội lỗi. Vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công Nguyên, những người đương thời của tác giả không phải là không biết tính chất nghiêm trọng của dấu chỉ này.
Mặt khác, thật là ý nghĩa biết bao khi truyền thống Gia-vít, vốn ý thức sâu sắc về hậu quả của tội (như phần tiếp theo của tác phẩm này cho thấy điều đó), đã chọn để mô tả tội đầu tiên, một hành vi cử chỉ bên ngoài xem ra vô hại như việc hái và ăn một trái cây, một trái duy nhất, từ cây mà người chủ vườn đã dành riêng cho mình; đáng lẽ ra tác giả đã có thể miêu tả một tội ác tày trời (ví dụ như tội Ca-in giết em mình là A-ben). Vì lẽ, ông đã không muốn chúng ta bị nhầm lẫn về bản chất của tội: tội trước hết là một sự xúc phạm trực tiếp đến Thiên Chúa, tác động đến mối tương giao theo chiều dọc giữa Thiên Chúa và con người.
6. Họ thấy mình trần truồng
Tất cả những gì con người đánh mất do tội, người kể chuyện diễn tả một cách gợi hình: “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng”. Sự trần truồng theo Cựu Ước có nghĩa sự yếu đuối, sự bơ vơ lạc lỏng, không nơi nương tựa, bảo vệ và che chở. Vì tội, hai ông bà đã đánh mất sự nương tựa, tức là Thiên Chúa, đã đánh mất những ân phúc tinh thần mà vườn địa đàng là biểu tượng; họ ý thức tình trạng tội lỗi của mình. Dấu chỉ đầu tiên của tội là xấu hổ vì thấy mình trần truồng, điều này đánh dấu sự đồi trụy trong mối quan hệ phái tính. Vết thương của tội chắc hẳn đã làm xáo trộn cách đặc biệt trật tự tính dục, và qua đó, tất cả mọi liên hệ của con người.
7. Tính lịch sử của tội
Chuyện tích của sách Sáng Thế không có tính lịch sử. Tuy nhiên, sứ điệp mà nó trao gửi cho chúng ta mặc khải cho chúng ta rằng thân phận tội lỗi của con người là một sự kiện không “thuộc về bản tính”, nhưng “thuộc về lịch sử”. Thiên Chúa đã không tạo dựng con người gian ác; Ngài đã tạo dựng nên họ tốt lành và tự do (chuyện tích thứ nhất xác định:“theo hình ảnh và họa ảnh của Ngài”). Thiên Chúa vốn rất mực tốt lành đã không thể tạo ra Sự Ác. Chính sự tự do của con người đã là mầm móng của mọi điều ác.
Tuy nhiên, con người không hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc Sự Ác xâm nhập thế gian, còn có tên cám dỗ, đây là một tình tiết giảm tội. Đó không phải là lý do vì sao đã có sự chuộc tội cho con người, trong khi không có sự chuộc tội cho Sa-tan sao? Đức Kitô đã gợi lên tấm thảm kịch nguyên tổ này: “Xa-tan là tên sát nhân ngay từ khởi đầu; nó là tên nói láo và cha của sự dối trá”.
8. Kinh nghiệm lịch sử
Chúng ta có thể nghĩ rằng để xây dựng câu chuyện của mình, nhà biên soạn Kinh Thánh đã nhận nguồn cảm hứng từ chính lịch sử của dân tộc mình. Dân Chúa chọn đã được “lấy” từ hoang địa mà đưa vào Đất Hứa “chảy sữa và mật”, cũng như A-đam đã được “lấy” từ đất hoang dã mà đặt vào trong vườn Địa Đàng. Đối với Ít-ra-en, ngoài Đất Hứa ra còn có ân ban Lề Luật; cũng như đối với A-đam, ngoài vườn Địa Đàng ra còn có huấn lệnh của Thiên Chúa. Chúng ta gặp thấy ở nơi sách Đệ Nhị Luật cũng một cách nói: “Nếu anh em nghe huấn lệnh của Thiên Chúa, Chúa của anh em, anh em sẽ được sống… Nhưng nếu anh em thay lòng đổi dạ…thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong… Tôi đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa.” (Đnl 30: 15-20).
9. Những khía cạnh ngôn sứ
Những khía cạnh ngôn sứ của chuyện tích thì rất nhiều và sâu sắc. Trong một linh cảm đáng ngạc nhiên, tác giả linh hứng đã định vị tấm bi kịch nguyên thủy vào trong một cuộc chạm trán giữa người phụ nữ với Tên Cám Dỗ, ở giữa lòng thiên nhiên còn nguyên sơ. Tin Mừng trình bày một chạm trán trực diện giữa Đức Giê-su và Xa-tan ở giữa lòng hoang địa. Người nữ đã vấp ngã trong khi Đức Giê-su lại chiến thắng tên Xảo Trá. Rõ ràng, bài trình thuật Sáng Thế này là khúc dạo đầu của bài ca khải hoàn dứt khoát của Chúa Giê-su.
Khi cho nhân vật phụ nữ một vai trò ưu thế, phải chăng tác giả muốn vén mở cho chúng ta thoáng thấy một dung mạo nữ giới khác, Đức Ma-ri-a, một tạo vật duy nhất thuộc dòng giống loài người chúng ta, đã hưởng được tình trạng vô tội trước khi nguyên tổ phạm tội, tức là tình trạng “tiền a-đam” như cách nói của các nhà thần học? Đối lại với tiếng “vâng” của bà tổ E-và với Xa-tan, sẽ là lời đáp trả “xin vâng” của Đức Ma-ri-a với sứ thần. Bà E-và ở nơi nguyên khởi của tội, Đức Ma-ri-a ở nơi nguyên khởi của Ơn Cứu Độ. Con người muốn trở thành Thiên Chúa, trong khi Thiên Chúa sẽ trở thành một phàm nhân, như câu nói bất hủ của thánh Giáo Phụ I-rê-nê: “Thiên Chúa làm người để con người trở thành con cái của Thiên Chúa”.
Thêm nữa, làm thế nào sự linh cảm này không làm chúng ta xúc động sâu xa hơn, thấm thía hơn? Bản văn không gợi ra một cách nào đó: đáp lại “việc ăn sinh nên tội” của hai ông bà nguyên tổ là bàn tiệc Tân Ước, ở đó “việc ăn mang lại ơn cứu chuộc”; và đối lại những lời dụ dỗ dối trá của Tên Cám Dỗ: “Nếu ông bà ăn trái này, ông bà sẽ không phải chết” là những lời hứa ban sự sống của Ngôi Lời nhập thể: “Nếu các ngươi ăn bánh này, các ngươi sẽ không chết bao giờ” .
BÀI ĐỌC II (Rm 5: 12-19)
Bài Đọc II, trích từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Rô-ma, đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử tư tưởng Ki-tô giáo. Chính trên bản văn này mà Giáo Hội đặt nền tảng cho đạo lý của mình về tội nguyên tổ, bằng cách quy chiếu đến chuyện tích của sách Sáng Thế, như thánh Phao-lô đã làm.
Thánh Phao-lô đã đọc lại chuyện tích này dưới ánh sáng của mầu nhiệm Nhập Thể: chính khởi đi từ Đức Giê-su mà thánh nhân khai triển tư tưởng của mình, sự can thiệp cứu chuộc của Đức Ki-tô hình thành nên cơ sở của tất cả lập luận; sự liên đới của Đức Kitô với toàn thể nhân loại tội lỗi (liên đới hữu thể như lời phát biểu của thánh nhân: “Chúng ta là thân thể của Đức Kitô”), dọi chiếu ánh sáng trên bản văn của sách Sáng Thế. Từ đây, triều đại tội lỗi đối lập với triều đại ân sủng.
1. Lập luận của thánh Phao-lô
Sau khi đã chứng minh rằng tội lỗi thống trị trên toàn thể nhân loại, thế nên mọi người bất luận là dân Do thái hay dân ngoại đều cần đến ơn cứu chuộc, thánh nhân truy nguyên đến tận nguồn gốc của tội bằng cách nêu bật sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su).
Thánh nhân xây dựng lập luận của mình theo phép đối xứng nghịch đảo để nêu bật sự tương phản giữa A-đam thứ nhất và A-đam thứ hai (Đức Giê-su). Theo phép đối xứng nghịch đảo này, tiền đề được phát biểu một cách minh nhiên: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (5: 12), nhưng phản đề lại không hiển hiện, ít ra không được đặt ngay liền sau đó, bởi vì các câu 13-14 được chen vào. Tuy nhiên, phản đề này được hiểu một cách mặc nhiên theo trình tự hợp lý của phép đối xứng nghịch đảo: “Qua A-đam đầu tiên, tội lỗi và sự chết đã xâm nhập thế gian như thế nào; qua A-đam thứ hai (Đức Kitô) ơn công chính hóa và sự sống đời đời xâm nhập thế gian cũng như thế”.
Sự gián đoạn của phép đối xứng nghịch đảo này rất có ý nghĩa. Nó nói lên không có cùng chung mức độ giữa việc A-đam vi phạm và sự phục hồi được Đức Ki-tô thực hiện. Đức Ki-tô là nguồn mạch viên mãn của ân sủng trong khi A-đam chỉ là đường dẫn qua đó “tội lỗi đã xâm nhập thế gian” và “sự chết đã lan tràn tới mọi người”. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương phản không cùng một mức độ này ở nơi những đối xứng nghịch đảo của 5: 15-17 và 5: 18-19, và lần cuối cùng 5: 20 với những ngôn từ và những chi tiết khác nhau. Chúng ta có thể nói rằng thánh Phao-lô đã nhận được nguồn cảm hứng từ Kn 2: 23-24:
“Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người
cho họ được trường tồn bất diệt.
Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người.
Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị
mà cái chết đã xâm nhập thế gian”.
A-đam đã mở ra một lỗ hỏng qua đó Sự Ác đã ùa vào gây ra những tàn phá. Sự Ác được trình bày như một quyền năng, hầu như được nhân hóa, có trước A-đam.
2. Triều đại của tội lỗi
Tội lỗi cũng được nhân hóa, như một sức mạnh thù địch chống lại con người: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết” (5: 12a). Sự chết cốt yếu là sự chết tinh thần (cho dù thánh Phao-lô cũng thiết lập mối liên hệ giữa sự chết thể lý và tội lỗi mà sự chết là dấu chỉ).
Câu phát biểu nổi tiếng: “Như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (5: 12b) này đã gây nên những cuộc tranh luận và những giải thích khác nhau do cách hiểu “đại từ quan hệ” của Hy ngữ được đặt sau giới từ chỉ nguyên nhân: “bởi vì”. Chung quy có hai cách đọc và hiểu đại từ quan hệ này.
Cách đọc thứ nhất hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến A-đam: “Như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì ông, mọi người đều phạm tội”. Cách đọc này đặt mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa tội của A-đam với toàn thể nhân loại. Cách đọc thứ hai hiểu đại từ quan hệ này quy chiếu đến sự chết của câu đi trước theo chức năng văn phạm của câu: “Như thế sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì sự chết này, mọi người đã phạm tội”. Cách đọc này hiểu sự chết như chuẩn y tội phản nghịch của A-đam.
Xin nhắc lại rằng Công Đồng Tren-tô đã đặt nền móng cho đạo lý về tội nguyên tổ của mình trên toàn bộ bản văn, chứ không trên một câu. Dù thế nào, thánh Phao-lô đặt sự chết tinh thần của nhân loại dưới ba mối quan hệ: Sự Ác – A-đam – mọi người, những mối quan hệ nhân quả được thêm vào mà không loại trừ nhau. Thêm nữa, thánh nhân nhấn mạnh điều này trong toàn bộ chương – không một ai “do tự sức riêng của mình” có thể thoát khỏi dòng giống tội lỗi này: nhân tính đã bị thương tổn. Có mối liên hệ hữu thể giữa dòng giống loài người.
Thánh Phao-lô sẽ chứng minh theo cách khác sự thâm căn cố đế của tội. Trước khi có Lề Luật Mô-sê, tội đã có mặt trong thế gian rồi. Thánh nhân phân biệt ở đây sự vi phạm và tội lỗi. Khi có Lề Luật, việc không tuân thủ Lề Luật được xem là vi phạm; nhưng Lề Luật thực sự chỉ làm lộ ra chân tướng của tội lỗi, bộc lộ tội lỗi ra bên ngoài, vì thế Lề Luật không thể gây nên tội lỗi, bởi vì tội lỗi có trước Lề Luật.
3. Triều đại ân sủng
Rõ ràng A-đam là tiên trưng phản diện của Đức Giê-su. Chúng ta cảm thấy rằng thánh nhân đã bị đánh động cách mãnh liệt bởi viễn cảnh phi thường này: Đức Ki-tô tự đặt mình liên đới với nhân loại tội lỗi để phá vỡ mối dây ràng buộc nhân loại với sự ác và giúp con người có khả năng tìm gặp lại sự sống thần linh. Thánh Phao-lô phóng chiếu vào trong quá khứ một sự liên đới đầu tiên thuộc loại suy trên dung mạo của A-đam. Nhưng sự liên đới thứ hai thì cao vời vô tận so với sự liên đới đầu tiên. Nguồn ân sủng sung mãn trổi vượt biết mấy trên muôn vàn tội lỗi.
Chính lúc đó thánh nhân mới có thể lấy lại sự so sánh còn bỏ ngỏ: “Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.” (5: 15b). Đó là điểm nhắm mà thánh Phao-lô muốn đạt đến: triều đại tội lỗi đến hồi kết thúc, trong khi triều đại ân sủng được thiết lập muôn đời bền vững. Đức Ki-tô, vị lãnh tụ mới của con cái loài người, hướng dẫn nhân loại đạt đến ơn công chính hóa và sự sống.
TIN MỪNG (Mt 4: 1-4)
Chuyện tích “Chúa Giê-su rút vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ” được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại. Dù có nhiều chi tiết khác nhau, tuy nhiên cả ba đều đặt biến cố này ngay sau khi Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả. Cả ba Tin Mừng đều nhấn mạnh việc Chúa Giê-su rút lui vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ là dưới tác động của Chúa Thánh Thần.
1. Gốc tích câu chuyện
Không ai được chứng kiến tận mắt biến cố này, vì thế phải giả sử rằng nguồn cung cấp duy nhất của mọi dữ kiện này không ai khác hơn ngoài Đức Giê-su. Đây là cuộc chuyện trò riêng tư giữa Thầy và trò. Vì thế, chúng ta đến câu chuyện này với lòng cung kính tuyệt đối, vì qua đó Đức Giê-su đã thổ lộ những sâu kín trong lòng của Ngài. Ngài đã cho loài người biết kinh nghiệm của chính Ngài. Đây là câu chuyện thánh hơn hết vì qua đó Đức Giê-su muốn nói với mỗi người rằng Ngài có thể giúp đỡ chúng ta trong những chước cám dỗ. Từ những cuộc chiến đấu của chính Ngài, Ngài đã cho chúng ta thấy Ngài có thể giúp chúng ta trong cuộc chiến đấu của chính chúng ta.
2. Hoang địa
Hoang địa nơi Đức Giê-su rút lui là sa mạc Giu-đê, trải dài giữa Giê-ru-sa-lem và Biển Chết. Dãi đất hoang vu này toàn cát vàng, đá vôi bễ vụn và đá sỏi rải rác. Đó là nơi Đức Giê-su thấy mình trơ trọi hơn bất cứ nơi nào khác trong toàn xứ Pa-lét-tin. Những chước cám dỗ đã có thể mặc lấy hình thức của cuộc tranh luận nội tâm, diễn ra trong suốt cuộc rút lui vào hoang địa này như hai thánh Mác-cô (Mc 1: 13) và Lu-ca (Lc 4: 2) gợi ra, đoạn đạt đến cực điểm, vì sự yếu nhược thể lý của Đức Giê-su, do bởi ăn chay lâu dài như thánh Mát-thêu gợi ra (Mt 4: 3).
Đức Giê-su chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng, cầu nguyện và chay tịnh. Hơn nữa, khi người ta ăn chay, có nghĩa người ta khiêm tốn nhận ra mình là tội nhân. Việc Đức Giê-su chay tịnh được định vị vào trong tiến trình nối tiếp sau việc Ngài chịu phép rửa, như vậy Ngài cũng muốn được liên đới với toàn thể nhân loại tội lỗi.
Đồng thời, Đức Giê-su cũng bày tỏ ước nguyện của mình là thu tóm ở nơi bản thân mình vận mệnh của dân Ngài. Như dân Ngài, Ngài đã kinh qua cuộc lưu đày ở Ai-cập khi còn ấu thơ (Mt 2 : 13-16); giờ đây, Ngài trải qua kinh nghiệm ở hoang địa bốn mươi đêm ngày, con số này nhắc nhở bốn mươi năm dân Do thái đã trải qua trong hoang địa, cũng như bốn mươi đêm ngày ông Mô-sê chuẩn bị để đón nhận những lời Giao Ước trên núi Xi-nai.
Chính ông Mô-sê mà thánh Mát-thêu đặc biệt nghĩ đến, như được bày tỏ trong chuyện tích cám dỗ này. Như ông Mô-sê xuống núi Xi-nai để công bố Giao Ước, Giao Ước này thiết lập dân Ít-ra-en thành dân Chúa chọn; cũng vậy, Đức Giê-su sẽ rời bỏ hoang địa để thiết lập một Giao Ước Mới và khai sinh một dân Ít-ra-en mới. Đối chiếu với bốn mươi ngày trong hoang địa, chúng ta cũng sẽ gặp thấy cùng khoảng thời gian giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên của Đức Giê-su : “Trong bốn mươi ngày, Ngài đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa” (Cv 1: 3).
3. Ba chước cám dỗ
Một mặt, ba chước cám dỗ diễn tiến theo trình tự của ba chước cám dỗ chính yếu mà dân Do thái đã trải qua trong hoang địa: bánh man-na (Xh 16 : 4), điềm thiêng dấu lạ (Xh 17) và thờ ngẫu tượng (Xh 32); nhưng trong khi dân Ít-ra-en thất bại trước những chước cám dỗ này, thì Đức Giê-su lại chiến thắng vẻ vang. Mặt khác, ba chước cám dỗ này đều có một nét chung: cả ba đều được sắp xếp nhằm trình bày những quan niệm sai lầm về Đấng Mê-si-a mà Đức Giê-su sẽ gặp phải trong suốt sứ vụ công khai của Ngài. Trong hoang địa, Ngài có đủ sáng suốt và sức mạnh cần thiết để chế ngự chúng.
A- Đấng Mê-si-a trần thế
Sau khi đã ăn chay suốt bốn mươi đêm ngày, Đức Giê-su cảm thấy đói. Quỷ cám dỗ Ngài biến những hòn đá thành bánh: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hóa bánh đi!”. Quỷ muốn thử thách quyền năng của Đấng đã nhận tước hiệu “Con Thiên Chúa” vào lúc Ngài chịu phép rửa. Cũng một cách như vậy, những kẻ thù Ngài chế nhạo và thách đố Ngài ở dưới chân thập giá: “Hãy cứu lấy mình đi, nếu mày là Con Thiên Chúa” (Mt 27: 40). Hai chước cám dỗ này rất đối xứng với nhau: lạm dụng quyền Con Thiên Chúa để mưu cầu tư lợi cho riêng mình. Đức Giê-su đã đẩy lùi chước cám dỗ này: Ngài sẽ chỉ sử dụng quyền năng của mình để phục vụ tha nhân.
Xưa kia khi dân Do thái phải đói trong hoang địa và đã nhận được bánh man-na, ông Mô-sê cảnh giác họ đề phòng mọi tham lam của cải vật chất: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8: 3). Đức Giê-su đáp lại Xa-tan cũng bằng những lời này, qua đó Đức Giê-su không chỉ không để lộ chân tính của Ngài, nhưng tự đồng hoá mình với nhân loại. Một ngày kia, khi Đức Giê-su đói, các môn đệ mời Ngài dùng bữa, nhưng Ngài trả lời còn dứt khoát hơn: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết… Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy…” (Ga 4: 32-33).
B- Đấng Mê-si-a đầy quyền năng
Sau khi đặt Đức Giê-su trên nóc đền thờ Giê-ru-sa-lem, Xa-tan đề nghị với Đức Giê-su thực hiện một kỳ công ngoạn mục, nhờ đó Ngài có được một uy thế lớn lao đối với dân chúng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì gieo mình xuống coi”. Với sự khôn khéo xảo quyệt, Xa-tan trích dẫn Thánh Vịnh 91 theo đó người công chính hoàn hảo, được Thiên Chúa phù trì che chở và truyền cho thiên sứ tay đỡ tay nâng cho khỏi bị vấp chân vào đá (Tv 91: 11-12, 15).
Xưa kia, trong hoang địa, chính dân Do thái cũng đã thách thức Thiên Chúa như vậy: nếu Ngài không ban cho họ nước uống ngay tức khắc, thì họ sẽ nghi ngờ sự hiện diện của Ngài (Xh 17: 1-7), dù trước đó Ngài đã ban cho họ bánh kỳ diệu. Nhờ quyền năng của Thiên Chúa, ông Mô-sê đã ban cho họ nước phun ra từ tảng đá, tuy nhiên ông trách cứ nghiêm khắc dân cứng đầu cứng cổ này: “Anh em đừng thách thức Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em” (Đnl 6: 16).
Đức Giê-su đã trả lời cho sự thách đố của Xa-tan cũng bằng chính lời của ông Mô-sê: “Ngươi chớ thách thức Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”. Qua đó, Đức Giê-su bác bỏ lời đề nghị của Xa-tan: Ngài không đòi hỏi Thiên Chúa độ trì che chở Ngài đến độ đặt Ngài ra ngoài thân phận thường tình của con người. Sau này, Đức Giê-su cũng đã nhiều lần bị thách thức theo chiều hướng này: những người Biệt Phái đòi hỏi Ngài một dấu lạ ngoạn mục từ trời để chứng thực Ngài là Đấng Mê-si-a; nhưng Ngài sẽ không ban cho họ.
C- Đấng Mê-si-a thống trị thế giới
Chước cám dỗ thứ ba được định vị trong môi trường khải huyền: một ngọn núi tưởng tượng, Xa-tan chủ tể của mọi vương quốc. Chắc chắn, những hình ảnh được dùng nhằm nhấn mạnh cuộc chiến nội tâm mà Đức Giê-su phải đương đầu: chước cám dỗ về một Đấng Mê-si-a thống trị thế giới.
Đấng Mê-si-a mà dân Do thái chờ đợi mặc lấy nhiều dung mạo; nhưng phần đông hy vọng một Đấng Mê-si-a khải hoàn và chiến thắng, Đấng sẽ khôi phục lại vương quốc Đa-vít, qua đó, sẽ cho phép Thiên Chúa thống trị toàn thế giới. Một chương trình tuyệt vời, nhưng không một chút nào là chương trình của Đức Giê-su. Ngài đến với tư cách là “Người Tôi Trung” và “Con Người”, đó là hai tước hiệu Mê-si-a mà Ngài thường quy chiếu về mình. Khi đám đông phấn chấn muốn tôn Ngài lên làm vua, Ngài liền lánh mặt (Ga 6: 15). Ở Xê-da-rê Phi-líp-phê khi thánh Phê-rô ra mặt chống đối viễn cảnh về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ, Đức Giê-su mạnh mẽ đẩy lùi cơn cám dỗ này: “Xa-tan, hãy lui lại đằng sau Thầy!” (Mt 16: 23). Đó cũng là mệnh lệnh mà Ngài ra lệnh cho Tên Cám Dỗ trong hoang địa: “Xa-tan kia, xéo đi!”. Trong cuộc đời của Ngài, chưa bao giờ xảy ra một cuộc chiến đấu với chước cám dỗ nào dữ dội như cuộc chiến đấu tại vườn Ô-liu, khi quỷ tìm cách cám dỗ Ngài từ chối con đường thập giá.
Thánh Mát-thêu đồng hoá quyền thống trị thế giới với sự khuất phục dưới quyền Xa-tan. Sau này, Đức Giê-su vạch mặt chỉ tên Xa-tan là “thủ lãnh thế gian này” (x. Ga 12: 31; 14: 30; 16: 11; 1 Ga 3: 8). Thánh Phao-lô cũng đồng hoá những quyền thống trị thế giới với những thế lực Sự Ác: “Hãy mang toàn bộ binh giáp vũ khí của Thiên Chúa, để có thể đứng vững trước nhưng mưu chước của ma quỷ. Vì chúng ta chiến đấu không phải với phàm nhân, nhưng là với những quyền lực thần thiêng, với những bậc thống trị thế giới tối tăm này, với những thần linh quái ác chốn trời cao” (Ep 6: 11-12).
Xưa kia, ngay cả trước khi vào Đất Hứa, dân Do thái để cho mình bị cám dỗ thờ lạy ngẫu tượng (thờ bò vàng), ông Mô-sê đã mạnh mẽ xác quyết: “Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải kính sợ; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ” (Đnl 6: 13). Đức Giê-su cũng đáp trả bằng những lời xác quyết mạnh mẽ như thế: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”. Lúc đó, thánh Mát-thêu ghi lại một chi tiết có ý nghĩa: “Lập tức có thiên sứ đến gần hầu hạ Ngài”, nghĩa là, Đức Giê-su đích thật là Đấng Công Chính hoàn hảo mà Thánh vịnh 91 tiên báo.
Đức Giê-su đã không chọn những của cải trần thế, nhưng sự nghèo khó; Ngài đã không chọn quyền thế, nhưng sự khiêm hạ; Ngài đã không chọn thờ quyền thống trị thế giới, nhưng Ngài thích bị kết án một cách bất công là “vua dân Do thái” hơn.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam