Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 51
Tổng truy cập: 1362112
CÁM DỖ TRONG SA MẠC
CÁM DỖ TRONG SA MẠC
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Đối với người Do thái thế kỷ I, "sa mạc" và "cám dỗ" gợi lên điều gì?
2) Trình thuật này liên hệ với trình thuật Phép Rửa nhờ chữ nào? Chữ đó có nghĩa mạnh hay chỉ có nghĩa thuần túy thời gian?
3) Phải đọc lại Đệ Nhị Luật chương 8 và ý nghĩa cuộc thử thách trong sa mạc.
4) Phải hiểu như thế nào việc Chúa Giêsu vượt thắng cách vẻ vang cơn cám dỗ mà dân Do thái đã vấp ngã? Dựa trên hậu cảnh Cựu Ước, hãy rút ra ý nghĩa thần học ba cuộc cám dỗ Chúa Giêsu?
5) Cơn cám dỗ phải chăng chỉ nhắm đến sự nghiệp của Đấng Messia, bằng cách gợi lên một thiên sai chủ nghĩa giả tạo thần kỳ hoặc chính trị? Hay là nhắm đến chính con người Đấng Messia, bằng cách tách Người khỏi Thiên Chúa với một thứ chủ trương vô thần thực tiễn?
6) Làm sao Chúa Kitô có thể bị cám dỗ? Điều đó có nghĩa gì? Hãy so sánh với cơn hấp hối, với Pl 2, 6 tt và Dt 5,7tt.
7) Các thiên sai chủ nghĩa bị Chúa Giêsu chống báng phải chăng chỉ là những hiện tượng lỗi thời, hay ta vẫn còn thấy giữa thế kỷ XX này quanh ta? trong ta?
8) Thân phận người Kitô hữu phải chăng là một thân phận bị cám dỗ triền miên?
*******
1) Có lẽ Chúa Giêsu đã mặc khải cho các môn đồ Người biến cố mà ngay từ lúc bắt đầu cuộc sống công khai Người đã trải qua với một kinh nghiệm thấm thía. Giáo Hội sơ khai đã đón nhận mặc khải ấy về nguồn gốc đích thực của cám dỗ (Satan) như là lời sửa sai quan niệm Cựu ước, vốn cho rằng cám dỗ là do Thiên Chúa: Mt đã phóng đại dữ kiện giản lược mà ông đã thu nhận từ truyền khẩu. Trình thuật của ông có vẻ như là một cấu trúc văn chương, một sáng tác tưởng tượng nhằm khai thác các giá trị thần học tiềm tàng trong biến cố có thực. Đây là những dấu chỉ cho thấy trình thuật của ông thực là một sáng tác: cuộc đối thoại với Satan, việc đem Chúa Giêsu lên thượng đỉnh Đền thờ, ngọn núi cao từ đó có thể trông thấy "tất cả các nước thiên hạ", lối trích dẫn nhiều câu trong diễn từ thứ hai của Môisen nói với dân (Đnl 8,3; 6,16; 6,13). Sáng tác văn chương này đặt cơ sở trên ba cuộc cám dỗ của Israel trong sa mạc:
- Sau khi được ăn manna một thời gian, Israel đòi ăn thịt (Ds 11, 4-34)
- Môisen gõ phiến đá hai lần (Ds 20, 1 -13)
- Giai thoại con bò vàng (Xh 32, 1- 8)
Matthêu cho thấy Chúa Giêsu tổng lược cả ba kinh nghiệm của dân Isarel và đã chiến thắng vẻ vang trong khi Israel lại vấp ngã. Xin nói qua là sách Đệ Nhị Luật cũng là sách chỉ nam của cộng đoàn thiên sai là Giáo Hội: các chương đầu của Công Vụ Sứ Đồ ghi lại những bước đầu của Giáo Hội sơ khai, đã cảm hứng theo Đệ Nhị Luật.
2) Giữa phép rửa Chúa Giêsu và cơn cám dỗ, có một liên hệ rõ ràng: chính Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu lúc ở sông Giođanô đã đưa người vào sa mạc, không phải để tra cứu lề luật và tìm lại tinh thần Giao ước như nhóm Essêni, cũng chẳng phải để tổ chức kháng chiến như phái Nhiệt thành, song để chịu ma quỷ cám dỗ (4,1). Học thuyết thiên sai của Chúa Giêsu phải được thử thách. Và cuộc thử thách này là một giai đoạn cần thiết trong ơn gọi làm Israel mới của người. Vì là Đấng đáp ứng nỗi chờ mong của dân, Người phải sống tất cả chiều kích của lịch sử họ: tạm trú tại Ai cập (2,13-15), vượt sông Giođanô (2, 13-17 -so sánh với Gs 3), cám dỗ ở sa mạc (4, 1-11).
3) Giai thoại cám dỗ trong sa mạc xảy ra như để xác nhận việc Chúa Kitô hoàn toàn chấp nhận thánh ý Chúa Cha: gạt bỏ mọi hình thức thiên sai chủ nghĩa mà Thiên Chúa không muốn (trước hết là thứ thiên sai chủ nghĩa cánh chung có tính cách báo phục của Gioan Tẩy giả và của Qumrân, thứ đến là thiên sai chữ nghĩa xác thịt, uy hùng hay chính trị mà Israel trông chờ), Chúa Kitô chấp nhận đường lối thiên sai khổ đau, là đường lối duy nhất phù hợp với thánh ý Chúa Cha.
4) Lối giải thích mang màu sắc thiên sai về ba chước cám dỗ (tức lối giải thích liên kết trình thuật này với trình thuật phép rửa trước đây) là lối giải thích lưu ý nhiều đến chỗ đứng của đoạn văn trong văn mạch của các chương này cũng như của các vấn đề tổng quát của một. Tuy nhiên lối giải thích này không loại bỏ các lối giải thích khác đã từng được truyền thống công nhận như:
- Lối giải thích luân lý: Chúa Kitô tự nguyên chịu các chước cám dỗ lớn của nhân loại: những dục vọng của xác thịt và tinh thần, để rồi vượt thắng các cám dỗ đó cách khải hoàn, và nhờ dấy nên gương mẫu cho đời ki tô hữu; Lối giải thích song đối kiểu mẫu: Chúa Kitô, Ađam mới, chịu một cơn cám dỗ "tổ tông" mới, để nhờ lòng vâng phục hiếu thảo của Người mà chuộc lại cuộc nổi loạn nguyên thủy (x. trình thuật mạc về cuộc cám dỗ này và thần học của Phaolô về Ađam mới);
- Lối chú giải cánh chung học: qua cuộc chiến đấu này, Chúa Kitô tiên báo cuộc khải hoàn vinh thắng cuối cùng của Người trên các quyền lực sự dữ (lối giải thích của Lc).
5) Chủ đề sa mạc chiếm một chỗ đứng đáng kể trong Kinh Thánh, vì sa mạc là một dữ kiện địa lý quan trọng trong thế quân bình kinh tế và nhân chủng của xứ Palestine. Ảnh hưởng của địa thế này không phải là nhỏ đối với lịch sử dân Thiên Chúa. Lịch sử này lưu lại hai kỷ niệm xem ra mâu thuẫn, mà có người đã muốn coi như. là hai chủ đề có nguồn gốc khác nhau, nhưng kỳ thực chỉ là hai phương diện của một thực trạng. Cuộc lưu ngụ trong sa mạc trước tiên được trình bày như là thời kỳ lý tưởng trong cuộc sống của tuyển dân, thời kỳ mà tuyển dân được các điều kiện thuận lợi nhất ớể phát huy lý tưởng tôn giáo của mình, và đã sống lý tưởng đó cách tuyệt hảo. Đàng khác thời gian lưu ngụ trong sa mạc cũng. được xem như là một thử thách, như một hình phạt, phạt tội phàn nàn và bất tuân. Sa mạc vừa là nơi tĩnh tâm và thanh luyện, vừa là nơi phát sinh chước cám dỗ và xóa tội. Vì thế trong suốt lịch sử dân Israel, sa mạc vẫn là nơi hun đúc sức mạnh sinh động của quốc gia (tất cả các khuôn mặt lớn trong dân đều đến sa mạc lập kế hoạch, hay nung nấu lại lòng nhiệt thành) và cũng là nơi thử thách.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Bấy giờ Chúa Giêsu được Thần khí dẫn vào sa mạc": Chữ bấy giờ nói lên mối liên hệ giữa trình thuật này với trình thuật Chúa Giêsu chịu phép rửa. Lát nữa ta sẽ thấy mối tử hệ thần linh của Chúa Giêsu đã được công bố lúc người chịu phép rửa) hệ tại chỗ nào. Trạng từ "bấy giờ" ở đây (cũng như ở 3, 13 chẳng hạn) có một giá trị chuyển mạch hơn là giá trị thời gian. Tiếng "để chịu cám dỗ" nói rõ ràng ý định của Thiên Chúa, như trong đoạn văn trước. Bởi ma quỷ: một chữ Hy-lạp trước tiên có nghĩa là "đứa vu khống" rồi "kẻ buộc tội". Vì thế bản 70 đã dùng chữ này để dịch chữ "Satan". Ngữ vựng của phần dẫn nhập trình thuật này tương tự với ngữ vựng của Đnl 8,2 (bản 70) và ám chỉ đến cảnh huống của Israel trong sa mạc: "Hãy hồi tưởng lại tất cả con đường mà Giavê Thiên Chúa của ngươi đã dẫn ngươi đi (cùng một động từ Hy lạp như Matthêu) trong sa mạc, với dụng ý là hạ ngươi uống, thử thách ngươi (cùng một động từ Hy lạp như Matthêu) và biết đáy lòng ngươi".
"Người đã giữ chay 40 ngày và 40 đêm": 40 là con số chẵn thường được Kinh Thánh dùng để chỉ một thời gian khá dài: 40 ngày lụt đại hồng thủy (St 7,4), 40 năm Israel lưu trú trong sa mạc (Xh 16, 35; Ds 14, 33; Đnl 29, 5), 40 năm trị vì của Đavít (1Sm 5,4), 40 ngày trước khi phá hủy thành Ninivê (Gn 3), 40 ngày giữa cuộc Phục Sinh và Thăng Thiên của Chúa Giêsu... Chi tiết xác định "40 đêm " là của riêng Matthêu (Luca chỉ nói "40 ngày") và ám chỉ đến 40 ngày và 40 đêm mà Môisen đã trải qua trên núi của Giavê "không ăn bánh cũng chẳng uống nước" (Xh 24, 1-8: giữ chay sau cuộc thần hiển, và trong 34,28: giữ chay sau cuộc tái lập Giao ước). "40 đêm" có lẽ cũng ám chỉ đến cuộc chay trường của Elia trên núi Horeb (1V 19,8: sau khi được thần hiển và trao sứ mệnh). Cả hai nhân vật lên này của Cựu ước, những vị gồm tóm trong bản thân Lề luật và Ngôn sứ, sẽ tái xuất hiện trong cuộc Biến hình của Chúa Giêsu (biến hình = thần hiển; cuộc thần hiển này được tiếp nối với việc thiết lập Giao ước mới bằng Tử Nạn-Phục Sinh). Chắc hẳn Matthêu muốn cho thấy việc giữ chay của Chúa Giêsu một cách nào đó tổng lược kinh nghiệm của Môisen và Elia, cũng như cuộc cám dỗ sẽ tổng lược lịch sử Israel trong sa mạc. Ở đây không nên hỏi cơ thể con người, xét về mặt tự nhiên, có thể giữ chay trong bao lâu! Cũng như trong trường hợp Môisen (suốt 40 ngày không uống nước!), chính Thiên Chúa trực tiếp nâng đỡ Chúa Giêsu. Chúa Kitô sống nhờ lòng tín thác vào Thiên Chúa. Thành ra việc cảm thấy đói sau 40 ngày được xem như là một cuộc thử thách: Chúa Giêsu có thể nghĩ Thiên Chúa đã bỏ rơi mình. Và đó là điểm đưa đến cám dỗ đầu tiên.
Cám dỗ đầu tiên (cc. 3-4)
"Nếu Ngài là Con Thiên Chúa". (c.3) là công thức dẫn vào chước cám dỗ thứ nhất và thứ hai. Tiếng "Con Thiên Chúa”; nhắc lại lời phán từ trời trong cảnh trước đây và đầu tiên có nghĩa là "Đấng Messia" (x.ghi chú BJ). Công thức này cho thấy ma quỷ cám dỗ Chúa Giêsu như là Đấng Messia, thủ lãnh của dân mới Thiên Chúa. "Nếu Ngài là..." không nhằm nói lên nỗi nghi ngờ của ma quỷ, nhưng cố khơi lên trong Chúa Giêsu niềm hoài nghi. Dưới chân thập giá, chính người Do thái sẽ thay thế Satan để cám dỗ Chúa Giêsu một cách tương tự: "nếu ông là con Thiên Chúa" (Mt 27,40). Hai chước cám dỗ này song song với nhau: chúng nhằm thúc đẩy Chúa Giêsu sử dụng các quyền lực thiên sai Người có để mưu cầu tư lợi, hay đúng hơn để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo (đói trong sa mạc, chết trên thập giá).
"Hãy truyền cho các viên đá này thành bánh”: Cơn đói mà Chúa Giêsu đột nhiên cảm thấy đã là một chi tiết giúp ta giải thích cơn cám dỗ đang bủa vây Người. Tuy nhiên, còn có một chi tiết giàu ý nghĩa hơn trong câu trả lời của Chúa Giêsu trích lại Đnl 8,3. Văn mạch của Đnl 8,3 cho thấy dân Israel nghi ngờ Giavê, thay vì tự hạ và chấp nhận tùy thuộc một mình Ngài: “Hãy hồi tưởng lại tất cả con đường Giavê Thiên Chúa của người đã dẫn ngươi đi, qua sa mạc, trong 40 năm, với dụng ý là hạ ngươi xuống cùng để thử cho biết ngươi có gì nơi đáy lòng, xem người có giữ các lệnh truyền của Ngài chăng. Ngài đã hạ ngươi xuống, đã để ngươi phải chịu đói; rồi Ngài lại cho ngươi ăn manna ngươi chưa từng biết và cha ông ngươi cũng không hề biết, để dạy cho ngươi hay là người ta không sống nhờ bánh mà thôi, nhưng sống nhờ mọi điều xuất ra từ miệng Giavê" (Đnl 8, 2-3).
Chước cám dỗ mà Israel phải. chịu, đó là cơn đói khát Thiên Chúa cho dân trải qua để thử lòng tín thác của họ. Nhưng dân đã phàn nàn, đã hối tiếc các thức ăn của xứ Ai cập, và càu nhàu đòi lương thực. Chúa Giêsu cũng đang sống trong một tình trạng tương tự như dân Israel. Bị đói, Người có thể nghĩ Thiên Chúa đã bỏ rơi người. Ma quỷ đến dụ dỗ Người nghi ngờ Thiên Chúa và hãy cậy dựa vào chính quyền năng thần thông mà Người vừa mới nhận lúc được thánh hiến làm Đấng Messia. Có thể Chúa Giêsu sẽ dùng quyền đó để mưu cầu tư lợi trái nghịch với thánh ý Thiên Chúa. Khi dụ dỗ Chúa Giêsu nghi ngờ và bất tuân, ma quỷ muốn Người cắt đứt liên lạc với Thiên Chúa. Đáp lời lại, Chúa Giêsu xác quyết Người chẳng muốn dùng các phương thế riêng của mình để được sống, nhưng muốn hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Người chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa (27,43).
Cám dỗ thứ hai (cc.5-7)
"Thành thánh" là một thành ngữ Do Thái thông dụng để chỉ Giêrusalem (Mt 27, 53; Kh 11,2). Ma quỷ dụ dỗ dựa vào lại Tv 91,11: điều đã được hứa cho mọi người đạo đức, càng phải có giá trị hơn đối với Đấng Messia: chắc chắn Thiên Chúa sẽ bảo vệ Người. Chúa Giêsu trả lời bằng cách trích dẫn Đnl 6,16 là câu nhắc lại giai thoại Massa (Xh 17, 1-7). Israel đã dám thử thách Thiên Chúa khi nói: “Có Chúa giữa chúng ta hay không?". Họ không ngại đòi Thiên Chúa ban cho một dấu chỉ là phép lạ nước đột xuất từ tảng đá. Nếu gieo mình từ thượng đỉnh Đền thờ theo như lời Satan dụ dỗ, là Chúa Giêsu đã buộc Thiên Chúa phải thực hiện một phép lạ. Cuối cơn cám dỗ thứ nhất, Chúa Giêsu đã nép mình dưới sự quan phòng chở che của Thiên Chúa. Ma quỷ dụ dỗ Người lợi dụng sự che chở này, như Israel ngày xưa, bằng cách đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp Thành ra xét cho cùng đây là việc áp đặt ý muốn con người trên Thiên Chúa.
Một vài giới bình dân Do thái hình dung Đấng Messia như sẽ khai mào sứ vụ của mình trên chóp đỉnh Đền thờ; nơi đó Người phải loan báo việc giải phóng Israel. Vì thế có lẽ Satan đã gợi ý cho Chúa Giêsu ra mắt dân chúng theo cách phù hợp với quan niệm bình dân này, đi ngược với kế hoạch của Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ ba (cc. 8- 10)
"Một ngọn núi cao" từ đó có thể xem thấy "tất cả các nước thiên hạ" là một điều dị thường. Sở dĩ Matthêu giữ lại chi tiết kỳ quái này của truyền thống Tin Mừng, là vì muốn trung thành với truyền thống bao quanh con người Môisen: Thiên Chúa đã chỉ cho Môi sen, đứng trên núi Nêbo, thấy toàn thể Đất Hứa (Đnl 31, 1-4). Tương quan Môisen-Giêsu, mà Matthêu luôn đề cập đến, còn được nổi bật ở đây. Đất Hứa ở đây trở thành lãnh địa tuyệt hảo mà Chúa Giêsu sẽ tiếp nhận lúc Phục Sinh: “mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta" (28,18) như lời hứa của Tv 2, 6-8.
"Tôi hiến cho Ngài hết mọi điều đó, nếu Ngài phục mình bái lạy tôi". Đây là cám dỗ thờ bò vàng, thờ các ngẫu thần, là cám dỗ tự biến mình thành vị thần dễ xài, trấn an, vị thần được dùng để đem đi giao chiến, chinh phục địa cầu, vị thần mà ta có thể thương thuyết mặc cả: "Tôi hiến tất cả điều đó cho Ngài, nếu Ngài phục mình bái lạy tôi". Chính Chúa Giêsu đã hiểu chước cám dỗ thứ ba này theo nghĩa ấy, vì câu Người trả lời Satan trích lại một đoạn Đệ Nhị Luật, trong đó rõ ràng đề cập đến việc thờ ngẫu thần: "Ngươi hãy coi chừng kẻo lãng quên Giavê Đấng đã đem ngươi ra khỏi Ai Cập, khỏi nhà tôi mọi. Ngươi sẽ kính sợ Giavê Thiên Chúa của ngươi; ngươi sẽ phụng thờ Ngài, sẽ thề nhân danh Ngài. Đừng đi theo các thần khác, thần của các dân ở chung quanh ngươi, vì Giavê Thiên Chúa của ngươi, ở giữa ngươi, là Thiên Chúa ghen tương" (Đnl 6,12-15). Qua việc trích dẫn đoạn văn này, Chúa Giêsu xác quyết Thiên Chúa đích thực không phải là một thần tượng mà ta có thể mua chuộc các hồng ân. Giavê không mua bán mặc cả. Ngài đòi phải tin yêu và vâng phục vô điều kiện. Ngài chẳng phải là con bò vàng "đi trước chúng ta” mà người ta có thể sử dụng như một khí cụ để chinh phục. Chúa Giêsu từ chối đi vào con đường mà Thiên Chúa không muốn Đấng Messia của Ngài dấn thân, là đường vinh thắng rạng rỡ (bằng việc cậy dựa vào các ngẫu thần), đưa đến việc thống trị hoàn vũ. Vì bị tiêm nhiễm giấc mơ khải huyền bình dân, Phêrô sẽ chống đối việc tiến lên Giêrusalem để chịu tử nạn. Chúa Giêsu sẽ trả lời ông như đang trả lời ở đây: "Hỡi Satan, hãy xéo đi" (16,23 cũng có cùng động từ như 4,10 những chỉ thêm chữ "sau Ta"). Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu xác quyết ý định của Người là hoàn toàn tuân theo kế hoạch của Thiên Chúa, dù "tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của loài người" (16,23). Đối lại với việc Israel say mê thờ ngẫu thần (các ngẫu thần được xem như là khí cụ để chinh phục), việc Chúa Giêsu gắn bó vào Thiên Chúa hệ tại chỗ loại bỏ mọi ngẫu thần để chỉ phụng sự Thiên Chúa đích thực. Vì thế, Chúa Giêsu sẽ thể hiện kiểu mẫu Messia mà Thiên Chúa đã trù định, là làm người Tôi tớ bị lăng nhục và đau khổ mà Isaia đã loan báo. Dĩ nhiên, Người không từ chối việc chinh phục thế giới, nhưng sẽ chỉ chinh phục bằng thập giá mà thôi.
“Họ hầu hạ Người": Việc các thiên sứ hầu hạ Chúa Giêsu nói lên chân lý này: Chúa Giêsu đã được phong vương ở sông Giođan. Họ cho thấy Nước Trời đã đến bên loài người vì triều đình thiên quốc đang chầu chực quanh Người Con Yêu Dấu. Tuy nhiên các thiên sứ này chỉ can thiệp sau khi Chúa Giêsu đã vượt thắng cơn cám dỗ. Ở đây hình như Matthêu tiên báo điều sẽ xảy ra trong cuộc Tử nạn. Là Đấng có thể xin cấp ngay "hơn 12 cơ binh thiên sứ" (26,53) để thoát khỏi khổ hình thập giá, Chúa Giêsu đã muốn hoàn tất Kinh thánh và phó mình cho Chúa Cha. Sau khi Người đã thắng vượt cơn cám dỗ, các thiên sư mới đến hầu hạ Người, và sau khi Người phục sinh, các thiên sứ mới đi báo tin cho các môn đồ (28, 2-7).
KẾT LUẬN
Đoạn Tin Mừng này của Matthêu trước tiên hoàn toàn mang ý nghĩa thần học. Nó được soạn thảo và lưu truyền không nhằm cho ta biết về một giai thoại trong cuộc đời Chúa Giêsu cho bằng giúp ta hiểu cách Người đã thi hành vai trò Messia ra sao. Satan, một thời gian ngắn trước khi Chúa Giêsu ra mắt công khai, đã cố làm cho Người bất tuân với Chúa Cha bằng cách gợi lên trong Người tâm tình tự lập, muốn từ khước địa vị làm Con để tự do sử dụng các quyền hành Người đã được ban cho. Nhưng thay vì tự chiếm đoạt quyền lực và ỷ mình được Thiên Chúa tuyển chọn như Biệt phái và Sađucêô, Chúa Giêsu đã xóa mình trước mắt Chúa Cha, như dã xóa mình trước mặt Gioan Tẩy giả và sẽ còn xóa mình suốt cả cuộc đời, cho đến lúc chết. Thay vì chiều theo quan niệm của nhân gian về Đấng Messia uy hùng, vinh thắng, Chúa Giêsu đã chấp nhận quan niệm Đấng Messia-tôi tớ khiêm cung.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Satan đã đề nghị Ađam trở thành Thiên Chúa: "Ngươi sẽ nên như các thần minh" (St 3,5). Còn đối với Chúa Kitô, nó đề nghị người sử dụng quyền năng thiên sai như một đặc quyền, một khí cụ. Xét cho cùng, tội lỗi luôn luôn là một ý muốn thống trị. Thế mà Thiên Chúa đã cứu thoát con người khỏi tội lỗi nhờ sự yếu đuối của Chúa Kitô, Đấng đã chọn lấy thân phận tôi tớ, và hoàn toàn phó thác vào tay Thiên Chúa.
2) Cám dỗ luôn luôn xoay quanh Lời Chúa, hoặc để vi phạm hoặc để xuyên tạc ý nghĩa. Con rắn quỷ quyệt trong St 3 đã nói ngược Lời Chúa. Nó bảo: "Thiên Chúa đã phán: các ngươi chẳng được ăn cây nào trong vườn cả!... Các ngươi chẳng chết chóc đâu. Nhưng vì Thiên Chúa biết rằng mắt các ngươi sẽ mở ra...". Tên cám dỗ trong Tin Mừng cũng yêu cầu Chúa Giêsu sử dụng Lời Chúa để biến đá thành bánh, và giải thích lệch lạc ý nghĩa Thánh Vịnh để đẩy Người thử thách Thiên Chúa. Nó cám dỗ Chúa Giêsu sử dụng Lời sáng tạo, Lời cứu rỗi để mưu cầu lợi riêng. Nhưng Chúa Giêsu đã tuân phục và đón nhận Lời Thiên Chúa: "Đã chép rằng..."
3) Khi tình nguyện trở nên người Tôi Tớ chứ không trở nên kẻ thống trị, Chúa Giêsu đã cứu rỗi chúng ta. Người mặc khải cho chúng ta một Thiên Chúa tình yêu, mà ta có thể bắt chước bằng cách tự hạ, tự chối bỏ chính mình. Thiên Chúa đã đến gần nhân loại trong con người của Con Ngài, không phải để bắt nhân loại làm nô lệ, nhưng để phục vụ nhân loại với tư cách là tôi tớ bị đóng đinh.
4) Chúa Giêsu bị cám dỗ, bởi vì xét như là con người, Người phải chứng minh mình là "Con yêu dấu". Chính vì thế Người phải trải qua, cách cụ thể trong nhân tính của mình, cái kinh nghiệm thế nào là sống như con cái Thiên Chúa, nghĩa là chỉ chờ đợi hạnh phúc ở nơi Thiên Chúa mà thôi. Người Kitô hữu cũng phải trải qua cơn cám dỗ tương tự và phải chọn lựa giữa sự tự tôn cá nhân, coi thường Thiên Chúa và anh em, với thái độ hiếu thảo phục vụ Thiên Chúa và mọi người.
56.Cám dỗ
Chúng ta đừng nuôi ảo tưởng về một thế giới mà mọi sự đều tốt lành. Thân phận con người là sống giữa thế gian mà trong đó thiện ác, lành dữ lẫn lộn.
- Chính vì thế, khi Con Thiên Chúa xuống thế làm người, chính Chúa Thánh Thần đã dẫn Người vào sa mạc để đối diện với các cơn cám dỗ.
- Người ta sống tốt không phải bằng cách che mắt giấu mặt để khỏi nhìn thấy điều xấu, mà trái lại bằng cách nhìn thẳng vào điều xấu và chiến đấu để chiến thắng nó.
- Trong Mùa chay, mỗi người hãy nhìn thẳng vào nội tâm mình. Không phải chỉ nhìn những mặt tốt, mà nhất là hãy nhìn thẳng vào những mặt xấu, những thứ “ tham, sân, si” đang âm thầm nhưng mãnh liệt khống chế mình.
Và hãy nhìn vào cuộc chiến đấu của Đức Giêsu. Người đã thắng nhờ đâu? Nhờ làm theo lời Thiên Chúa và thực hiện thánh ý Thiên Chúa.
Có ba người mục tử, mỗi người coi sóc một đàn chiên.
Một đêm mùa đông vừa gió vừa mưa. Khi ba người đang ngủ thì nghe có tiếng chó sói.
- Người thứ nhất tung chăn thức dậy định ra ngoài xem xét tình hình. Nhưng nghe tiếng mưa rơi gió rít, anh ngại ngùng và trở vào giường ngủ tiếp.
- Người thứ hai cũng thức dậy, mặc thêm quần áo mở cửa đi ra. Nhưng một đợt nước mưa quất ngay vào mặt anh làm anh bỏ ngay ý định ra ngoài. Anh cũng trở vào giường nằm xuống, kéo chăn đắp kín và ngủ tiếp.
- Người thứ ba cũng thức dậy, cũng mặc quần áo, và cũng ra ngoài. Dù gió lạnh, dù mưa ướt, anh vẫn cố chịu đựng, đi đến tận chỗ đàn chiên của anh để xem. Khi đã thấy chiên mình an toàn, anh mới trở vào nhà ngủ tiếp.
Trong ba người đó, ai là người hiểu biết rõ nhất về sự khắc nghiệt của gió và mưa? Dĩ nhiên là người thứ ba.
Cũng thế, người hiểu rõ nhất về cám dỗ là người đã chiến đấu và chiến thắng nó.
Vì vậy, nếu ta muốn học cách đương đầu với cám dỗ, đừng học với những kẻ tội lỗi, mà hãy học với những vị thánh.
Như trong các bài đọc hôm nay, chúng ta đừng học với dân Israel trong thời xuất hành ở sa mạc, mà hãy học với Đức Giêsu.
57.Trông bạn khác quá - Mark Link
Chủ đề: Các cơn cám dỗ Đức Giêsu trải qua chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là "Adam mới" trong cuộc tân tạo của Thiên Chúa
Cách đây một số năm, Doug Alderson có viết một bài rất hay trong tạp chí Campus Life mô tả cuộc đi bộ suốt hai ngàn dặm xuống dãy núi Appalachi (Appalachian Trail) của ông.
Lúc đó Doug vừa mới tốt nghiệp trung học thôi nhưng đã tự đặt cho mình một số câu hỏi chưa được ai trả lời cho, chẳng hạn: Có Thiên Chúa hay không? Mục đích cuộc sống là gì? Khi bình luận về tất cả những vấn nạn này, Doug viết: "Phải có cái gì đó đáng sống hơn là tiền bạc, truyền hình, tiệc tùng và đua tranh... Cuộc đi bộ lâu ngày của tôi chuyến này là một cuộc đi tìm an bình nội tâm, là một cuộc hành trình khám phá chính mình".
Cuộc hành trình gian khổ hơn Doug dự tính. Có đôi chỗ, đường dốc đứng rất là nguy hiểm. Ban ngày lại thường hay mưa. Áo quần Doug bị sũng ướt nước, chân cẳng thì ướt át, thân thể thì rét run và đau nhức vào ban đêm. Nhưng Doug đã không đầu hàng. Những giờ phút đi bộ và leo trèo giúp Doug có cơ hội suy nghĩ, đồng thời nhờ đó cậu hiểu mình hơn, vì chung quanh chẳng có ai tác động lên cậu hết.
Năm tháng sau, Doug về đến nhà. Cậu đã trở thành một người thay đổi khác. Ngay chính con chó của cậu cũng lạ lùng ngó cậu như muốn nói rằng: "Cậu đã đi đâu và đã làm gì thế? Trông cậu khác quá!".
Doug quả là có khác trước. Cậu đã gặp được điều cậu kiếm tìm, đó là có một vị Thiên Chúa: đời sống có mục đích và cậu có vai trò trong cuộc sống ấy. Doug tóm tắt kinh nghiệm của mình bằng giòng chữ sau: "Tôi không còn là tôi như trước đây nữa, tôi yêu thích cái mà tôi nhìn thấy được trong chính tôi".
Doug Alderson thuộc về số người trong lịch sử đã từng đi tìm cô tịch để suy tư về ý nghĩa và mục đích của đời sống. Môisê đã từng làm thế. Các tiên tri từng làm thế. Gioan Tẩy Giả từng làm thế, và trong Phúc âm hôm nay, Đức Giêsu cũng làm thế. Suốt bốn mươi ngày dài trong cô tịch, Chúa Giêsu đã trải qua bao cơn cám dỗ dữ dội. Chúng ta có thể so sánh ba cơn cám dỗ với đoạn duyệt ở đầu một cuốn phim. Đoạn duyệt này trình bày cho chúng ta khá đầy đủ về cuốn phim khiến chúng ta chú ý vào phim ấy mà vẫn không làm cho chuyện phim sau đó bị mất hay đi.
Cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua cũng tương tự như thế. Chúng kể cho chúng ta khá đủ về Chúa Giêsu để khiến chúng ta chú ý đến Ngài mà không làm cho câu chuyện Phúc âm nhạt nhẽo đi. Chẳng hạn, các cơn cám dỗ ấy giúp chúng ta biết sơ qua bản thân Chúa Giêsu và công việc mà Ngài đến để chu toàn.
Chúng ta hãy xem điểm thứ nhất liên quan đến bản thân Chúa Giêsu: Chúa Giêsu là ai?
Thoạt tiên, các cơn cám dỗ cho chúng ta thấy Chúa Giêsu đã cảm nghịêm trận chiến nội tâm giữa điều thiện và điều ác giống hệt chúng ta. Ngài cũng cảm thấy cuộc tranh chấp bên trong giữa điều phải và điều trái giống hệt chúng ta. Điều này cho thấy Chúa Giêsu cũng là con người như chúng ta.
Nhưng các cơn cám dỗ không chỉ nói lên điều đó. vì dù bị cám dỗ giống hệt chúng ta nhưng Chúa Giêsu đã phản ứng lại cơn cám dỗ khác với chúng ta. Ngài không hề giao động hay do dự khi đương đầu với cám dỗ. Ngài không nhượng bộ cám dỗ một chút nào hết. Điều này cho thấy điểm đặc biệt nơi con người Chúa Giêsu. Điểm đặc biệt ấy là gì?
Chính ma quỷ đã cho chúng ta thấy một mối khi nó nói với Chúa Giêsu: "Nếu ngươi là Con Thiên Chúa..." ma quỷ gợi cho chúng ta biết Chúa Giêsu không chỉ là một con người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa đến sống giữa chúng ta. Nhiều năm sau đó, trong thư gởi tín hữu Philipphê, Thánh Phaolô đã cắt nghĩa bản tính của Chúa Giêsu như sau: "Chúa Giêsu vốn bản tính là Thiên Chúa, nhưng Ngài... Đã trở nên giống như loài người và đã xuất hiện như một con người" (Pl 2: 6-7). Như vậy các cơn cám dỗ Chúa Giêsu đã trải qua giúp chúng ta nhìn thấy trước câu trả lời cho vấn nạn "Chúa Giêsu là ai?" hay nói cách khác, Chúa Giêsu có sứ mệnh gì trên trần gian?
Các cơn cám dỗ ấy cũng giúp ta thấy trước câu trả lời cho vấn nạn vày. Để thấy rõ điểm này, chúng ta cần nhớ lại bài đọc thứ nhất hôm nay. Ngày sau khi Adam được Chúa tạo dựng, ma quỷ liền cám dỗ ông ta và Adam đã sa ngã. Kể từ lúc đó, tất cả mọi người đều làm nô lệ cho ma quỷ. Giờ đây ma quỷ lại cám dỗ Chúa Giêsu. Tuy nhiên, không như Adam sa ngã, Chúa Giêsu đã đứng vững. Điều này cho thấy Chúa Giêsu đến để giải thoát chúng ta khỏi vòng nô lệ, Ngài đã đến để điều chỉnh sai lầm nơi tội lỗi đầu tiên của Adam. Trong bài đọc thứ hai hôm nay, Thánh Phaolô đã bình luận về sứ vụ này của Chúa Giêsu như sau: "Cũng như tội lỗi của một người đã kết án toàn thể nhân loại thế nào, thì hành vi công chính của một người cũng giải thoát và đem lại nguồn sống cho nhân loại như thế ấy. Nói cách khác, Chúa Giêsu là "Adam thứ hai". Ngài đã đến để sửa lại lầm lỗi cho "Adam thứ nhất". Đó chính là cách thức Thánh Phaolô giải thích về sứ mệnh của Chúa Giêsu trong thư gởi tín hữu Corintô: "Cũng như mọi người phải chết vì liên kết với Adam thế nào, thì mọi người cũng được sống nhờ kết hiệp với Chúa Giêsu như thế... Adam thứ nhất bởi đất, Adam thứ hai bởi trời.. Như chúng ta đã mặc lấy hình tượng con người bởi đất thế nào thì chúng ta cũng sẽ mặc lấy hình tượng của CON NGƯỜI đến từ trời như thế" (1 Cr 15,22.47-49).
Nói cách khác, Chúa Giêsu đã đến trần gian để trở thành "Adam mới" của một nhân loại mới.
Như thế, để kết luận, chúng ta thấy rằng các cơn cám dỗ trong hoang địa Chúa Giêsu trải qua cho chúng ta thấy trước hai sự kiện quan trọng về Chúa Giêsu:
Thứ nhất, Chúa Giêsu là con Thiên Chúa làm người. Thứ đến Ngài là Adam mới mang sứ mệnh phục hồi sự sống mới cho nhân loại. Các bài đọc hôm nay thật thích hợp để dẫn nhập chúng ta vào mùa chay. Chúng làm nổi bật được nội dung của Mùa chay. Mùa chay giúp ta sống lại kinh nghiệm trong hoang địa của Chúa Giêsu xưa kia về việc chống lại ma quỷ cám dỗ.
Nhưng không chỉ có thế, mùa chay còn cử hành mừng chiến thắng của Chúa Giêsu trên ma quỷ. Và bao lâu chúng ta biết kết hợp với Chúa Giêsu trong trận chiến chống quỉ thì chúng ta cũng sẽ chia xẻ niềm vui chiến thắng của Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là con Thiên Chúa làm người. Chúa đã vào hoang mạc để chịu ma quỷ cám dỗ, và để bắt đầu sứ mệnh như một Adam mới. Xin giúp chúng con cùng đi vào hoang mạc với Chúa. Xin giúp chúng con biết chia sẻ trận chiến mùa chay với Chúa ngõ hầu chúng con cũng được chia sẻ chiến thắng Phục sinh với Chúa.
58.Trả lại cho Chúa chỗ ngự của Ngài
(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)
Trong những ngày qua Thành Phố Hồ Chí Minh đang nóng lên chuyện đòi lại vỉa hè cho người đi bộ, đặc biệt tại Quận I, Ông Phó Chủ tịch UBND Quận I, Đoàn Ngọc Hải, đã hành động cách quyết liệt để đòi cho được vỉa hè nhằm trả lại cho người đi bộ. Và sau gần một tháng, vỉa hè Quận 1 thành Phố HCM thống thoáng hơn, đẹp hơn, người đi bộ cảm thấy thoải mái hơn, không còn nơm nớp lo sợ bị xe đụng.
Một hình ảnh gợi cho những người Kitô hữu khi bước vào Mùa chay thánh. 40 ngày của Mùa chay là thời gian để người tín hữu gột rửa tâm hồn, trả lại cho Thiên Chúa chỗ đứng của Ngài trong đời sống của người Kitô hữu. Thật vậy, trong cuộc hành trình tiến về Nhà Cha, không ít người Kitô hữu đã để cho tâm hồn của mình bị lấn chiếm bởi những điều mà đoạn Tin Mừng hôm nay trình bày, đó là: danh vọng, tiền bạc và đam mê nhục thú. Bôn ba trong cuộc sống trần thế, có bao giờ chúng ta tự hỏi, trong tâm hồn của chúng ta có còn chỗ nào cho Chúa ngự trị không? Hay là những lo toan của cuộc sống, những tham vọng của cuộc đời, những thú vui trần thế đã choáng hết chỗ và không còn một chỗ trống nào để Chúa có thể ghé thăm?
Hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta bước vào Mùa Chay Thánh với một khao khát tái lập lại trật tự trong tâm hồn, trả lại chỗ ngự trị cho Chúa sao cho xứng hợp, bởi con người được tạo thành giống ảnh Chúa, và thân xác là Đền Thờ của Chúa. 40 ngày Chay Thánh không là một chu kỳ Phụng Vụ đến rồi đi, nhưng phải là thời gian hành động với một thái độ dứt khoát, không do dự hay lưỡng lự. Một sự cương quyết như Đức Kitô khi đối diện với các cám dỗ mà chúng ta vừa được nghe. Hãy mạnh dạn mở miệng để nói với các cám dỗ: nầy Satan hãy xéo đi, hãy đi chỗ khác, vì nơi đây không có chỗ cho người. Một lời minh định như thế là một nhát búa đập nát những thói quen xấu đang là những chướng ngại cản lối Chúa đến với chúng ta. Hãy mạnh dạn tuyên xưng: chỉ bái lạy Đức Chúa và chỉ thờ phượng một mình Người mà thôi, là những động lực lôi kéo chúng ta ra khỏi sự ươn lười, thúc đẩy chúng ta loại bỏ sự ham mê nhục hú, sự hưởng thụ ích kỷ, để chúng ta dành lại chỗ cho Chúa trong tâm hồn chúng ta.
Dĩ nhiên việc làm này không phải là dễ dàng, chắc chắn chúng ta cũng gặp nhiều sự chống đối là tính ươn hèn, sự ích kỷ, lòng tham lam… Thế nhưng, cuộc đời Kitô hữu luôn được mời gọi chiến đấu để dạt tới cùng đích của đời sống Kitô hữu chúng ta, chính là sự sống đời đời. Hãy siêng năng chạy đến với các Bí tích, nhất là Bí tích Hoà giải và Thánh Thể chúng ta sẽ tìm được năng lực để chiến đấu dành lại chỗ cho Chúa trong cuộc đời chúng ta.
Lạy Chúa, cám tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con thời gian 40 ngày của Mùa Chay Thánh này, vì đây là thời gian thuận tiện để chúng con khám phá lại căn tính đích thật của đời Kitô hữu chúng con, và nhờ đó chúng con hiểu rằng, đời này chẳng có ý nghĩa gì nếu thiếu vắng Chúa trong cuộc đời, và vì vậy chúng con luôn nỗ lực giữ Chúa ở lại với chúng con. Amen.
59.Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ. Điều ấy mạc khải cho ta biết những gì? Bị cám dỗ có phải là điều gì xấu xa không?
2. Cơn cám dỗ đưa ta đến một tình thế phải lựa chọn giữa điều tốt và điều xấu, hoặc giữa hai điều tốt, tốt nhiều và tốt ít. Như thế những dịp bị cám dỗ giúp chúng ta chứng tỏ điều gì? Cám dỗ là điều tốt hay điều xấu?
Suy tư gợi ý:
1. Đã là con người, ai cũng bị cám dỗ: Nếu không có bài Tin Mừng hôm nay, người ta dễ dàng nghĩ rằng sở dĩ Đức Giêsu hoàn toàn vô tội là vì Ngài không bị hề cám dỗ. Nhưng đoạn Tin Mừng này cho thấy chính Đức Giêsu - dù là Con Thiên Chúa, có bản tính thần linh hoàn toàn trong sạch - cũng bị ma quỷ cám dỗ. Thật là một mạc khải bất ngờ, đáng ngạc nhiên và rất lý thú, đồng thời cũng là điều an ủi chúng ta, tạo động lực cho chúng ta thắng những cơn cám dỗ xảy đến. Đức Giêsu là Thiên Chúa mà cũng bị cám dỗ, nên chúng ta vốn là người phàm, nếu có bị cám dỗ, dù nặng nề tới đâu, cũng là chuyện dễ hiểu. Điều đó có nghĩa: đã là con người thì đều bị cám dỗ. Và sự kiện Đức Giêsu bị cám dỗ chứng tỏ Ngài đích thực là con người y như chúng ta. Kinh Thánh cho biết Ngài cũng yếu đuối như chúng ta, nhờ vậy Ngài rất thông cảm với sự yếu đuối cũng như tội lỗi của chúng ta: "Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội" (Dt 4,15). Qua câu Kinh Thánh trên, ta lại được biết rằng tuy bị cám dỗ như ta, nhưng Ngài khác với ta ở chỗ không hề phạm tội, nghĩa là Ngài đã luôn luôn thắng mọi cơn cám dỗ, không bao giờ sa ngã.
2. Tội lỗi là sự chọn lựa SAI giữa hai điều tốt: Thiên Chúa đã chấp nhận để cho chúng ta - kể cả Đức Giêsu - bị cám dỗ. Điều đó cho thấy cám dỗ không phải là một điều xấu. Trái lại có thể đó là một điều cần thiết. Thật vậy, bị cám dỗ là một dịp để ta chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và tha nhân, và sự vâng phục của ta đối với Ngài. Vì một người không thể chứng tỏ rằng mình yêu mến, vâng phục… nếu không hề bị thử thách, nghĩa là chưa có cơ hội để không vâng lời, không yêu mến. "Lửa thử vàng, gian nan thử người công chính" (Cn 17,3), "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?" (Nguyễn công Trứ).
Khi bị cám dỗ, có khi ta phải chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu. Điều này thường xảy ra cho người có tâm linh còn non yếu, để họ có dịp chứng tỏ họ đứng hẳn về phía tốt. Còn những người đã lên tới những bậc thang tâm linh cao, thì khi bị cám dỗ, họ thường phải lựa chọn giữa hai điều đều là tốt cả, nhưng lương tâm buộc họ phải chọn điều tốt hơn, để chứng tỏ sự quyết tâm tiến tới trọn hảo. Chẳng hạn trong cơn cám dỗ đầu tiên của Đức Giêsu, việc biến đá thành bánh để ăn khi đói chẳng có gì là xấu. Trái lại, ăn khi đói còn là một điều cần thiết để sống còn. Sớm muộn gì thì Ngài cũng phải ăn để sống, nhưng có thể lúc đó chưa tới thời hạn ăn như Ngài đã quyết định từ đầu. Như vậy Ngài phải chọn lựa giữa hai điều đều là tốt cả: một là thỏa mãn nhu cầu ăn để sống, hai là tự chủ để thực hiện đúng điều mình đã quyết định từ trước về thời hạn nhịn ăn khi mà nhịn thêm ít lâu nữa cũng chẳng hại gì. Quyết định nào cũng đều chứng tỏ lập trường của mình là đã coi trọng cái nào hơn cái nào.
Nhờ có hai đối tượng phải lựa chọn mà ta chứng tỏ được ta quí đến mức độ nào cái giá trị mà ta chọn lựa. Nếu phải lựa chọn một viên kim cương khá to với một lượng vàng, chắc chắn ai cũng chọn viên kim cương, và sự lựa chọn ấy không chứng tỏ được giá trị đích thực của viên kim cương. Nhưng nếu phải lựa chọn giữa 100 lượng vàng với viên kim cương, mà ta chọn viên kim cương, thì chứng tỏ ta đã coi viên kim cương có giá trị hơn số vàng ấy (đương nhiên có người chọn khác ta). Thiên Chúa cũng muốn ta chứng tỏ rằng ta coi tình yêu của Ngài giá trị hơn nhà cửa, ruộng vườn, của cải, thậm chí hơn cả anh em, cha mẹ, vợ con của ta, bằng cách tạo dịp để ta lựa chọn giữa Ngài và những giá trị ấy. Và đó chính là cám dỗ.
3. Những nhu cầu chính đáng trong những cơn cám dỗ:
Trong ba cơn cám dỗ của Đức Giêsu, ta thấy những cơn cám dỗ luôn luôn dựa trên những nhu cầu và giá trị hết sức thực tế và chính đáng của đời sống con người. Những cơn cám dỗ luôn luôn đặt ta giữa hai loại giá trị: một là những giá trị hết sức thực tế của đời sống, hai là những giá trị tâm linh (tình yêu đối với Thiên Chúa, với tha nhân, chân lý, công lý, lý tưởng, v.v…). Nhờ đó ta có dịp chứng tỏ ta coi trọng giá trị nào hơn. Sau đây là những nhu cầu thực tế của đời sống được dùng trong những cơn cám dỗ:
a. Ứng với cám dỗ thứ nhất của Đức Giêsu là nhu cầu sự sống (sự an toàn bản thân, ăn uống, tình dục, sự thoải mái, giàu sang): Sự sống là một giá trị rất lớn Thiên Chúa ban cho ta, ta có nhiệm vụ quí trọng và bảo vệ nó, nhưng không phải là với bất cứ giá nào. Có những giá trị còn cao hơn sự sống. Chẳng hạn giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và chính sự sống mình, các thánh tử đạo xưa đã chọn tình yêu Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận cái chết. Trong cuộc đấu tranh cho công lý, chống áp bức bất công, những người đấu tranh như Martin Luther King (Mỹ da đen), ĐGM Oscar Romero (Salvador), LM Jerzy Popieluszko (Ba Lan)… đã coi công lý, tình yêu đối với người nghèo, người bị áp bức hơn sự an toàn bản thân, thậm chí hơn cả mạng sống. Chắc chắn họ cũng rất quí sự sống và sự an toàn bản thân, nghĩa là cũng sợ chết, sợ bị tra tấn, phiền nhiễu… Nhiều khi họ bị cám dỗ chọn lựa sự sống, sự an toàn bản thân hơn những giá trị kia. Nhưng lựa chọn cuối cùng và dứt khoát của họ là công lý xã hội và tình thương đối với với những kẻ bị áp bức. Ngược lại, ta cũng thấy có biết bao người vì muốn được an toàn bản thân, muốn bảo vệ nồi cơm hay sự thoải mái đang có được của mình, của gia đình mình, mà sẵn sàng câm lặng trước bất công, sẵn sàng đồng lõa hoặc làm tay sai cho những thế lực gây bất công… Họ đã quí sự sống và nồi cơm, địa vị của họ hơn công lý.
b. Ứng với cám dỗ thứ hai của của Đức Giêsu là nhu cầu phình to bản ngã (muốn được nổi danh, được nể phục, được coi là quan trọng, được khen tặng, được thỏa mãn tự ái và tính kiêu ngạo): Ai cũng cho "cái tôi" của mình là quan trọng, muốn mình là "cái rốn của vũ trụ", và không muốn bị ai xúc phạm. Trong một chừng mực nào đó, thì điều đó là tốt, nhờ đó mới phát sinh lòng tự trọng, giữ uy tín, muốn thăng tiến, v.v… Nhưng vượt quá chừng mực đó thì trở thành điều xấu. Nói chung, danh thơm tiếng tốt, uy tín, sĩ diện… đều là những giá trị hết sức cao quí, đến nỗi Nguyễn công Trứ để phải thốt lên: "Đã mang tiếng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông", hoặc "Không công danh thà nát với cỏ cây", "Trót sinh ra thì phải có chi chi, chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu". So với những loại giá trị bình thường, ta nên coi danh dự, công danh của mình cao hơn. Vì không coi trọng danh dự, uy tín, ta sẽ bị coi là tiểu nhân. Nhưng vẫn có những giá trị cao hơn công danh, uy tín… đó là những giá trị tâm linh như đã nói trên. Nếu để thăng tiến, phát triển bản thân mà ta phải đối xử thiếu tình người, phải hạ kẻ khác xuống, coi người khác là công cụ, là bàn đạp, là vật hy sinh cho mình, sẵn sàng "đội trên đạp dưới", thì có nghĩa là ta đã coi những giá trị ấy cao hơn công lý và tình thương. Tội lỗi phát sinh từ sự lựa chọn sai trái ấy.
c. Ứng với cám dỗ thứ ba của của Đức Giêsu là nhu cầu thống trị (thích quyền lực, thích làm chủ để điều khiển, muốn mọi sự phải xẩy ra theo ý mình): đây cũng là một nhu cầu rất lớn trong tâm lý con người. Ai cũng thích người khác chiều ý mình, thích áp đặt ý mình lên người khác. Quyền lực cũng là một giá trị. Trong xã hội, cần phải có những người có quyền lực, có quyền ép buộc người khác làm theo lệnh mình. Nhưng quyền lực ấy là để phục vụ xã hội, để tạo an ninh, trật tự và công lý trong xã hội, làm xã hội trở nên tốt đẹp hơn. Quyền lực này có thể đạt được một cách chính đáng bằng tài năng và đức độ của mình nhằm phục vụ xã hội. Nhưng cũng có thể đạt được bằng những phương tiện không chính đáng nhằm được hưởng những đặc quyền đặc lợi trong xã hội chứ không phải để phục vụ. Người sử dụng quyền lực luôn luôn phải lựa chọn giữa hai giá trị: lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể. Nếu hành động vì lợi ích tập thể thì là thánh thiện, nếu chỉ vì lợi ích cá nhân thì là tội lỗi.
Thiên Chúa luôn luôn muốn chúng ta đặt nặng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân trên hết mọi sự, mọi giá trị: "Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ toàn thiêu và hy lễ" (Mc 12,33). Chúng ta sẽ có dịp chứng tỏ lòng yêu mến ấy của chúng ta trong những cơn cám dỗ.
CẦU NGUYỆN
Chúa nói với tôi: "Những cám dỗ xảy đến với con là do thánh ý của Cha. Cha muốn con có dịp chứng tỏ tình yêu của con đối với Cha, và đối với những giá trị tâm linh mà Cha hằng yêu quí, như "Công Lý, Tình Thương và Lòng Thành Thật" (Mt 23,23). Nếu con yêu mến Cha thật sự, con phải chứng tỏ được tình yêu ấy trong những cơn thử thách ấy. Sự thành công hay thất bại trong những cơn cám dỗ ấy giúp con xác định được tình yêu của con đối với Cha như thế nào, nó giúp con hiểu biết chính con hơn".
60.Hãy cậy trông vào Thiên Chúa
(Suy niệm của Cao Nhất Huy)
Trang Tin Mừng hôm nay, trong cơn cám dỗ thứ nhất mà ma quỷ đưa ra cho Chúa Giêsu: "Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi! ".
Chước cám dỗ này nhằm thúc đẩy Chúa Giêsu sử dụng quyền lực Thiên Sai của Người để mưu cầu lợi ích riêng, hay đúng hơn là để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo mà thân xác phàm trần đang phải gánh chịu.
Đáp lời lại, Đức Giêsu xác quyết: "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra."
Chúa Giêsu khẳng định cho ma quỷ biết rằng: Ngài đến trần gian này là tuân theo ý muốn của Chúa Cha, và Ngài không muốn dùng sức mạnh Thiên Sai mà chiều theo ước muốn của Thân xác, từ đó lại sa vào chước cám dỗ của ma quỷ. Chúa Giêsu là một Ađam mới, đến trần gian này để mang lại sự sống đời đời cho con người, khi bị mất đi bởi Ađam cũ đã thất bại trước cám dỗ của ma quỷ năm xưa nơi vườn địa đàng.
Chúa Giêsu không dùng sức mạnh của Thiên Sai để chống lại ma quỷ, nhưng dùng chính sự yếu đuối của thân xác con người chống lại sự cám dỗ của ma quỷ bằng việc cậy trông vào Thiên Chúa, hơn là cậy dựa vào sức mạnh của bản thân: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra."
Ta thấy, nhờ cậy trông vào Thiên Chúa Cha, Đức Giêsu đã là người chiến thắng. Sự cám dỗ đầu tiên này của Đức Giêsu, không có lý do nào để nghĩ rằng nó chỉ có tính cách thiêng liêng mà thôi: Đức Giêsu đã thực sự thấy đói, trong chính thân xác của phàm nhân, và không phải chỉ trong quá trình một cuộc ăn chay khắc khổ trong hơn một tháng, Ngài còn bị đau khổ trong chính những biến cố của cuộc đời Ngài, thậm chí có lúc còn bị nao núng ngay trong chính thân xác của mình. Cám dỗ đầu tiên là cám dỗ chống lại sự cậy trông, nhưng Chúa Giêsu đã chiến thắng được bởi Ngài đã và luôn cậy trông vào Thiên Chúa.
Trong khi đó, dân Thiên Chúa bị thử thách vì đói và khát, đã sa ngã trong khi lẩm bẩm kêu trách Chúa (Xh 6,8). Vì thế, câu trả lời của Đức Giêsu luôn luôn có tính thời sự, và chất vấn chúng ta một cách mạnh mẽ: Trong những lúc thất vọng, chán chường hay đau khổ ê chề, chúng ta có dựa vào Thiên Chúa không hay chúng ta dựa vào chính bản thân rồi quay lại trách móc Thiên Chúa?
Có lẽ, một cách thực tế, khi gặp thử thách, gian nan và bế tắc, chúng ta sẽ là những người lồng lộn trước thử thách, trước đau khổ... Câu đầu tiên của chúng ta khi gặp những điều đó không phải là xin Chúa cho chúng ta sức mạnh của Ngài để chiến đấu chống lại những đau khổ và thử thách, nhưng chúng ta lại xin Chúa bỏ đi tất cả những gì gây đau khổ cho chúng ta, sự xấu mà chúng ta phải chịu. Khi xin không được thì chúng ta sẽ phản kháng, trách móc Thiên Chúa.
Không ai trong chúng ta được tránh khỏi hoạn nạn thử thách ở đời. Người tin Chúa cũng như người không tin đều phải đối diện với hoạn nạn, thử thách, khó khăn như nhau. Điểm khác biệt là phản ứng của chúng ta trước hoàn cảnh. Không phải khi tin Chúa chúng ta được miễn trừ khỏi khó khăn, nhưng khi sống với niềm tin nơi Chúa, chúng ta sẽ biết xử sự hay đối diện với hoàn cảnh như thế nào cho thích hợp.
Câu truyện về Gióp có thể được hiểu như một thử thách đối với đức tin. Gióp là người rất mực trung thành với Thiên Chúa và vì thế Thiên Chúa rất hài lòng về ông (G 1,1-5).
Thấy vậy, Satan xin Chúa để nó được phép thử thách ông, xem trong thử thách ông còn trung thành với Chúa không. Chúa cho phép. Satan được làm hại mọi sự ông có, nhưng không được đụng tới ông. Satan liền ra tay.
"Vậy một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: Trong lúc bò của ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơva đã xông vào cướp lấy; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.
Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: Lửa của Thiên Chúa từ trới giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.
Người này còn đang nói thì một người khác về thưa: Người Canđê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.
Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay" (G 1,13-19).
Tuy nhiên, qua mọi thử thách mà Satan bày ra: mất của cải, mất con cái, rồi nỗi đau thể xác của chính mình:
"Vậy Satan hành hạ ông Gióp, khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu. Ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi" (G 2, 7).
Trong cảnh khốn cùng đó, không những là người thân xung quanh xỉa xói ông mà ngay cả chính người vợ của ông cũng quay lại trách móc và xỉa xói ông, nhưng Gióp vẫn rất mực trung thành với Thiên Chúa và không hề buông lời trách móc Thiên Chúa: (G 2,10).
Chính vì niềm tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nên sau cùng Chúa đã thưởng công cho ông. Chúa khôi phục lại tất cả tài sản cho ông và Chúa tăng gấp đôi những gì ông có.
Đó chính là mẫu gương cho niềm tin của chúng ta ngày hôm nay. Liệu rằng trước đau khổ, chúng ta có giữ được niềm tin và lòng cậy trông vào Thiên Chúa hay không?
Xa hơn nữa, chúng ta thấy hình ảnh Chúa Giêsu khi chịu đóng đinh trên cây thập tự, cũng giống như lời cám dỗ của ma quỷ trong Tin Mừng hôm nay, đó là, quân lính chế diễu người và nói: “Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi” (Lc 23, 37). Rồi một trong hai kẻ phạm tội cũng cám dỗ Chúa: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa” (Lc 23, 39).
Trước cảnh bị cám dỗ và thách thức nhự vậy, có lẽ nếu Chúa Giêsu sử dụng quyền năng của Thiên Chúa để thoát khỏi cảnh hiểm nghèo là điều rất dễ dàng, nhưng Chúa vẫn một niềm cậy trông vào Thiên Chúa Cha: “Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha” (Lc 23, 45).
Đó chính là mẫu gương của chính Chúa Giêsu cho chúng ta thấy về những thử thách trong đời sống đức tin. Trong lúc đau đớn, đói khát nhất trên cây thập giá, Chúa Giêsu vẫn một niềm cậy trông vào Thiên Chúa Cha của Ngài mà phó hết cả linh hồn và xác trong tay Cha.
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Mỗi người chúng ta rất dễ dàng oán trách Chúa và buông xuôi tất cả linh hồn và thân xác khi gặp thử thách, gặp đau khổ.
Bước trên đường đời, mỗi người chúng ta từng ngày trôi qua đều phải gặp những khó khăn và thử thách cho riêng mình. Chúng ta có vượt qua được không là do chúng ta có biết cậy trông vào Thiên Chúa hay chúng ta quay trở lại trách móc Chúa? Có lẽ kinh nghiệm của chúng ta đều đã từng trải qua những chuyện đó, và mỗi người chúng ta tự xét lại chính mình xem chúng ta có đang cậy trông vào Thiên Chúa không? Hay chúng ta thường xuyên trách móc Chúa?
Nhưng chúng ta hãy tin rằng, trong mọi hoàn cảnh của thử thách Chúa luôn ở bên cạnh để giúp ta, và Ngài không để chúng ta quá sức chịu đựng nếu chúng ta biết trông cậy vào Ngài.
Trong lúc tuyệt vọng nhất, tên trộm lành đã cậy trông vào Chúa nên anh ta đã được cứu: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (Lc 23, 42).
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết cậy trông vào Chúa. Amen.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam