Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 51
Tổng truy cập: 1363379
CÂU HỎI CỦA GIOAN TẨY GIẢ.
CÂU HỎI CỦA GIOAN TẨY GIẢ.
CHỨNG TỪ CỦA CHÚA GIÊSU
Câu hỏi gợi ý
1) Làm sao giải thích câu hỏi của Gioan (11, 2-3)? Gioan đã nghe biết các “việc” gì của Chúa Kitô (11,2)? Phải chăng ông nghi ngờ, và nghi ngờ về điểm nào? Chúa Giêsu đã đưa ra lý chứng ngôn sứ nào để trả lời ông (11, 4-6)?
2) Câu hỏi của Gioan (11,3) được đặt trong thế giới chúng ta và trong Giáo Hội hiện nay như thế nào?
3) Chúa Giêsu đặt Gioan Tẩy Giả trong tương quan thế nào với mình (11,7-15)? Sứ vụ của Gioan Tẩy Giả liên tục hay đứt đoạn với trào lưu ngôn sứ của Cựu Ước? Sự cao cả của Gioan nằm ở chỗ nào (c. 11)?
*******
1) Các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, vào thời Mt, đã gặp nhiều lôi thôi với đồ đệ của Gioan Tẩy Giả (x. Cv 19,1-7 chẳng hạn), với “người phái Gioan”, những kẻ cứ mải lặp lại câu hỏi của thầy họ: Đấng Thiên Sai mà thầy loan báo có đúng là Chúa Giêsu không? Vấn đề thành ra còn mang tính cách thời sự khi Mt viết Tin Mừng, cũng như đối với chúng ta ngày nay: Phải chăng chúng ta không là người phái Gioan một cách nào đó khi còn mong chờ một Đấng Thiên Sai hùng mạnh khác đến thay đổi thế giới và canh tân mọi cơ cấu, khi chẳng dám tin rằng Chúa Giêsu thật sự đã hoàn tất mọi sự cho chúng ta? Và như vậy là Chúa Giêsu đã bị đặt lại vấn đề, vừa do câu hỏi của Gioan, vừa do thắc mắc của người đời, xưa cũng như nay.
2) Chẳng có người nào được Chúa Giêsu đề cập đến cách tỉ mỉ hơn Gioan Tẩy Giả. Một diễn từ rất sôi nổi, với những câu hỏi ngắn móc nối nhau, tất cả đều cho thấy Gioan là một đại ngôn sứ. Những điều Chúa Giêsu nói không chỉ mặc khải ý nghĩa vai trò của Gioan Tẩy Giả trong diễn tiến lịch sử cứu rỗi, mà còn cho thấy Gioan đã gây ấn tượng sâu xa cho Người đến chừng nào.
3) Câu hỏi mà vị Tẩy Giả nhờ môn đồ đặt ra là một câu hỏi đích thực, trang nghiêm. Mt chứng minh điều đó bằng cách cho biết Gioan hiện bị cầm tù, sống xa cách mọi người trong chốn lao lung. Ông đã nghe nói về các việc Chúa Giêsu làm, nhưng không tài nào giải thích được. Phải chăng ông đã chờ đợi những “việc” thuộc loại khác, như một phong trào quần chúng bột phát, một cuộc phán xét công thẳng trên các kẻ thù của Thiên Chúa chẳng hạn? Thế nhưng cuộc phán xét đầy sóng gió mà chính Gioan đã cảm thấy được vài dấu hiệu đầu tiên (khi Chúa Giêsu chịu phép rửa) lại đã chẳng xảy đến.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp không làm chứng về mình. Tuy nhiên, Người đã có thể đáp lại bằng một tiếng “phải” rõ ràng, đánh tan mọi nghi ngờ, như khi đứng trước vị thượng tế sau này. Song ở đây, Người tránh làm vậy, đồng thời lại chỉ cho Gioan con đường phải theo, con đường của mọi môn đồ: đó là biết nhìn các dấu hiệu và biết giải thích, biết nhận ra chúng như là “công việc” của Đấng Thiên Sai. Đấy là con đường của đức tin, khởi hành từ những hậu quả hữu hình để đi đến chỗ khám phá Chúa Giêsu. Đó là con đường đi từ tối tăm đến ánh sáng, từ dấu chỉ đến thực tại.
Nếu biết nhìn các công việc của Chúa Giêsu, nhất là nếu có khả năng liên kết chúng, ta sẽ chẳng chút nghi ngờ. Chính Chúa Giêsu đã chỉ con đường đức tin bằng một câu tuyên bố lấy lại một đoạn ngôn sứ Isaia: “Người mù được thấy” (Is 35, 5-6; 61,1). Thần Khí xức dầu cho Đấng Được Chọn đã ban cho Người khả năng thực hiện mọi kỳ công đó. Nhưng ta không được dừng lại nơi một trong các việc ấy, chỉ nhìn phép lạ này mà không thấy phép lạ kia, chỉ lắng nghe lời nói mà chẳng quan tâm đến việc làm. Không, tất cả đều bộc lộ khuôn mặt đích thực của Đấng Thiên Sai. Chúa Giêsu không chỉ là một nhà giảng thuyết lôi cuốn được quần chúng hay một tay chuyên làm phép lạ. Người đã chẳng chữa lành như một y sĩ mà thôi, song còn phục sinh được kẻ chết. Chính loàn thể công việc mới cho phép ta quyết đoán chắc chắn Người là Đấng Được Xức Dầu của Thiên Chúa đang hiện diện và hành động, Đấng mà Isaia đã từng loan báo.
4) Mới thoạt nghe, câu trả lời của Chúa Giêsu làm ta thất vọng, vì hình như nó chẳng trực tiếp mặc khải con người của Người. Thật ra nó bắt Gioan nhìn vào chính Chúa Giêsu: “Phúc cho người không phải vấp ngã vì Ta” (11,6) vì đã mách cho vị Tẩy giả biết một “chân phúc” mà ông sẽ khám phá ra ý nghĩa qua chính cuộc đời của ông. Tin rằng các dấu hiệu thiên sai vừa được nhắc lại cho ông (11, 5) đã thật sự được hoàn tất trong con người tầm thường, khiêm tốn của Chúa Giêsu, điều đó đòi hỏi một sự từ bỏ bản thân hoàn toàn, từ bỏ cho đến chết. Và đấy là điều mà Gioan thấy mình đang được kêu mời thực hiện.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Bấy giờ Gioan, đang ở trong tù… “: Gioan đã chẳng sợ phê bình hạnh kiểm của Hêrôđê Antipas, kẻ đang sống với chị dâu. Để khóa miệng ông, vị tiểu vương đã giam ông trong pháo lũy Makêron (lời chứng của F.Josèphe, Ant. Jud. XVIII, 5,2) nằm trên bờ đông Từ Hải. Tuy nhiên nhà vua vẫn đối xử tử tế với tù nhân và cho phép ông gặp môn đồ. Chính Gioan đã nhờ họ đi hỏi Chúa Giêsu.
“Ngài có phải là Đấng sẽ đến hay không?”: Khi nghe câu hỏi ấy, độc giả Tin Mừng không thể không nhớ lại lời Gioan đã nói về Chúa Giêsu: “Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi” (3, 11). Câu nói này là âm vang của Is 40, sấm ngôn mà Gioan cho là lời định nghĩa về sứ mạng riêng của mình: “Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa cho thẳng lối Thiên Chúa ta” (Is 40, 3; x. Mt 3, 3); phần tiếp trong sấm ngôn ấy có loan báo: “Này đây Chúa đến với uy hùng dũng lực và cánh tay Ngài sẽ thống trị” (c.10). Như thế sức mạnh là đặc điểm của “Đấng sẽ đến”.
Về tính chất của sức mạnh sắp biểu dương ấy, Gioan đã có những ý tưởng rất chính xác. Trước tiên ông so sánh nó với sức mạnh của người nông phu cầm rìu đốn ngã thân cây không sinh trái và ném vào lửa (3, 10). Ông cũng minh giải nó bằng hình ảnh người nông phu quét sạch sân lúa, thiêu đốt những gì không phải là giống tốt (c.12). Gioan kêu mời các tội nhân hối cải và ban cho họ phép rửa tha tội, mà họ phải mau mấn chịu lấy trước khi xuất hiện Đấng sẽ làm phép rửa bằng Thần Khí và lửa, một phép rửa hủy diệt (c. 11). Nói cách khác, Gioan thấy “Đấng sẽ đến” như là một Thẩm phán đáng sợ lấy lửa chẳng hề tắt mà tiêu trừ mọi tội nhân không ăn năn hối cải.
Ta cũng đi đến một kết luận như vậy khi khởi từ Ml 3, 1, một bản văn cũng được dùng để định nghĩa sứ mệnh Gioan (x Mt 11, 10): “Này Ta sai sứ giả Ta, và nó sẽ dọn đường trước mặt Ta”. Tiếp theo sứ giả, Chúa sẽ thân hành đến: “Ai chịu đựng nổi ngày Người đến? Ai đứng vững được khi Người hiện ra? Vì người đến như lửa của thợ luyện kim, như thuốc tẩy của người giặt ủi người sẽ ngự mà luyện kim, mà lọc bạc; Người sẽ thanh luyện con cái Lêvi…” (Ml 3, 2-3). Hình ảnh có thay đổi đấy nhưng bao giờ cũng vẫn là cuộc phán xét thanh luyện sẽ xô nhào tội nhân vào lửa.
Vì thế Gioan tự coi mình như có trách nhiệm chuẩn bị Israel đón chờ cuộc phán xét khủng khiếp; gương sáng và lời nói của ông chỉ muốn đưa tội nhân hối cải và thoát khỏi hình phạt đời đời đang đe dọa họ. Một khi “Đấng phải đến” xuất hiện, thì không còn giờ tránh thoát sức mạnh hủy diệt của Người. Đàng khác, Gioan cũng ý thức vai trò phụ tá của mình đối với Chúa Giêsu. Song những gì ông biết về cách thức Chúa Giêsu thi hành sứ vụ Người hoàn toàn không tương ứng với ý tưởng ông có về cuộc phán xét sẽ phải xảy ra. Do đó mà câu hỏi của ông đầy vẻ ngạc nhiên.
Hơn nữa, có một tương quan hiện sinh giữa câu hỏi của vị Tẩy Giả và thân phận tù đày của ông: Đấng Thiên Sai mong chờ sẽ giải cứu những tù nhân, nhất là các tù nhân đức tin (Lc 4, 18; Is 61, 1); phải chăng ông không là người đầu tiên được giải cứu?
“Các ông hãy đi tin lại cho Gioan mọi điều tai nghe mắt thấy”: Gioan biết các phép lạ Chúa Giêsu làm (c.2). Và Chúa Giêsu bảo ông hãy nhìn vào phép lạ. Đâu là sức mạnh của lập luận? Theo quan niệm bấy giờ, dựa trên các sách ngoại thư và truyền thống giáo sĩ Do Thái, thì ơn làm phép lạ tự nó không phải là một trong những đặc điểm của Đấng Thiên Sai. Như thế Gioan có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu không đóng vai trò và nhiệm vụ Đấng ấy. Thế nhưng Chúa Giêsu kêu mời Gioan suy nghĩ về những phép lạ đó bằng cách thu gộp chúng trong những từ ngữ gợi lại các sấm ngôn thiên sai. Nên Người đã chu toàn ít ra là một phần phận sự của Đấng Thiên Sai vậy.
Chúa Giêsu không phán trực tiếp và với uy quyền: “Ta là Đấng Thiên Sai”, song kêu mời Gioan hãy cứu xét những gì mà các sứ giả của ông có thể thấy và nghe, tức là công việc và lời nói của Chúa Giêsu: đấy là con đường duy nhất để đi tới đức tin. Thành ra những kẻ không tin và người mù và điếc (23, 16), chẳng có khả năng giải thích các dấu hiệu Chúa Giêsu ban ra (13, 13). Bởi vậy Chúa Giêsu có thể bảo với những ai theo Người: “Mắt các ngươi có phúc vì thấy, tai các ngươi có phúc vì nghe” (13, 16).
“Người mù xem thấy…”: Câu Chúa Giêsu trả lời không quy chiếu một bản văn nào nhất định (trừ Is 61,1) cho bằng quy chiếu toàn bộ các lời tuyên sấm mà sách Isaia đã dùng để mô tả các việc thiện của thời thiên sai… hơn là các hình phạt tiên báo. Gioan sẽ nhận ra lối ám chỉ đó. Ông sẽ hiểu rằng Chúa Giêsu không chỉ muốn quả quyết Người là Đấng Thiên Sai song còn đưa ra bằng chứng: hành động hào hiệp của Người thực hiện những gì mà Isaia đã loan báo về thời thiên sai. Nhưng đồng thời – và đây hẳn là cao điểm của câu trả lời – Chúa Giêsu kín đáo kêu mời Gioan quan niệm vai trò Đấng Thiên Sai dưới một khía cạnh hơi khác khía cạnh mà ông đã lưu tâm. Khía cạnh mới này thiếu hẳn tính chất uy hùng đến nỗi trở thành một cơ hội nghi ngờ cũng như tin tưởng. Đấy là điều mà câu tiếp minh nhiên khẳng định.
“Phúc cho ngươi không phải vấp phạm vì Ta”. Theo nghĩa đầu tiên, “cớ vấp phạm” trong Hy ngữ ám chỉ việc giăng bẫy, rồi được áp dụng cho chính cái bẫy, theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Trong bản Kinh Thánh Hy Lạp, nghĩa của nó còn rộng hơn nữa, và được dùng để nói về bất cứ chướng ngại nào trên đường, đặc biệt hòn đá vấp chân. Vậy “cớ vấp phạm” là tất cả những gì có thể gây ra một sự vấp ngã, và nói theo ẩn dụ, là nguyên nhân của một sa ngã luân lý hay tôn giáo. Trong Tin Mừng, thường có đối ngẫu giữa “vấp phạm” và “tin”: kẻ không chấp nhận tin hoặc suy yếu đức tin sẽ phải “vấp phạm”. Chúa Giêsu phát biểu cách tổng quát: “Phúc cho người không phải vấp phạm vì Ta”. Người chẳng nhắm Gioan trực tiếp, nhưng rõ ràng là lời ấy nhắc nhở ông vì nằm trong sứ điệp dành cho ông. Người tiên đoán câu Người trả lời cho Gioan có thể làm ông thất vọng. Giữa quan niệm của Gioan về Đấng Thiên Sai và quan niệm của Người, đối nghịch không phải nhỏ! Gioan có đi đến chỗ chấp nhận được mặc khải về tình yêu bày tỏ trong khiêm cung và yếu đuối chăng? Ta đừng ngạc nhiên về thử thách đang chờ đợi ông. Hãy nhớ lại phản ứng của Phêrô tại Césarée Philipphê (16, 22-23) hoặc phản ứng của Giona khi Thiên Chúa tha thứ cho thành Ninivê (Gn 4).
“Các người đi ra sa mạc để coi cái gì? cây sậy rung trước gió ư”. Ba lần, Chúa Giêsu hỏi tại sao thiên hạ đi ra sa mạc? Việc chỉ nơi chốn có vẻ mơ hồ. Nói đến sông Giođanô không rõ hơn. Nhưng việc nhắc đến sa mạc dễ gợi lên ngay hình ảnh con người xuất hiện như “tiếng kêu trong sa mạc” (3,3). Chính Gioan mà người ta nghĩ tới ngay từ đầu; con người của ông làm nổi bật các câu hỏi liên hệ tới ông.
Thiên hạ không đi vào sa mạc để nhìn xem một cây sậy phất phơ trước gió. Chắc hẳn Chúa Giêsu muốn đặt đối nghịch cây sậy với sự kiên cố bất lay chuyển của Gioan. Đức tính này làm cho Gioan gần giống với ngôn sứ Giêrêmia (Gr 1, 17-19), một con người bất khuất trước mọi sự nhờ luôn ý thức sứ mệnh thần linh của mình và nhờ được sức mạnh Thánh Thần Thiên Chúa nâng đỡ. Tính bất khuất ấy của Gioan là nơi đầu tiên nâng ông vượt trên thiên hạ và đặc trưng sự cao cả của ông.
“Để thấy một ngôn sứ ư? Phải! Ta bảo các người…”. Dòng dõi đứt đoạn của các ngôn sứ (1 Mcb 9, 27; Tv 74,9) đã được nối lại với Gioan Tẩy Giả. Và xét cho cùng, đó chính là cái lôi kéo mọi người đến với ông: Thiên Chúa lại bắt đầu phán bằng lời ngôn sứ, như Ngài đã từng làm trong bao thế kỷ qua tất cả lịch sử Israel. Những kẻ nghe Chúa Giêsu đều biết mọi điều ấy; lời của Người hẳn âm vang sâu xa trong tâm hồn họ. Nhưng Người còn nói hơn thế nữa.
“Và còn hơn ngôn sứ nữa”. Dân chúng đã nhận ra Gioan là một ngôn sứ; nhiều người còn coi ông hơn cả một ngôn sứ, nghĩa là chính Đấng Thiên Sai (Lc 3, 15; Ga 1, 20; Cv 13, 25); dĩ nhiên, ông lớn hơn một ngôn sứ, nhưng theo ý nghĩa khác: ông là vị Tiền Hô. Đấng mà mọi ngôn sứ trước đây loan báo, thì Gioan đã thấy và đã chỉ cho biết: ông vừa đứng ở tận điểm và cao điểm thời kỳ đoan hứa, vừa đứng nơi ngưỡng của thời đại mới, thời đại Nước Trời.
“Kẻ nhỏ nhất trong Nước trời lại lớn hơn ông”: Một câu khó hiểu từng phát sinh nhiều lối giải thích khác nhau. Một số nhà chú giải, trong đó có các Giáo phụ, cho rằng “kẻ nhỏ nhất” là chính Chúa Giêsu. Văn mạch quả thật có trình bày Chúa Giêsu như là “bạn của người thu thuế và tội lỗi ” (c. 19), Người có được đồng hóa một cách nào đó với các “kẻ nhỏ” ấy và nhờ vậy khác với Gioan (F.Dibelius, F.Hanck, W.Grundmann…). Nhưng lối giải thích này vấp phải nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất là ta không thấy làm sao, mặc dầu đã cố ý tự hạ, Chúa Giêsu lại có thể tuyên bố mình là “kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời”. Thật vậy, Chúa Giêsu không đi vào trong một Nước Trời đã được thành hình, nhưng là loan báo và thiết lập Nước ấy trong chính con người của mình.
Đúng ra, có lẽ không nên đem Chúa Giêsu vào mà so sánh. “Kẻ nhỏ nhất trong nước Trời” chỉ một trong những kẻ đã chấp nhận sứ điệp của Người. Tuy nhiên cần phải lưu ý. Khó mà cho rằng kẻ kém nhất trong họ về sự thánh thiện lại trổi vượt Gioan trong phương diện ấy: như thế là bảo Chúa Giêsu đã phân biệt sự cao cả của sứ mệnh thần linh (loan báo Đấng Thiên sai) và sự toàn thiện của người được trao sứ mệnh (sự thánh thiện riêng của Gioan), một lối phân biệt chẳng phù hợp tí nào với tư tướng Kinh Thánh: cao cả nhờ sứ mệnh được ủy thác, Gioan không thể bị xem như thua kém người môn đồ tồi nhất của Chúa Kitô về phương diện trung thành được. Thật ra ở đây không cố ý nói đến sự thánh thiện cá nhân, nhưng, như văn mạch cho thấy, là nói đến hai trật tự, hai kinh nghiệm, hai thiên chức. Gioan đã xuất hiện như một ngôn sứ cao cả vào lúc kết thúc thời gian hứa hẹn và chờ đợi, song ông vẫn chỉ là một tiền hô; sau ông, khi Chúa Giêsu xuất hiện, là bắt đầu thời đại cứu rỗi thiên sai mới mẻ và chung cục. Thuộc vào thời đại ấy là một số phận may mắn, vượt xa những gì đi trước. Thành ra, kẻ trông nhỏ nhất giữa các phần tử Nước Trời lại được cao cả hơn những ai thuộc về các thời trước vậy.
KẾT LUẬN
Tư tưởng thần học của đoạn văn này không dừng lại nơi Gioan Tẩy Giả song còn đi xa hơn. Đi xa hơn trước tiên bằng cách đối chọi sự cao cả trần gian với sự cao cả của Nước Trời sẽ đến. Sau đó bằng cách cho thấy: vai trò của vị Tiền Hô được soi chiếu nhờ phẩm cách thần linh của Chúa Giêsu, Đấng mà ông đi trước dọn đường. Phận sự của Gioan, và của các thánh nói chung, không phải là làm người ta chú ý đến mình, nhưng là dẫn đưa tới Chúa, Đấng họ đang làm chứng giữa loài người.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Câu hỏi môn đồ Gioan đặt ra cũng thượng được đặt do mọi thế hệ muốn đi tìm một thứ thiên sai chủ nghĩa mới, có tính cách triết học, chính trị hoặc xã hội. Đó là câu hỏi đặt ra do những ai mà đức tin trở nên do dự, mỏng dòn, do những ai thỉnh thoảng đi tìm trong các khuynh hướng tôn giáo khác (chiêu hồn, dị đoan, giáo phái) một câu trả lời cho bao mối lo âu của họ. Câu trả lời duy nhất nằm trong mặc khải về một Thiên Chúa nhân từ hằng ngỏ lời cách riêng với những kẻ nghèo nàn, khốn khổ để mang lại cho họ Tin Mừng cứu rỗi.
2) “Người què được đi”: Chúa Giêsu đem lại cho người lảo đảo sự vững lòng và sức mạnh, đặt họ lại trên con đường ngay chính. Giáo Hội cũng không ngừng trả lại cho con người khả năng bước đi trong con đường của Chúa Kitô để tiến đến sự sống sung mãn.
3) “Người mù được thấy”, họ không còn phải tìm một Thiên Chúa vô danh cách mò mẫm trong bóng tối nữa (Cv 17, 23- 28). Những kẻ sống nhờ Chúa Kitô là những người “nhìn thấy ánh sáng chan hòa” (Mt 4, 16) sau khi đã bước đi trong u tối.
4) “Kẻ phong cùi được sạch, người chết sống lại”: Không ai bị loại ra khỏi Nước Trời: cho dù bị tội ác và thất vọng bôi bẩn hay giết chết, người ta vẫn có thể sống lại nhờ đức tin vào Đức Kitô, Đấng nâng dậy và tha thứ, chữa lành và tác sinh.
5) Sứ mạng của Kitô hữu giống với sứ mạng của vị Tiền hô: chuẩn bị các tâm hồn sẵn sàng đón Chúa Kitô. Và như Gioan Tẩy giả, Kitô hữu sẽ được kêu mời chịu đau khổ vì đức tin.
6) Giáo Hội tiếp tục công việc của Chúa Giêsu. Nhờ Giáo Hội, “kẻ nghèo, tức chúng ta, “kẻ nghèo của Đức Giavê, được nghe loan báo Tin Mừng”, được phụng vụ Lời Chúa, bài giảng, giáo lý và giáo huấn của các vị lãnh đạo Giáo hội dạy dỗ cho. Chính Giáo Hội cũng chữa lành các tâm hồn và không ngừng bao bọc nỗi khổ thể xác của con cái mình bằng việc thực thi bác ái, giáng phúc thi ân.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Gioan Tẩy Giả đã xuất hiện từ lâu, cách đây hơn hai ngàn năm và Ngài đã cho môn đệ của Ngài đến gặp Chúa Giêsu, đặt câu hỏi như sau: “Thưa Thầy, Thầy có phải là Đấng Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi phải đợi ai khác” ( Mt 11, 3 ). Đây là vấn nạn mà Gioan Tẩy Giả trong suốt quãng đời rao giảng đã luôn thắc mắc, do đó, Gioan đã sai các môn đệ đến chất vấn Chúa để xem Chúa trả lời thế nào? Tuy nhiên, khi các môn đệ trở về để trả lời cho Gioan Tẩy Giả về những lời Chúa Giêsu nói, Gioan đã nhận ra ngay Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế phải đến trong thế gian. Vấn nạn của Gioan cũng cho chúng ta hiểu Chúa Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến trần gian, là Đấng cứu độ, Đấng mang ơn cứu rỗi cho mọi người…
Đấng Thiên Sai không phải là một Thiên Chúa như con người tự nghĩ, do con người vẽ ra. Thực tế, dân Do Thái xưa và ngay chính các môn đệ cứ tưởng Đấng cứu thế phải là một Vị Vua thật oai phong, đánh Đông, dẹp Bắc, Đấng tới để khôi phục Vương Quyền cho Israen, để rồi muôn dân sẽ được sung sướng, giầu sang phú quí theo kiểu trần gian và rồi các môn đệ sẽ được chia nhau ghế ngồi trong nội các của Vua Giêsu.Chúa Giêsu đã đến thế giới trong cảnh nghèo nàn của hang đá máng cỏ Bêlem. Chúa Giêsu đã lớn lên trong gia đình Nagiarét nơi làng quê không có gì làm nổi bật, không có gì là giầu có. Chúa đồng hóa với những con người khó nghèo, cơ cực, những người bị tù đầy, những người neo đơn, tất bạt. Chúa đến như một vị Vua hiền từ, khiêm nhượng, và rồi trong ba năm giảng đạo, Ngài đã đi đây đi đó:” Chồn có hang, chim có tổ, con Người không có đá gối đầu “. Ngài đã tiến vào Giêrusalem trên mình con lừa, được trẻ em Do Thái và dân chúng tung hô là Vua, nhưng cái trớ trêu Vua là Vua thiêng liêng, Vua nhân hậu, Vua không quân đội, không có cung điện như các Vị Vua trần gian.Loài người, con người ở muôn thời vẫn cứ mường tượng, vẫn cứ suy nghĩ, vẫn cứ vẽ ra một Vị Vua theo ý của họ. Tuy nhiên, Vua Giêsu là Vua mà ngôn sứ Isaia đã loan báo: “ Đấng làm cho kẻ mù xem thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ què đi được, người cùi được sạch, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe giảng Tin Mừng “ ( Mt 11, 5 ).Té ra Đấng Thiên Sai là như thế! Ngài là Vua uy quyền, oai phong nhưng lại hết mực nhân từ, khiêm nhường. Câu trả lời duy nhất của Chúa cho các môn đệ của Gioan đến găp Chúa: “Các anh cứ về thuật lại cho ông gioan những điều mắt thấy tai nghe”( Mt 11, 4 ).
Đọc lại Tin Mừng và suy nghĩ kỹ câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Gioan Tẩy Giả, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì những điều con người vẽ ra về một Đấng Cứu Thế hoàn toàn sai lạc. Đấng Cứu Thế mãi mãi từ muôn đời vẫn chỉ là Một Con Thiên Chúa làm người thật nhân hậu, hiền lành và đầy yêu thương. Chúa Giêsu luôn là Đấng Thiên Sai như ngôn sứ Isaia đã loan báo từ bao nhiêu nghìn năm trước. Dung mạo của Ngài trước sau vẫn chỉ là Đấng Cứu Thế hiền lành và khiêm nhượng.
Gioan Tẩy Giả chỉ là Đấng dọn đường cho Chúa.Ngài cũng là người hạnh phúc vì được giới thiệu Đấng Cứu Thế cho nhiều người.Chúa Nhật III Mùa Vọng nói lên niềm vui vì Đấng Thiên Sai đã gần đến như lời thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê đã viết: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa!Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên! Vì Chúa đã đến gần “ ( Pl 4, 4-5 ).
Xin mượn lời Véronique Margron để kết luận bài suy niệm này: “Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng chuẩn bị con đường này. Những người bạn đồng hành, những con người nghèo khó hay cả những người tàn tật, họ đang ở đây quanh ta. Nơi đây, không có chỗ cho những ai nghĩ rằng mình tốt lành, hay nghĩ rằng mình có mọi thứ. Đấng chúng ta hy vọng sẽ không lừa dối chúng ta. Ngài không hứa hẹn một thế giới không bạo lực và không có sự dối trá. Sự Giáng sinh, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Ngài thể hiện cho chúng ta thấy sự gần gũi thân ái bằng chính cả cuộc sống của Ngài…Để tưới mát tâm hồn đang khô cằn trong ta, chúng ta không cần phải chờ đợi một ai khác ngoài Đấng mang hy vọng.
Lạy Chúa Giêsu, xin mau đến. Maranatha, xin hãy đến. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
-
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho các môn đệ của Gioan đến gặp chúa Giêsu?
-
Quan niệm của dân chúng thời Chúa Giêsu nghĩ gì về Ngài?
-
Dung mạo đích thực của Chúa Giêsu?
-
Gioan Tẩy Giả là ai?
-
Chúa Nhật III Mùa Vọng nói lên gì?
49.. Chú giải của William Barclay
GIỌNG NÓI CHÚA GIÊSU (11,1-6)
Sứ vụ Gioan Tẩy Giả kết thúc trong nỗi đớn đau khốc liệt. Gioan chẳng có thói quen gia giảm chân lý cho vừa ý người khác, cũng không thể nào thấy điều gian ác mà không quở trách. Gioan đã nói rất mạnh dạn thẳng thắn đến luỵ cả bản thân.
Trong chuyến du lịch từ Galilê đến Rôma thăm em trai, vua Hêrôđê Antipa đã quyến rũ vợ của em mình. Khi trở về xứ, ông bỏ vợ chính thức để cưới em dâu mà ông đã dụ dỗ. Gioan công khai và nghiêm khắc quở trách Hêrôđê. Dám chỉ trích một vị vua phương Đông thì không bao giờ được yên thân. Hêrôđê đã trả thù: Gioan bị quăng vào ngục Machaerus, trong vùng núi gần Biển Chết.
Đối với người bình thường số phận đó là rất khủng khiếp; riêng đối với Gioan thì càng kinh khủng bội phần. Ông là đứa con của hoang địa, cả đời sống ngoài trời bao la, với gió thoảng mây ngàn, thế mà bây giờ phải chôn chân trong bốn bức tường chật hẹp dưới mặt đất. Với Gioan, một người có lẽ chưa hề sống tù túng dưới một mái nhà nào, điều này quả là một nỗi thống khổ không lường được.
Trong lâu đài Carlisle có một phòng giam nhỏ. Ngày xưa có lần người ta tống giam một sĩ quan biên phòng vào đó trong mấy năm liền. Phòng giam đó có một cửa sổ nhỏ trên cao, người đứng dưới đất không thể nhìn ra ngoài được. Sau này người ta thấy trên vách đá bên mép cửa sổ có hai dấu lõm vào. Đó là dấu tay của người sĩ quan biên phòng ngày ngày đu mình lên đó để được nhìn ra giải thung lũng xanh rờn, nơi ông ta không bao giờ còn hy vọng trở lại nữa.
Chắc Gioan cũng mang một tâm trạng như thế cho nên không có gì đáng ngạc nhiên hoặc đáng chỉ trích khi ta thấy những thắc mắc bắt đầu thành hình trong trí ông. Ông đã tin Chúa Giêsu là Đấng phải đến, là Đấng Mêsia mà dân Do Thái nóng lòng mong đợi (Mc 11,9; Lc 13,35; Dt 10,37; Tv 118,26). Một người sắp chết thì không thể nào để cho lòng mình vương vấn chút ngờ vực nào. Ông cần phải biết thật chắc nên ông sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng? Hay chúng tôi còn phải đợi Đấng khác?”. Câu hỏi đó có thể có nhiều lý do:
-
Một số người cho rằng câu đó không phải là câu hỏi cho Gioan mà là cho các môn đệ của ông. Có thể khi Gioan đàm đạo với môn đệ mình trong tù, họ hỏi ông Chúa Giêsu có thất là Đấng phải đến không, Gioan bảo họ: “Nếu các ngươi nghi ngờ, chưa rõ Giêsu là ai thì hãy đi xem Ngài đang làm gì, và có thể làm được những gì, lúc đó các ngươi sẽ hết nghi ngờ ngay”. Nếu có ai cãi lý với chúng ta về Chúa Giêsu và thắc mắc về quyền năng tối thượng của Ngài, câu trả lời hay nhất không phải là dùng lý luận chống lại lý luận, nhưng là: “Anh đã giao phó đời sống anh cho Ngài thì sẽ thấy quyền năng hành động của Ngài”. Cách tranh biện tốt nhất cho Chúa không phải là dùng lý lẽ tri thức nhưng là đưa ra kinh nghiệm về quyền năng biến cải của Ngài.
-
Có thể câu hỏi của Gioan là do thiếu kiên nhẫn. Sứ điệp của Gioan là sứ điệp về nhận xét (Mt 3,7-12). Cái búa đã để kề gốc cây, việc sàng sảy đã khởi sự, lửa phán xét thanh tẩy của Chúa đã bắt đầu chay. Có thể lúc đó Gioan nghĩ rằng: “Khi nào Chúa Giêsu mới bắt đầu hành động? Khi nào Ngài mới bắt đầu tiêu diệt kẻ thù, thiêu huỷ cái ác? Khi nào ngày huỷ diệt thánh của Chúa mới khởi sự?”. Có thể Gioan đã mất kiên nhẫn vì Chúa Giêsu đã không hành động như ông mong đợi. Một điều chắc chắn là người nào chờ đợi Chúa Giêsu giáng cơn giận bạo tàn, sẽ luôn luôn bất mãn về Ngài, nhưng ai tìm kiếm tình yêu nơi Ngài sẽ không bao giờ thất vọng.
-
Một số người cho rằng câu hỏi của Gioan phát xuất từ niềm vui và hy vọng đang vươn lên. Ông đã thấy Chúa lúc Ngài chịu phép rửa, bây giờ ở trong tù ông càng nghĩ nhiều hơn về Ngài. Càng suy nghĩ, ông càng tin chắc Ngài là Đấng phải đến. Và bây giờ ông đặt tất cả hy vọng của mình vào câu hỏi trắc nghiệm này. Có thể đây không phải là câu hỏi của một người thất vọng và thiếu kiên nhẫn mà là câu hỏi của một người mà ánh mắt đang sáng ngời hy vọng, một người hỏi chỉ cốt để xác minh hy vọng của mình.
Chúa Giêsu trả lời câu hỏi đó với giọng đầy tin tưởng: “Hãy về đừng thuật lại cho Gioan những điều Ta nói, nhưng hãy thuật lại những điều Ta làm. Đừng thuật lạ cho Gioan những gì Ta cao rao, nhưng hãy thuật lại cho Gioan những điều xảy ra”. Chúa Giêsu bảo người ta hãy dùng những trắc nghiệm gay go nhất để thử Ngài, trắc nghiệm về hành động và kết quả. Chúa Giêsu là người duy nhất có thể thách thức người ta phê phán những việc Ngài làm không cần giới hạn, không cần điều kiện. Lời thách thức của Ngài vẫn không đổi thay. Ngài không kêu gào: “Hãy nghe những điều Ta phán đây”, nhưng Ngài nói: “Hãy nhìn xem những điều Ta có thể làm cho các ngươi cùng những điều Ta đã làm cho nhiều người khác”.
Những điều Chúa Giêsu làm ở xứ Galilê thì Ngài vẫn còn làm ngày nay. Trong Ngài, những ai đui mù không thấy được sự thật về chính mình, về người khác và về Thiên Chúa, đều được sáng mắt. Trong Ngài, những ai có đôi chân yếu ớt, không đủ sức đứng vững trong đường ngay nẻo chính đều được mạnh mẽ. Trong Ngài, những ai bị tì ố vì tội lỗi đều được thanh tẩy. Trong Ngài, ai không nghe được tiếng nói của lương tâm và của Chúa đều bắt đầu nghe được. Trong Ngài, những kẻ chết và bất lực trong tội lỗi đều bắt đầu sống lại cuộc đời mới và thánh thiện. Trong Ngài, những người nghèo được hưởng tình yêu sung mãn của Thiên Chúa.
Nhưng cuối cùng là lời cảnh cáo: “Phúc thay người người nào không vấp ngã vì Tôi”. Chúa phán điều này với Gioan vì Gioan chỉ nắm có phân nửa chân lý. Gioan rao giảng Tin Mừng về sự thánh thiện, với sự huỷ diệt từ trời, Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng về sự thánh thiện, với tình yêu từ trời. Vì vậy Chúa Giêsu nói với Gioan rằng: “Có thể Ta không làm điều ngươi trông đợi Ta, nhưng những quyền lực tà ác đang bị đánh bại, bị đánh bại không phải bởi sức mạnh vô địch mà bởi tình yêu vô hạn”. Đôi khi người ta bị vấp phạm vì Chúa Giêsu bởi Ngài cắt ngang quan điểm của họ về tôn giáo, Ngài không làm theo đúng suy diễn của họ về tôn giáo.
GIỌNG TÁN TỤNG (11,7-11)
Ít người được Chúa Giêsu ca ngợi nhiều như Gioan Tẩy Giả. Mở đầu cho câu chuyện, Ngài hỏi dân chúng là họ đi xem gì trong hoang địa khi họ đổ xô đi xem Gioan.
-
Có phải họ đi xem cây sậy trong gió rung không? Điều này có thể mang một trong hai ý nghĩa:
-
Dọc bờ sông Giođan có những cây sậy dài và cây sậy bị gió rung là một thành ngữ để chỉ những cảnh thông thường nhất. Khi dân chúng đổ xô đi xem Gioan, phải chăng họ đi xem một cái gì bình thường, bình thường như những cây sậy vẫn bị gió rung bên bờ sông Giođan?
-
Cây sậy bị gió rung có thể chỉ “một người mềm yếu” một người không thể đứng vững trước những ngọn gió thử thách hiểm nguy như cây sậy bên bờ sông không thể đứng thẳng khi gió thổi qua.
Dù dân có đổ vào hoang địa để xem gì đi nữa, chắc chắn họ cũng không đi tìm xem một người bình thường. Sự kiện dân chúng đổ xô đi xem, cho thấy Gioan là người hết sức khác thường, vì không ai lại băng ngàn lội suối vào tận hoang địa để xem một người bình thường như mọi người mình gặp hằng ngày. Dù có đi xem chăng nữa, họ cũng không xem một người chao đảo hèn yếu. Hạng người khom lòng cúi gập mình chẳng bao giờ có thể trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình thường cũng không phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió.
-
Có phải họ đi xem một người mặc áo đẹp chăng? Một người như thế phải ở trong cung điện nhà vua và chắc chắn Gioan không phải là một người trong cung điện. Ông không biết tí gì về nghệ thuật lấy lòng vua. Trái lại ông theo đuổi nghề bạc bẽo hiểm nguy của một kẻ can gián vua. Gioan sứ giả của Chúa chứ không phải là triều thần của vua Hêrôđê.
-
Có phải họ đi xem một ngôn sứ không? Ngôn sứ là người rao truyền chân lý của Chúa, là người được Chúa tin tưởng: “Cũng vậy, Chúa chẳng có làm việc gì mà Ngài chưa tỏ sự tín nhiệm Ngài ra trước cho tôi tớ Ngài là các ngôn sứ” (Am 3,7). Có hai điều về ngôn sứ: đó là người mang sứ điệp của Chúa và là người can đảm nói ra sứ điệp đó. Ngôn sứ là người có sự khôn ngoan của Chúa trong tâm trí, có chân lý của Chúa trong miệng và có sự can đảm của Chúa trong lòng, đó là điều chắc chắn Gioan có.
-
Nhưng Gioan có điểm vượt xa hơn một ngôn sứ. Người Do Thái đã và vẫn tin rằng trước khi Đấng Mêsia đến, Êlia trở lại để loan báo việc Ngài đến. Cho đến ngày nay, khi cử hành Lễ Vượt Qua, người Do Thái vẫn còn chừa một ghế trống cho Êlia “Nầy Ta sẽ sai ngôn sứ Êlia đến cùng các ngươi trước ngày lớn và đáng sợ của Đức Chúa sẽ đến” (Ml 4,5). Vì vậy Chúa Giêsu nói Gioan chính là vị sứ giả từ trời, là nhà tiên phong của Chúa, có nhiệm vụ và đặc quyền loan báo sự xuất hiện của Đấng Mêsia. Gioan là một sứ giả của Chúa và không một người nào có công tác lớn hơn công tác đó.
-
Chúa Giêsu dành cho Gioan những lời ca ngợi chí tình như thế này, Ngài nói về con người đó bằng giọng tán tụng. Trong suốt lịch sử không hề có ai được tôn trọng hơn Gioan, nhưng tiếp đó là một câu bất ngờ “Tuy nhiên kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”.
Đây là một chân lý chung cho mọi đời. Sự xuất hiện của Chúa Giêsu đem đến cho thế gian này một cái gì mới mẻ. Các ngôn sứ là những người vĩ đại và sứ điệp của họ rất quý báu, nhưng sự xuất hiện của Chúa Giêsu làm nổi bật lên một cái gì vĩ đại hơn, một sứ điệp tuyệt diệu hơn. Ông C.G. Monterfiore, một người Do Thái không tin Chúa, viết: “Kitô giáo đánh dấu cho một kỷ nguyên mới trong lịch sử tôn giáo và văn minh nhân loại. Những điều thế giới nhận được từ Chúa Giêsu và Phaolô thật lớn lao. Sự vật và tư tưởng con người không thể nào giữ y nguyên như trước khi hai vĩ nhân này xuất hiện”. Ngay cả một người không tin Chúa cũng phải vô tư thừa nhận rặng mọi việc bây giờ không thể nào giống như trước khi Chúa Giêsu đến.
Nhưng Gioan đã thiếu điều gì? Cái gì người Kitô hữu có nhưng Gioan không bao giờ có thể có? Câu trả lời rất đơn giản và cũng rất căn bản: Gioan chưa hề thấy Thập giá. Vì thế Gioan không thể nào biết được sự mặc khải trọn vẹn về tình yêu của Thiên Chúa. Ông có thể biết về sự thánh thiện của Chúa, có thể nói về sự công chính của Ngài, nhưng ông không bao giờ có thể biết về tình yêu đầy tràn của Thiên Chúa. Nghe sứ điệp của Gioan và đối chiếu với sứ điệp của Chúa Giêsu, không ai có thể gọi sứ điệp của Gioan là Phúc Âm, là Tin Mừng. Ta thấy cái ý trong sứ điệp của Gioan là đe doạ, huỷ diệt; còn Chúa Giêsu thì Thập Giá của Ngài bày tỏ cho người ta thấy chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu Thiên Chúa. Điều ngạc nhiên là một Kitô hữu bình thường cũng có thể biết về Chúa nhiều hơn Đấng ngôn sứ thời Cựu Ước. Chúng ta có thể biết nhiều về tấm lòng của Chúa hơn ngôn sứ Isaia, Giêrêmia hoặc các ngôn sứ khác. Người nào thấy được Thập Giá là thấy được cả tấm lòng của Chúa, theo một cách mà không ai sống trước Thập Giá lại có thể thấy được. Chỉ trong Thập Giá của Chúa Giêsu, chúng ta mới thấy được mặc khải trọn vẹn về tình yêu của Thiên Chúa. Như thế, quả thật kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời thì lớn hơn bất cứ người nào trước đó.
Gioan đã phải chịu một thân phận hẩm hiu như một số người là ông chỉ dẫn cho người ta đi đến một chân trời xán lạn mà chính mình lại chưa được đến. Một số người được dùng làm bảng chỉ đường của Chúa, họ chỉ cho người ta đến một lý tưởng mới, một tầm cao mới để người khác bước vào, còn họ thì chưa vào được. Những người đại cải cách có tên tuổi gắn liền với các cuộc cải cách trong lịch sử thường không phải là những người đầu tiên lao thân khổ trí vì những cuộc cải cách đó. Trước khi ông ta xuất hiện trên sân khấu lịch sử, đã có nhiều người đi trước. Những người này không nhìn thấy vinh quang của cuộc cải cách nhưng đã đổ công sức, đôi khi đã chết vì nó. Có một người kể lại quang cảnh mà ông ta thường thấy qua cửa sổ nhà ông ta mỗi tối. Đêm nào ông cũng chờ mong người thắp đèn đi dọc theo con đường để đốt những ngọn đèn, nhưng người đốt đèn lại là người mù. Ông ta mang ánh sáng đến cho mọi người mà chính ông ta lại không bao giờ thấy được.
Đừng ai thất vọng (dù trong Hội Thánh hay trong bất cử nẻo đường nào của cuộc đời), nếu những điều mơ ước và theo đuổi không thực hiện được trước buổi xế chiều của đời mình. Thiên Chúa cần Gioan, cần những người làm dấu chỉ đường để cho người khác biết đường, mặc dầu chính họ không đạt đến đích. Chỉ có người khác một mục tiêu, dù chính mình chưa đạt đến mục tiêu đó, là một phận sự lớn lao trong đời sống.
50. Anh em ra xem gì? – Lm. HK
Trong cuốn “Thư ngỏ tuổi đôi mươi”, André Maurois cảnh báo về “những mối nguy của thời đại chúng ta”, về cái dại khờ đáng kể trong sự nhận biết. Ông viết:
Chúng ta đã thấy những cái điên khùng không tưởng tượng nổi. Nhật báo Anh đã đăng tin một nhà chơi dương cầm vô danh quảng cáo rầm rộ rằng sẽ có một buổi diễn tấu nhạc yên lặng. Đúng ngày đó, phòng chật ních thính giả. Bậc diệu thủ im lặng ngồi trước mặt đàn, làm bộ chơi đàn không gây một âm thanh nào cả. Thính giả liếc trộm các người ngồi bên xem có nên phản kháng không. Nhưng các ông ngồi bên cứ thản nhiên, cử toạ đều kiên nhẫn, ngồi yên. Sau hai giờ yên lặng buổi tấu nhạc chấm dứt. Nhạc sĩ đứng dậy chào thính giả. Cử toạ nồng nhiệt vỗ tay khen. Hôm sau, trên vô tuyến truyền hình, nhạc sĩ im lặng đó kể lại câu chuyện và kết: “Tôi muốn biết xem cái ngu xuẩn của con người tới mức nào; nó thật vô biên.”
Maurois nói: “Tôi thì tôi không nói “cái ngu xuẩn” mà nói “cái nhu nhược” của con người. Những thính giả đó biết rằng họ không nghe thấy gì cả, nhưng họ sợ rằng nếu phản kháng thì không hợp thời.”
Cái vấn đề ở đây không phải là phải gọi nó như thế nào, mà là người ta có thực sự muốn tìm kiếm sự thật hay không.
Đấng Cứu Thế đã đến, với những dấu chỉ đã được tiên tri Isaia tiên báo: “Người mù xem thấy, kẻ què bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được …” nhưng sự cứng lòng của dân chúng mới thực sự là vấn đề phải quan tâm. Cái trở ngại đáng kể cho việc đón nhận Đấng Cứu Thế là người ta chỉ ao ước và tìm kiếm một ơn cứu độ đậm màu trần tục, mà không nhận ra và từ chối, và chống đối chính Đấng Cứu Thế: “phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.”
Cho một cuộc vui, thì việc không thấy được điều cần thấy cũng có thể được trả lời bằng một lý do biện minh nào đó, nhưng chẳng thể coi câu hỏi về ơn cứu độ là một trò đùa: “Anh em ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng?” (Mt 11,7-8)
Gioan xác tín Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, và rao giảng về Người: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa.” (Mt 3,11). Thế nên khi Chúa Giêsu đến xin ông làm phép rửa cho thì “ông một mực can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3,14)
Vậy thì tại sao ông lại khi sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu “Thầy có thật là Đấng phải đến không”? Khi sai môn đệ đến hỏi Chúa về điều mà ông đã xác tín, Gioan muốn gửi một sứ điệp đến chúng ta, để chúng ta ý thức rằng tin không là việc chạy theo số đông, mà là dấn thân một cách ý thức cho một chọn lựa riêng tư và quan trọng nhất của đời mình;
Cuộc dấn thân đó là hết sức quan trọng vì người ta chỉ có một cuộc đời để sống, và không có chỗ để thử: “Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?”
Tin theo Đấng Cứu Thế là một cú nhảy chí mạng nên đã tin là phải theo đến cùng, như thánh Giacôbê cổ vũ các tín hữu sơ khai kiên nhẫn, đón chờ kết quả phải đến của đời sống đức tin: “xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá.” (Gc 5,7)
Một người đàn bà mua vé xe lửa đi qua một vùng có nhiều phong cảnh đẹp để thưởng ngoạn. Lên tàu, bà loay hoay mãi mới để các gói hành lý lên giá cho đúng ý mình, rồi chỉnh lại màn che cửa sổ cho phù hợp với ánh nắng, rồi lại đi lên đi xuống kiếm cho được một chỗ ngồi êm ái, rồi mở ví ra kiểm tra lại xem tiền có còn đủ cho chuyến về không, và tính toán xem có thể mua những gì với túi tiền của mình.
Cuối cùng, khi vừa ngồi yên để thưởng ngoạn phong cảnh đẹp bên ngoài thì cũng là lúc tàu đến chỗ chỗ dừng tàu. Bà càu nhàu: “Xe chạy mau quá, chưa kịp xem gì thì đã đến nơi rồi!”
Cuộc du ngoạn của đã bị đánh mất, vì những việc chẳng đâu vào đâu! Thế nhưng đâu là những việc choán đầy cuộc sống của tôi hôm nay? Phải chăng cuộc đời tôi giống như những gì được ĐHY Nguyễn văn Thuận đã mô tả: “Đứng trên tầng lầu cao nhìn xuống đường, con thấy làn sóng người cuồn cuộn. Đủ loại xe, đủ hạng người, dành nhau, tông nhau, đâm đầu chạy, vội vã hấp tấp, hốt hoảng, vì tình, vì tiền, vì tham vọng, vì đua sống.” (ĐHV 82)
Tôi nói rằng tôi tin vào Chúa … nhưng nay Chúa đang ở đâu trong đời tôi?
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam