Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 22

Tổng truy cập: 1363791

CẦU NGUYỆN

CẦU NGUYỆN

 

Đoạn Tin Mừng hôm nay bắt đầu như sau: “Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Nhiều người chưa thấy giá trị của sự cầu nguyện liên tục. Họ nghĩ chỉ cần cầu nguyện khi có việc cần Chúa giúp, thế là đủ. Chuyện sau đây là câu trả lời cho những người ấy.

Có một thành phố nhỏ kia có đầy đủ mọi cơ quan và dịch vụ cần thiết như bệnh viện, trường học, nhà thờ, tòa án, chợ, tiệm may, tiệm ăn… Chỉ thiếu một điều là không có thợ sửa đồng hồ. Bởi vậy các đồng hồ lớn đồng hồ nhỏ của những cư dân thành phố này dần dần cái thì hư, cái thì chạy sai. Một số người quẳng đồng hồ vào tủ. Một số khác cố gắng tự mình lau chùi, sửa chữa rồi tiếp tục dùng tạm mặc dù những chiếc đồng hấy chạy không được chính xác lắm.

Một ngày kia có một người thợ sửa đồng hđến thành phố. Mọi người rất mừng, ai nấy đều mang đồng hđến nhờ anh sửa. Tuy nhiên anh nói thật: “Tôi chỉ có thể sửa những chiếc đồng hồ nào còn chạy. Còn những chiếc nào đã ngưng chạy từ lâu thì tôi không sửa nổi vì chúng rỉ sét hết rồi”.

Cầu nguyện luôn cũng giống như giữ cho chiếc đồng hồ đời ta luôn luôn chạy.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện luôn, vì:

- Sự cầu nguyện luôn soi sáng niềm hy vọng và những dự định của chúng ta.

- Sự cầu nguyện luôn giúp ta khám phá ra những ước vọng chân thật, những ray rứt lương tâm bị bóp nghẹt, những nỗi khát khao bị quên lãng.

- Sự cầu nguyện luôn chỉ cho ta thấy những lý tưởng cao đẹp cần vươn tới.

- Và nhất là sự cầu nguyện luôn giữ ta thường xuyên gần gũi với Chúa.

 

43.Cầu nguyện

Một bức thư được viết nguệch ngoạc của một đứa trẻ gửi vào bưu điện, và địa chỉ tới nhà Chúa. Nhân viên bưu điện lấy làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng: “Chúa thân mến, con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khđể nuôi sáu anh em chúng con. Xin Chúa cho chúng con 300 đồng nhé”.

Đọc thư xong, anh nhân viên bưu điện rất xúc động và đưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới địa chỉ cậu bé.

Vài tuần sau, họ nhận được lá thư thứ hai. Họ cũng mở ra đọc, thư viết như sau: “Lần tới, Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200 đồng!”

Nghe xong câu chuyện, chúng ta phải bật cười vì sự ngây ngô của cậu bé, nhưng liền sau đó chúng ta lại cảm thấy hổ thẹn vì thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong hình ảnh cậu bé: Chúng ta cầu nguyện và muốn được Chúa đáp lời tức thì theo yêu cầu chúng ta đề ra, nếu Người chậm đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ “chỉ tiêu” chúng ta đưa ra, thì chúng ta lại khó chịu, và cũng chẳng thèm cám ơn Người.

Tin Mừng hôm nay Chúa dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Người muốn chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì dang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà góa suốt bao ngày tháng cầu xin quan tòa minh xét cho bà, như thánh Monica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augustinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.

Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi người.

Thường chúng ta lầm tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng thánh Phaolô dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa”. Vì thế, Đức Tổng Giám mục Fulton Sheen viết: “Pytago đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả”. Khôn ngoan hơn, Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết tường tận những gì lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến.

Như thế, cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành đức tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong đức tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.

 

44.Thiên Chúa sẽ ban cho tôi điều tốt nhất

Lời cầu “xin” là thái độ của người nghèo, của tạo vật cần Thiên Chúa. Đây là thái độ đúng đắn diễn tả thân phận con người, nên đẹp lòng Thiên Chúa. Lời cầu nguyện không chỉ là xin ơn, nhưng còn là lời cảm tạ và ca khen Thiên Chúa. Tuy vậy, thái độ “cần” Thiên Chúa, được diễn tả qua lời cầu “xin”, là nền tảng của lời cầu nguyện.

Lời “Xin” trong Kinh Chúa dạy

“Lạy Cha chúng con ở trên trời, nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện…Xin Cha cho chúng con…”. Lời trong kinh Lạy Cha nói lên khao khát ước vọng của con người, về nhu cầu thiêng liêng và về nhu cầu vật chất.

Xin Cha làm cho Danh Cha cả sáng, xin Cha làm cho con người tin nhận quyền Cha, để Danh Cha cả sáng. Xin Cha làm cho Nước Cha trị đến, bằng cách làm cho con người biết yêu thương, biết sống theo luật của Đức Yêsu. Xin Cha cho chúng con lương thực cần dùng. Chúng con cần Chúa, để chúng con có lương thực hằng ngày, để chúng con được ơn tha thứ, để chúng con khỏi sa ngã phạm tội. Chúng con cần Chúa để nên thánh, để sống bình an và hạnh phúc.

Chúng ta bất lực. Chúng ta cần Chúa để làm tất cả, thế nên chúng ta xin Chúa để làm tất cả mọi điều chúng ta phải làm, ngay cả những điều như thể chỉ tuỳ thuộc nơi chúng ta. Xin Chúa cho chúng con luôn luôn tuỳ thuộc vào Chúa trong mọi chuyện.

Môsê giơ tay cầu nguyện

Sách Xuất Hành cho thấy hiệu lực lời cầu nguyện của Môsê: khi ông giơ tay lên cầu nguyện, Yosua và binh lính Israel thắng trận, khi ông hạ tay xuống, bên đối nghịch Amalek thắng trận. “Bè để qua sông, qua sông hãy quên bè”. Đừng vác bè mà đi! Hãy đón nhận sứ điệp, đừng bận tâm quá những điều không cần thiết, hoặc làm mình quên mất điều chính. Sứ điệp của đoạn Lời Chúa: lời cầu xin thật hữu hiệu.

Đức Yêsu kể dụ ngôn về ông thẩm phán, không sợ Thiên Chúa, không sợ con người, nhưng chỉ sợ người ta làm phiền, nên phải làm theo lời thỉnh cầu của bà goá. Nếu con người, vì sợ bị phiền mà phải làm theo điều người ta xin, thì huống chi là Thiên Chúa, Đấng luôn luôn yêu thương con người, và sẵn sàng làm tất cả cho con người khi họ cầu xin Ngài.

Thái độ cầu xin, là thái độ của người khiêm tốn. Vì người ta chỉ xin điều mình rất muốn, mà mình không thể có được, vì nó không tuỳ thuộc mình, nó là một ơn “nhưng không” của Thiên Chúa ban cho mình. Xin cho chúng ta tin tưởng Chúa yêu thương mình, tin Ngài luôn sẵn sàng làm tất cả những gì tốt lành cho chúng ta, để chúng ta chạy đến cầu xin với Ngài.

Hãy dùng Kinh Thánh để cầu nguyện

Kinh Thánh là Lời Chúa cho con người, là sách gợi hứng và ý tưởng giúp người ta cầu nguyện. Kinh Thánh giúp người ta hiểu biết về Đức Yêsu hơn. Một thánh giáo phụ nói: không biết Kinh Thánh là không biết Đức Yêsu. Sở dĩ vậy, vì Kinh Thánh nói về Đức Yêsu, Kinh Thánh cho thấy những hành động Thiên Chúa làm trong lịch sử, vì yêu thương con người. Qua những hành vi hoạt động của ai, chúng ta biết hơn về người đó. Cũng tương tự như vậy, qua Kinh Thánh ghi lại những gì Thiên Chúa làm cho dân tộc Israel và loài người, chúng ta biết về Thiên Chúa hơn.

Kinh Thánh được viết trong một thời gian nhất định, bởi những người có một nền văn hoá riêng, nên cần biết những phong tục tập quán của họ để hiểu được những điều họ muốn diễn tả, những điều Thiên Chúa muốn diễn tả hoặc nói với con người qua họ.

Kinh nghiệm về Thiên Chúa của những người được linh ứng, là kinh nghiệm đặc biệt và được diễn tả trung thực, để những người thời sau học hỏi. Kinh nghiệm Thiên Chúa ban cho những người xưa, có thể con người ngày nay cũng được khi họ đọc và suy niệm Lời Chúa (Kinh Thánh). Khi đọc Tin Mừng của Đức Yêsu, chúng ta hãy nhìn nghe và xem Ngài sống, để mình trở nên giống Ngài hơn.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Lời cầu nguyện của bạn có thường được nhậm lời không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm về những lần cầu nguyện, mà được nhận lời.

2. Những điều bạn xin, bạn có thấy đó thực sự là điều cần thiết đối với bạn không? Tại sao bạn xin điều không thực sự cần thiết đối với bạn?

3. Theo bạn, điều nào là cần thiết nhất đối với bạn, mà bạn phải cầu xin? Tại sao đây lại là điều cần thiết nhất đối với bạn?

 

45.Có phải con trai thì tốt hơn con gái?

Một bé gái tên Jenifer quyết định biên một lá thư cho Thiên Chúa. "Kính gửi Thiên Chúa," bé khởi đầu, "có phải con trai thì tốt hơn con gái không? Con biết Chúa là con trai nhưng con xin Chúa hãy công bằng!" Ngay cả khi từ còn tuổi ấu thơ, cô bé đã biết biểu lộ lòng âu lo vì sinh ra là con gái. Chưa gì mà cô bé đã có ấn tượng lép vế bởi vì chính Thiên Chúa cũng là con trai.

Jenifer còn quá nhỏ để biết rằng qua việc nêu ra vấn nạn này cô đã trở nên một phần tử của một cuộc cách mạng vĩ đại mà ảnh hưởng trên toàn thể nhân loại. Trải qua bao thế hệ, chúng ta đã đi đến kỷ nguyên của sự bình đẳng giới tính. Để có thể thấu hiểu hơn những gì đang xẩy ra trong thời đại này, chúng ta cần phải quay trở lại Lịch Sử Kinh Thánh, bởi vì ít là vấn nạn kỳ thị giới tính đã được ăn sâu từ sự hiểu lầm của chúng ta về Kinh Thánh.

Hàng nghìn năm qua, chúng ta sống dưới cái mà thường gọi là "Cấp Bậc Tạo Dựng Cổ Truyền." Qua đó nó có nghĩa là chính Thiên Chúa tạo dựng chúng ta có nam có nữ với chủ đích ngay từ đầu rằng người nam phải là bề trên và người nữ là bề dưới; rằng người nam thì cai trị, người nữ thì tuân phục. Các bạn dễ dàng tìm thấy dư đầy trong Cựu Ước để ủng hộ cho vấn đề này: Thiên Chúa đã tạo dựng người nam trước tiên, người nữ thứ hai; Thiên Chúa đã tạo dựng người nữ để làm "người nội trợ" cho người nam. Người nữ chính là người đầu tiên chịu thua cho sự cám dỗ của Satan và vì đó bà đã bị dạy rằng chồng bà sẽ là chủ của bà (Gen. 3:16). Quả thật, qua nhiều thế kỷ, trong lời nguyện thường nhật mà người đàn ông Do Thái thường đọc, ông cảm tạ Thiên Chúa đã không dựng ông lên là người ngoại đạo hay nô lệ hoặc là đàn bà. Đây chính là khung cảnh đã phổ biến qua nhiều thế kỷ. Và rồi Chúa Giêsu Kitô đến mang một ánh sáng mới về "Cấp Bậc Tạo Dựng." Các bạn nhớ rằng, trong Phúc Âm, khi mà Chúa Giêsu đến hội đường của Ngài tại Nagiarét, Ngài cầm lấy quyển sách của Isaiah và bắt đầu đọc: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi; Ngài sức dầu cho tôi... Công bố tự do cho người bị bắt bớ" (Lk. 4: 18).

Và từ đó đến nay, sau hai ngàn năm, chúng ta mới hiểu được rằng đấy bao gồm cả giải thoát cho khỏi kỳ thị giới tính nữa.

Trong một xã hội trọng nam trên hết, Chúa Giêsu đã đối xử người nữ như là một con người. Ngài đối xử người nữ bình đẳng. Ngài đối xử người nữ như là một con người mà có cùng một quyền hưởng trọn vẹn cuộc sống y như Phêrô, Gioan, Giacôbê, Andrê và tất cả mọi Tông Đồ khác. Các môn đệ của Ngài kinh ngạc khi thấy Ngài tiếp chuyện với một người nữ tại miệng giếng trong xứ Samaria. Ngài đang tiếp chuyện với một người nữ mà Ngài không quen biết giữa thanh thiên bạch nhật. Đấy không chỉ làm kinh ngạc các môn đệ mà Ngài còn phí thì giờ để tiếp chuyện với một nhân vật bề dưới. Thế nhưng Chúa Giêsu đã coi bà như là một con người đến độ Ngài có thể nhận rõ những tình trạng cuộc sống của bà. Và Ngài tạo cho bà một cuộc sống mới trọn vẹn. Ngài quan tâm đến bà như là một con người và không một người đàn ông nào trong nhóm của Ngài đã cho bà một tí giờ nào trong ngày của họ.

Còn Maria Mađalena. Truyền tụng cho biết bà là một kỷ nữ -- đối tượng của sự lạm dụng của đàn ông. Chúa Giêsu đã ban cho bà một đời sống mới trọn vẹn. Trong "Jesus Christ Superstar," Mađalena nói, "Tôi không biết yêu Ngài như thế nào." Thật vậy bài hát này đã điểm đúng chỗ bởi vì Chúa Giêsu chính là người đàn ông không đối xử bà như là một vật thể lý. Chúa Giêsu đối xử với bà như là một con người. Ngài yêu mến Maria như là một con người, và Maria đã yêu mến Ngài vì lý do này.

Người Đàn Bà Bị Bắt Phạm Tội Ngoại Tình: một câu chuyện mang "hai tiêu chuẩn" cổ. Một người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Thế nhưng nếu bà "bị bắt quả tang" thì ai là người đàn ông? Ông ở đâu? Chỉ có người đàn bà mà các ông đạo đức giả tố cáo. Thế nhưng Chúa Giêsu đã từ chối không để cho các ông ném đá bà và Ngài đã đưa bà về với một cuộc sống mới trọn vẹn đang mở ra cho bà.

Còn nữa: Mátta, người đàn bà say mê việc nội trợ, Maria thành Béthani, người đàn bà rửa chân cho Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau. Chúa Giêsu đã giải toả người nữ khỏi sự đàn áp, tạo ban cho họ một sự trọn vẹn của cuộc sống như là một con người với cùng những quyền lợi, chỉ dưới Thiên Chúa, giống như những con người khác vậy.

Bé Jenifer đã đưa ra một vấn nạn! Và cũng như Chúa Giêsu trong bài giáo huấn Phúc Âm hôm nay. Chúa Giêsu đưa ra như là một gương mẫu cho người nữ trong mọi thế hệ, một người quả phụ nghèo đã đứng lên vì quyền lợi của bà. "Trả quyền lợi lại cho tôi," bà đòi ông thẩm phán nghe bà kiện. "Nhiều lần ông đã từ chối," Chúa Giêsu dạy. Thế nhưng bà quả phụ không chịu thua. "Trả quyền lợi lại cho tôi," bà đòi đi đòi lại không ngừng. Sau cùng, Chúa Giêsu dạy chúng ta, ông thẩm phán phải nói với chính mình, "Ta không sợ Thiên Chúa và người khác, thế nhưng bà quả phụ này cứ đến làm phiền ta. Ta phải xử cho bà để bà khỏi đến phiền ta nữa." Để kết thúc dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi, "Vậy Thiên Chúa không xét xử công bình cho những kẻ Ngài chọn hằng kêu van Ngài đêm ngày sao?"

Các bạn có nghe về người đàn ông bị bệnh tự ti mặc cảm đến với nhà tâm lý với những vấn nạn của ông không? Sau nhiều lần giải quyết, nhà tâm lý nói với ông, "Tôi có một tin mừng cho ông. Ông không có bệnh thấp cảm; ông thật sự thấp kém." Đáng tiếc, mặc dầu với tất cả những thắng lợi và hoạt động của "Quyền Lợi Người Nữ", còn có rất nhiều người nữ mà, tận đáy thâm tâm của họ, vẫn có mặc cảm rằng họ vẫn là bề dưới. Lập trình "Cấp Bậc Tạo Dựng Cổ Truyền" không phải là dễ dàng bị sụp đổ và tình trạng cổ truyền không tự nó thay đổi được. Thế nhưng, trong ánh sáng giáo lý của Chúa Giêsu, chúng ta quả quyết với lòng xác tín hoàn toàn rằng tất cả mọi người nam cũng như nữ đều được dựng nên bình đẳng. Lời của Thánh Phaolô, "Không còn hiện diện trong chúng ta là Do thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà. Tất cả chỉ là một trong Chúa Giêsu Kitô" (Gal 3:28).

 

46.Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Thiên Chúa có muốn ta phải xin cho thật lâu thật nhiều, và phải lập đi lập lại nhiều lần điều ta muốn xin, thì Ngài mới ban cho không?

2. Nếu ta xin những điều ta thấy thật là cần thiết cho ta, mà chẳng thấy Ngài ban cho, thì ta nên nghĩ thế nào?

3. Cầu nguyện có nhất thiết phải dùng lời không? Có những cách cầu nguyện nào không dùng tới lời nói không? Cách nào hay hơn?

Suy tư gợi ý:

1. Thiên Chúa không thể làm ngơ trước lời cầu xin của con người

Đời sống con người quả thật có những lúc đau khổ, thiếu thốn, mà con người không thể làm gì được, cũng không thể cầu cứu ai được ngoài Thiên Chúa. Những lúc đó, con người nên kêu cầu Thiên Chúa, và tin tưởng rằng Ngài là người Cha nhân hậu, luôn luôn thỏa mãn những gì mà con người cần cho đời sống của họ.

Đức Giêsu đưa ra một lập luận để chứng tỏ điều đó. Ngay cả một ông quan vô đạo đức mà cũng phải nhậm lời cầu xin của một bà góa nếu bà ta cứ xin mãi. Ông ta nhậm lời bà không phải vì ông ta tốt lành gì, mà vì để mình khỏi bị quấy rầy nữa. Một người vô lương tâm, thiếu đạo đức mà còn phải nhậm lời những người cầu xin mình mãi, huống gì những người có đạo đức, có lòng thương người! Mà Thiên Chúa là Đấng nhân lành hơn ai hết, chẳng lẽ lại có thể làm ngơ được trước những người thành tâm, có nhu cầu thật sự, kêu cầu Ngài. Vì thế, khi cầu nguyện, ta hãy tin tưởng vào tình thương và lòng nhân từ của Thiên Chúa.

2. Giá trị lời cầu xin nằm ở chất lượng chứ không phải số lượng

Khi nói dụ ngôn này, Đức Giêsu không có ý nói phải cầu xin cho thật dai dẳng thì mới được Thiên Chúa nhậm lời, làm như thể Ngài cũng giống như ông quan kia, cứ phải để cho người ta xin cho thật nhiều thật lâu thì mới ban cho. Qua dụ ngôn này, Ngài muốn ta tin tưởng vào hiệu lực của lời cầu xin, chứ không phải khuyên ta cầu xin cho dài hay phải lập lại cho thật nhiều lần lời cầu xin của mình. Chính Ngài cũng đã khuyên: «Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin» (Mt 6,7-8).

Phẩm chất của lời cầu nguyện nằm ở chất lượng chứ không phải số lượng hay thời gian cầu nguyện. Một lời cầu nguyện có giá trị trước mặt Thiên Chúa là một lời cầu nguyện thấm nhuần tinh thần tin yêu, xuất phát từ niềm tin tưởng và phó thác vào tình yêu, vào sự quan phòng của Thiên Chúa, đồng thời từ tâm tình yêu thương đích thực của mình đối với Thiên Chúa được biểu hiện cụ thể thành hành động. Một lời cầu xin rất ngắn, thậm chí không được phát thành lời, mà chỉ là tâm tình yêu thương tin tưởng như trên, thì giá trị gấp triệu lần những lời cầu xin dài dòng mà thiếu những tâm tình cần thiết ấy. Không khéo, chúng ta sẽ biến đạo của mình thành một «đạo xin», và tự biến mình thành những «kẻ ăn mày».

3. Hãy cầu xin như một người con, đừng xin như một ăn mày

Cách xin của kẻ ăn mày khác hẳn với cách xin của một người con. Người con thì biết cha mẹ là người yêu thương mình nhất trên đời, và tin tưởng chắc chắn rằng các ngài luôn luôn thỏa mãn những gì mình cần. Vì thế, người con chỉ cần nói với cha mẹ mình một tiếng và chờ đợi cha mẹ mình thoả mãn nhu cầu của mình. Còn người ăn mày thì không dám tin tưởng rằng người mình xin thương yêu mình thật sự để sẵn sàng «bố thí» cho mình, nên xin với tâm tình «được chăng hay chớ», được thì mừng mà chẳng được thì đành chịu vậy. Vì thế, người ăn mày phải lải nhải van xin để đánh động lòng thương của người khác.

Thiên Chúa là Cha đầy tình thương, và chúng ta là con cái Ngài. Ngài không cần ta phải đánh động lòng thương của Ngài, làm như tình thương của Ngài đã đi vắng hay ngủ quên. Coi chừng kẻo chúng ta đánh giá tình thương Ngài quá thấp, và đó là một cách vô tình xúc phạm đến Ngài. Đồng thời có thể chúng ta cũng đã tự hạ thấp phẩm giá của mình trước mặt Thiên Chúa: thay vì làm một đứa con được yêu thương chăm sóc, thì lại làm như một kẻ ăn mày xa lạ từ đâu tới trước cửa nhà.

Chính vì thế, đã 30 năm nay, tôi chẳng cầu xin bằng lời cho bằng dùng tâm tình thật sự của một người con, tin tưởng và phó thác hoàn toàn vào tình thương, vào sự quan phòng đầy khôn ngoan sáng suốt của Thiên Chúa. Vì thế, dường như không một nhu cầu chính đáng nào của tôi mà không được Ngài thỏa mãn, cho dù tôi chẳng hề lên tiếng cầu xin. Tôi nghĩ, cần gì phải lên tiếng khi mà chưa mở miệng thì Ngài đã biết mình nghĩ gì, muốn gì, xin gì rồi. Và khi nhận thấy Thiên Chúa đã thỏa mãn nhu cầu hay điều tôi mong muốn, thì tôi nhận ngay ra tình thương phụ tử của Ngài đối với mình, nên cố gắng đáp lại tình thương ấy một cách quảng đại, đầy yêu thương, bằng hành động thật sự.

4. Trường hợp Thiên Chúa không thỏa mãn điều mình mong ước

Nếu có một nhu cầu hay một điều mong muốn nào của mình không được thỏa mãn, dù mình nghĩ nó rất chính đáng và thật sự cần thiết, thì sao? Lúc đó ta nên nghĩ rằng Ngài khôn ngoan sáng suốt hơn mình gấp triệu lần, cách hành động của Ngài chắc chắn có lợi cho mình hơn cách mình nghĩ. Ta hãy phó thác mọi sự cho Ngài, và để mặc Ngài hành động. Nếu Ngài ban cho, thì việc ban cho ấy chắc chắn là điều có lợi cho ta. Nếu Ngài không ban cho thì việc không ban cho ấy chắc chắn cũng vì ích lợi cho ta.

Kinh nghiệm làm cha mẹ đã dạy tôi điều ấy. Trước hết, tôi không hề để cho con tôi phải xin nhiều lời rồi mới cho. Việc gì tôi thấy cần thiết và ích lợi cho nó, thì dù nó có xin hay không xin, tôi cũng cho. Thậm chí nhiều thứ nó không xin vì thấy không cần, nhưng tôi thấy chúng cần thiết cho nó, thì tôi cho và buộc nó phải nhận lấy mà dùng. Còn việc gì tôi thấy cho có hại hơn không cho, hoặc không cho có lợi hơn là cho, thì dù nó có năn nỉ xin tới đâu tôi cũng không cho. Nhiều khi quan điểm của tôi và nó trái ngược nhau: nhiều điều nó nghĩ là cần thiết hoặc ích lợi thì tôi lại cho là không cần thiết hoặc không có lợi. Lúc đó tôi phải theo sự khôn ngoan của tôi – là người nhiều kinh nghiệm và khôn ngoan hơn nó – chứ không phải theo sự suy nghĩ còn non nớt của nó. Nếu tôi đã quyết không cho mà nó cứ nằng nặc đòi thì tôi nổi quạu lên ngay. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa có lẽ cũng hành xử tương tự như vậy đối với con cái Ngài.

5. Cầu nguyện không nhất thiết phải dùng lời

Thiên Chúa thấu hiểu hết tâm can tôi, Ngài biết hết mọi tư tưởng của tôi trước khi nó thành hình trong đầu tôi. Vì thế, tôi cảm thấy lời nói của tôi đối với Ngài trở thành thừa thãi, không cần thiết, nếu không muốn nói là có nhiều khi không hợp lý. Không nói với Ngài không có nghĩa là tôi không cầu nguyện. Tôi nghĩ rằng có nhiều cách để cầu nguyện tốt hơn là cầu nguyện bằng lời nói. Đó là cầu nguyện bằng tâm tình và bằng hành động.

Nếu lời cầu nguyện không xuất phát từ những tâm tình có thực trong tâm hồn được biểu hiện cụ thể thành hành động, thì đó chỉ là những lời trống rỗng hoặc giả dối, chẳng có giá trị trước Thiên Chúa. Mà nếu đã có tâm tình yêu thương, biết ơn, cảm tạ… đối với Ngài thì chắc chắn Ngài đã biết: nói ra hay không nói ra không phải là điều quan trọng, điều quan trọng chính là có những tâm tình đó thật sự hay không.

Vì thế, những lúc cầu nguyện, tôi chỉ để cho những tâm tình yêu thương, biết ơn, cảm tạ… tự động trào lên từ đáy lòng. Những tâm tình ấy tự động phát sinh khi tôi nhìn vào bản tính đầy tình phụ tử và yêu thương của Ngài, và vào những ân huệ lớn lao Ngài đã dành cho tôi. Những tâm tình ấy có thể khiến tôi bật thành lời, mà cũng có thể không. Và tôi cũng dành nhiều phút im lặng để lắng nghe Ngài nói trong tâm hồn, xem Ngài muốn nói gì với mình. Tôi cho rằng khi cầu nguyện, nói với Ngài là chuyện không cần thiết, vì Ngài đã hiểu hết mọi sự tôi muốn nói. Nhưng lắng nghe Ngài mới là chuyện hết sức cần thiết, vì tôi đâu biết được ý Ngài thế nào, phải lắng nghe Ngài thì mới biết Ngài muốn gì. Muốn thực hiện thánh ý Ngài mà lại không thèm nghe Ngài nói lên điều Ngài muốn thì thật là phi lý. Im lặng lắng nghe Ngài, ta sẽ học được nhiều điều khôn ngoan, và múc được rất nhiều sức mạnh từ nơi Ngài.

Cầu nguyện

Lạy Cha, xin làm cho con yêu mến Cha và những người chung quanh con một cách nồng nhiệt. Chính tình yêu ấy là cốt tủy cho đời sống cầu nguyện của con. Và cầu nguyện chính là hơi thở không thể không có của tình yêu ấy. Xin cho con hiểu được bản chất và cốt tủy của cầu nguyện chính là tình yêu. Không yêu thì không thể cầu nguyện đúng nghĩa được. Không yêu thì mọi lời cầu đều chỉ là những lời nói trống rỗng, không hồn. Vì thế, xin cho con biết quan tâm vun trồng tình yêu. Amen

 

47.“Xin minh oan cho tôi”- Lm. Đam. Cao Tấn Tĩnh

Nếu để ý kỹ tiến trình Phụng Vụ Lời Chúa trong mấy tuần vừa qua, chúng ta thấy các bài Phúc Âm đều xoay quanh một chủ điểm duy nhất, đó là vấn đề đức tin. Thật vậy, bài Phúc Âm Chúa Nhật XXV cách đây bốn tuần, Chúa Giêsu khẳng định với các tông đồ rằng “không ai có thể làm tôi hai chủ”, nghĩa là các vị hãy tin tưởng theo Người, hãy hết lòng làm tôi phục vụ Thiên Chúa, “hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài trước, rồi mọi sự khác các con sẽ được ban cho sau” (Mt 6:33). Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVI cách đây ba tuần, Chúa Giêsu nói cho nhóm người Pharisiêu, thành phần không chịu tin họ vừa tham lam vừa có thể phụng sự Thiên Chúa, dụ ngôn về người phú hộ bị đời đời trầm luân chỉ vì “đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Jas 2:26), nghĩa là dù cho họ có giữ luật Chúa một cách công chính đi nữa, song nếu không giữ nghĩa với anh em, họ cũng vẫn không được rỗi. Bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVII Mùa Thường Niên Năm C hai tuần trước, Chúa Giêsu đã chỉ cho các môn đệ bí quyết làm cho đức tin nơi các vị tăng phát, bằng việc các vị “hãy hoán cải và trở nên như trẻ nhỏ” (Mt 18:3), ở chỗ, thâm tín và thực hiện lời Người khuyên dạy: “Sau khi các con làm xong tất cả những gì các con được lệnh làm thì các con hãy nói rằng ‘Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng. Chúng tôi chẳng làm gì khác ngoài nhiệm vụ của mình mà thôi’”. Và bài Phúc Âm Chúa Nhật XXVIII Mùa Thường Niên Năm C tuần vừa rồi, Chúa Giêsu còn tỏ cho chúng ta thấy đức tin phải được bảo tồn bằng lòng biết ơn nữa, như trường hợp của người cùi Samaritanô ngoại lai sau khi thấy mình được lành sạch đã trở về chúc tụng Thiên Chúa, nên đã được Người phán: “Đức tin của con đã cứu con”. Hôm nay, bài Phúc Âm Chúa Nhật XXIX Mùa Thường Niên Năm C lại tiếp tục cho chúng ta thấy đức tin còn phải được tỏ ra bằng một tấm lòng kiên trì chịu đựng vì Chúa khi bị oan ức nữa.

Đúng thế, bài Phúc Âm theo Thánh Luca hôm nay đã thuật lại dụ ngôn Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người về trường hợp của một bà góa bị oan ức, nên bà đã tha thiết kêu nài vị quan tòa xét xử cho mình, cho đến khi bà được ông minh oan cho mới thôi. Vấn đề được đặt ra ở đây là có phải việc Thiên Chúa ban ơn cho con người nói chung, đặc biệt là việc Ngài giải oan cho họ, chỉ vì Ngài bị con người công chính này gây phiền toái, như trường hợp của vị quan tòa trong dụ ngôn hay chăng? Vì chính Chúa Giêsu đã tóm dụ ngôn này lại bằng cách đặt vấn đề với các môn đệ rằng: “Các con hãy nghe những gì vị quan tòa hư hỏng này nói. Bởi vậy Thiên Chúa chẳng lẽ lại không minh oan cho kẻ Ngài tuyển chọn ngày đêm kêu lên Ngài hay sao?” Ông quan tòa này đã nói những gì? Chúa Giêsu cũng cho biết về ý nghĩ của lời ông ta nói ngay trước đó trong bài dụ ngôn thế này: “Ta chẳng quan tâm mấy đến Thiên Chúa hay đến người ta, thế nhưng cái bà góa này cứ làm ta bị rầy rà phiền phức hoài. Ta sẽ giải quyết theo ý bà ta cho xong kẻo bà ta cứ thôi thúc ta hoài”. Thế nhưng, vai chính hay chủ yếu của bài Phúc Âm hôm nay, nếu xét đến ý nghĩa chung của cả hai bài đọc một và hai, thì không phải là Thiên Chúa, mà là con người, hay là việc con người cầu nguyện, là thái độ con người cần phải tỏ ra khi cầu nguyện cùng Thiên Chúa, đúng hơn là lòng kiên trì tin tưởng của con người được tỏ ra qua lời cầu nguyện, như Thánh Ký Luca đã đề cập đến ở ngay câu mở đầu bài Phúc Âm hôm nay: “Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ dụ ngôn về sự cần thiết của việc luôn luôn cầu nguyện chứ đừng nản lòng”. Đó là lý do bài đọc một, theo Sách Xuất Hành, thuật lại việc Moisen cố gắng giang tay cầu nguyện trên núi để giành phần thắng cho quân Yến Duyên đang ngang ngửa chiến đấu với quân Amaléch; và bài đọc hai, theo Thư Thánh Phaolô gửi Timôthêu, Vị Tông Đồ Dân Ngoại cũng đã khuyên môn đệ của mình là: “Con phải trung thành với những gì con đã học hỏi và tin tưởng, … Cha giao cho con trách nhiệm rao giảng lời Chúa, con hãy thực hiện việc này, dù gặp lúc thuận lợi hay bất thuận lợi…”.

Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa thực sự không phải chỉ vì bị “rầy rà phiền phức”, theo nghĩa tiêu cực như vị quan tòa hư hỏng trong dụ ngôn, mà minh oan cho người công chính, thì chắc chắn vấn đề “rầy rà phiền phức” mà người công chính gây ra cho Thiên Chúa phải có một ý nghĩa đặc biệt, một thứ “rầy rà phiền phức” lên đến mức độ đã khiến Thiên Chúa phải giải oan cho họ? Vậy ý nghĩa của việc con người làm “rầy rà phiền phức” đến Thiên Chúa đây, cũng như ý nghĩa của việc Thiên Chúa giải oan cho người công chính đây là gì, nếu không phải là việc gặp gỡ giữa “đức tin tuân phục” (Rm 1:6) và Mạc Khải Thần Linh, hay là việc Thiên Chúa làm cho chân lý được sáng tỏ nơi con người công chính, tức cho đến khi Thiên Chúa được hoàn toàn tỏ mình ra qua đức tin của con người, chẳng những cho chính bản thân của họ là nạn nhân thấy để tin vào Ngài hơn, mà còn cho cả đối phương hà hiếp phạm đến họ thấy nữa, để cả thành phần “lầm không biết việc mình làm” (Lk 23:34) cũng nhận biết chân lý trở về với Ngài. Để xem ý nghĩa sâu xa của bài dụ ngôn về bà góa được quan tòa giải oan trong bài Phúc Âm hôm nay, như chúng ta vừa suy diễn, có thật sự là như thế chăng, chúng ta hãy cùng nhau ôn lại mấy trường hợp điển hình trong Thánh Kinh, thứ nhất là trường hợp của Tôbia bố và đứa con dâu tương lai của ông; thứ hai là trường hợp của Mẹ Maria và Thánh Giuse; và thứ ba là của chính Chúa Giêsu Kitô.

Trước hết, về trường hợp ông Tôbia bố và đứa con dâu tương lai của ông đã bị oan ức thế nào và đã được Thiên Chúa giải oan ra sao, Sách Tôbia đã cho chúng ta biết rằng: Cả hai đều hướng lòng về Thiên Chúa, bằng cách cầu nguyện với Ngài với tất cả tâm hồn mình, hoàn toàn đặt hết lòng tin tưởng nơi một mình Ngài, chứ không vào một ai khác, kể cả những người thân tín nhất với mình. Chẳng hạn, cả hai đều có thể giải buồn và giải quyết bằng việc tìm kiếm an ủi trần gian. Như Tôbia cha có thể than thở với Tôbia con mình, về những lời vợ ông đay nghiến ông, bởi trong cảnh mù lòa ông đã theo lòng công minh chính trực của mình lầm trách bà khi ông nghe thấy có tiếng con vật lạ trong nhà; hay như đứa con dâu tương lai của ông cũng có thể than thở với cha mẹ của nàng, và xin các vị đuổi đứa tớ gái đi, vì nó đã dám xỉ nhục cảnh góa chồng bất đắc dĩ của mình, cảnh cả 7 người chồng đều chết trước khi động phòng với nàng. Lòng tin tưởng được tỏ ra qua lời cầu nguyện tận đáy lòng của hai người này quả thực đã làm Thiên Chúa phải động lòng, đến nỗi, Ngài đã ra tay giải oan cho họ, như những người làm khốn họ cũng chứng kiến thấy, đó là Ngài đã sai tổng thần Raphaen đến, chẳng những để kết duyên người con gái góa chồng còn trinh này với Tôbia con là người trong chính giòng tộc của nàng, (ở đây chúng ta thấy có sự trùng hợp về cảnh góa bụa của bà góa trong dụ ngôn của Phúc Âm hôm nay với cảnh góa bụa của nàng dâu trong truyện Tôbia này), mà còn giúp cho cả Tôbia cha, nhờ thứ thuốc Tôbia con mang về theo lời mách bảo và chỉ dẫn của vị tổng thần Raphaen, được sáng mắt để thấy lại cả vợ con rất yêu dấu của mình.

Về trường hợp của Mẹ Maria và Thánh Giuse trong Mầu Nhiệm Thiên Chúa Làm Người, cả hai đã bị oan ức và đã được Thiên Chúa ra tay giải oan cho như thế nào, chúng ta đã quá quen biết, như Phúc Âm theo Thánh Mathêu thuật lại ở đoạn 1, từ câu 18 đến 25. Tuy nhiên, trong trường hợp này, không phải chỉ có một mình Mẹ Maria bị oan ức, mà cả Thánh Giuse cũng bị oan ức nữa. Bởi vì, Thiên Chúa đã để xẩy ra một sự việc ngoài suy đoán hạn hẹp của con người tự nhiên, dù đó là một con người được Phúc Âm gọi là công chính như Thánh Giuse, một người chồng vừa mới đính hôn chẳng được bao lâu đã thấy người vợ đính hôn vốn trinh trong thánh đức của mình mang bầu trước khi về chung sống với mình. Thế nhưng, ở đây, Phúc Âm không thuật lại việc cả hai vị cảm thấy hết sức buồn sầu và cầu nguyện cùng Thiên Chúa, như trong trường hợp của Tôbia cha và đứa con dâu tương lai của ông, Thế mà, Thiên Chúa vẫn ra tay can thiệp, bằng cách, Ngài cũng đã sai một thiên thần đến. Vị thiên thần này không như tổng thần Raphaen đã lấy hình người hiện ra với Tôbia con, mà chỉ xuất hiện trong giấc ngủ của Thánh Giuse, để tiết lộ cho thánh nhân biết cách thức Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng vị hôn thê đính hôn của thánh nhân. Việc Thánh Giuse, như Phúc Âm kể lại: “khi tỉnh giấc, Giuse đã làm như lời thiên thần Chúa chỉ dẫn là nhận Maria đem về làm vợ”, đã chứng tỏ thánh nhân lúc nào cũng hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, dù Ngài chỉ tỏ mình ra cho thánh nhân trong giấc ngủ chứ không phải nhãn tiền. Nếu Thánh Giuse có một đức tin chân tình dễ thương, đến nỗi đã làm Thiên Chúa phải động lòng giải oan cho như thế, thì Mẹ Maria đầy ơn phúc, người đã được bà chị họ Isave khen rằng “em có phúc vì đã tin” (Lk 1:45), lại không tin tưởng hơn thánh nhân gấp bội hay sao, bởi trường hợp của Mẹ là trường hợp bị oan ức vì Chúa và cho Chúa, ở chỗ, trước khi thưa “này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng”, Mẹ đã nhắm mắt tin tưởng và liều mình chấp nhận những gì sẽ xẩy ra cho Mẹ rồi.

Còn về trường hợp oan ức của Chúa Giêsu và việc Thiên Chúa minh oan cho Người, Thư gửi Giáo Đoàn Do Thái ở đoạn 5, từ câu 7 đến câu 10, đã cảm nhận và xác tín như sau: “Trong những ngày còn ở trong xác thể, Người đã lớn tiếng dâng những lời kinh nguyện và cầu xin lên Thiên Chúa là Đấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành kính Người đã được nhận lời”. Ở chỗ nào? Bức Thư viết tiếp: “Mặc dù là Con, Người cũng đã biết tuân phục nơi những gì Người phải chịu, để khi thành toàn, Người đã trở nên căn nguyên cứu độ đời đời cho những ai tín phục Người”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Qua bài Phúc Âm Thánh Luca của Chúa Nhật XXIX Mùa Thường Niên Năm C hôm nay, chúng ta thấy rằng, muốn lấy lòng Thiên Chúa, hay muốn thắng được Thiên Chúa, con người cần phải kiên gan tin tưởng. Hay nói ngược lại, Thiên Chúa chắc chắn sẽ phải chịu thua, phải đầu hàng trước lòng kiên trì của con người, nghĩa là chắc chắn Ngài sẽ bị xiêu lòng trước niềm tin tưởng vững vàng của họ. Thế nhưng, có phải lúc nào thành phần sống công chính, một thành phần luôn bị kẻ gian ác chống đối và bách hại trên thế gian này, như bóng tối bao giờ cũng có khuynh hướng muốn lấn át và bao trùm ánh sáng, sẽ thấy được tỏ tường chẳng những việc Thiên Chúa trực tiếp nhúng tay vào giải oan cho họ, mà còn thấy được cả thành quả họ được minh oan cho hay chăng? Nếu có thì tại sao bao kẻ lành đã bị chết đi hết sức oan ức và thảm thương rồi mà thế gian vẫn tràn đầy bất công và sự dữ, đến nỗi, đối với một số người, cả hữu thần lẫn vô thần, lấy cớ đó mà cho rằng Thiên Chúa đã chết mất rồi, hay cho dù có Ngài đi nữa thì Ngài cũng chỉ là một “ông trời không có mắt” mà thôi?

 

48.Lời nguyện cầu- Lm. Bùi Quang Tuấn

"Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Ngài tuyển chọn cứ mãi kêu cứu với Người đêm ngày sao" (Lc 18:7).

Tôi có đọc được một cuốn hồi ký rất hay của một thanh niên 22 tuổi người Nga, tên Sergi Koudakov. Cuốn hồi ký có tựa đề là "Lời Nguyện Cầu" được viết ra sau khi anh trốn thoát sang thế giới tự do và được hưởng quyền tị nạn tại Canada năm 1971.

Sinh ra trong một gia đình có bố là sĩ quan cao cấp của hồng quân Nga và mẹ là một giáo dân Công giáo ngoan đạo, Koudakov lớn lên với tương lai tràn trề hứa hẹn. Không may, anh bị mồ côi cả cha lẫn mẹ lúc chưa đầy 5 tuổi. Đường đời bắt đầu với những bước chân lang thang trộm cắp để sống còn.

Một ngày kia Koudakov bị bắt đang khi ăn cắp, và bị nhốt vào một viện mồ côi. Tại đây đứa bé bơ vơ bỗng được nhà nước cộng sản chú ý cách đặc biệt và đã đào luyện cậu thành người cộng sản chính tông, tức là trở thành một con người không tim óc, tàn ác, dã man, hăng say đánh đập và tra tấn, nhất là với những ai có đạo.

Từ khi còn ở viện mồ côi cho đến lúc tốt nghiệp sĩ quan với cấp bậc trung uý hải quân, Koudakov không ngừng được tiến cử hết chức vụ này đến danh dự kia, từ cháu ngoan Lênin cho đến thủ lãnh Liên đoàn Thanh thiếu niên cộng sản Nga sô. Thậm chí còn được đề bạt làm trùm mật vụ KGB nữa.

Là con cưng của chế độ với tương lai sáng sủa như thế, vậy mà trong một chuyến hải hành trên chiếc tàu tình báo Elagin dọc theo hải phận Canada, Koudakov đã quyết định vượt thoát chế độ. Anh nhảy khỏi tàu trong một đêm giông bão, bơi suốt 12 hải lý dưới làn nước giá lạnh, để xin tị nạn tại Canada.

Hồi ký của chàng thanh niên Sergi Koudakov không dừng lại nơi đây. Điểm đáng lưu ý là sau khi bừng tỉnh khỏi giấc mơ hãi hùng và rút chân khỏi guồng máy thống trị tàn ác, Koudakov đã chuyển biến từ một tên đồ tể từng tra tấn đánh đập những con chiên của Chúa thành một tông đồ nhiệt thành trung kiên. Anh đã tham gia một tổ chức có tên "Underground Evangelism" (Truyền Giáo Thầm Lặng) chuyên cung cấp Thánh kinh và tài trợ cho các giáo hội đang bđàn áp tại các nước cộng sản. Rồi vì quá hăng say với công tác vạch mặt sự giả dối và đề cao chân lý, anh đã bị ám hại lúc mới 22 tuổi.

Đọc hồi ký của Sergi, có lẽ mỗi người sẽ có những cảm xúc hay nỗi niềm khác nhau dọc theo diễn tiến của câu chuyện, nhưng phần tôi lại bị lôi cuốn ngay tđầu bởi cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề của dịch giả Nhị Lang: Với một con người như Koudakov, mồ côi cha mẹ từ thuở bé thơ, trộm cắp đầu đường xó chợ, không ai dạy cho một câu về luân thường đạo lý, lại còn luôn được khuyến khích làm những điều thất nhân ác đức, trong một môi trường như vậy thì đáng lẽ Koudakov phải biến thành một con thú ghê tởm nhất trần gian chứ. Đàng này anh đã không trở thành con thú, nhưng lại dám một mình đột phá chống lại cả một hệ thống đàn áp tôn giáo tinh vi và một chế độ vô thần mênh mông như tại Nga. Anh đã đi từ thái cực bất lương qua thái cực thánh thiện mà không có một sự hướng dẫn hay tia sáng đạo đức nào chung quanh. Thế thì nhđâu mà anh đã có được sự biến đổi lạ lùng như vậy?

Câu trả lời thật bất ngờ và lý thú: vì anh còn thừa hưởng được dòng máu đạo đức của người mẹ quá cố. Anh đã thừa hưởng được cái tinh hoa còn tiềm tàng trong huyết quản tâm linh do bà mẹ đạo đức truyền sang. Và nhờ đó anh đã chiến thắng.

Nhớ lại trong sách Cựu ước có đoạn nói về dân Do thái phải bước vào một trận chiến cam go với người Amalek. Từ sáng sớm, Môisen đã đi lên núi với Aharon và một người phụ tá. Trên đó, Môisen đã giơ tay lên trời cầu nguyện. Và hễ ông giơ tay lên thì dân Do thái rượt quân Amalek chạy tơi bời, còn khi mõi tay hạ xuống một tí thì quân Amalek lại vùng lên đuổi dân Do thái chạy bán sống bán chết. Thành ra hai bên đánh nhau mà cứ như trò chơi ngày hội. Nhưng cuối cùng, dân Do thái đã toàn thắng nhờ đôi tay của Môisen được giơ lên cho đến chiều tối.

Một sức mạnh tâm linh đã được truyền qua Môisen sang người Do thái, và nhờ thế họ đã đánh bại quân Amalek.

Cũng vậy, sức mạnh tâm linh đã được truyền sang Sergei từ người mẹ đạo đức và nhờ đó anh đã giành được phần thắng trong cuộc chiến giữa một con người không tim óc với con người có tâm hồn, giữa thế giới vô thần và thế giới niềm tin, giữa hận thù gian ác và bao dung nhân ái.

Vậy mới hay những tinh hoa của lòng đạo đức nơi cha mẹ sẽ có ảnh hưởng biết bao trên cuộc đời con cái. Nhất là khi cuộc đời đó lại đang là một cuộc chiến giữa đúng và sai, tội lỗi và thánh thiện, bất hiếu và có hiếu, đam mê buông tuồng và khổ chế hy sinh. Trước các trận chiến quyết liệt đó, cha mẹ phải là những người không ngừng giơ tay lên cao để khẩn cầu cùng Thiên Chúa cho con cái như Moisen đã khẩn cầu cho Israen. Và phải giơ tay khẩn cầu liên lỉ, từ "hừng đông" cho đến "chiều tà," từ bắt đầu cuộc chiến cho đến khi toàn thắng. Chứ không vì mỏi mệt hay nhát đảm, quân thù hăng lên hoặc con ta yếu đi, mà buông xuôi, thất vọng, đầu hàng.

Nói đến sức mạnh và sự cần thiết của cầu nguyện, chính Chúa Giêsu đã đưa ra hình ảnh của một bà goá bị người khác chèn ép oan ức. Bà không có tiền để lo lót, cũng chẳng có quyền để tựa nương, thậm chí cũng chẳng có đứa con nào để nhờ cậy. Thế nhưng bà có một thứ vũ khí rất lợi hại: cái lưỡi. Và bà đã biết sử dụng nó. Bà bạo van bạo xin. Kêu đi kêu lại, kêu mãi kêu hoài. Ấy thế mà được việc! Tức là mặc dầu quan toà, và là thứ quan toà bất lương theo lời Kinh thánh, không muốn xử cho bà, thậm chí còn coi bà như rơm rác, ấy thế mà vì điếc tai nhức óc, vì muốn được yên thân, nên ông đã xử cho xong chuyện.

Câu trả lời thật bất ngờ và lý thú: vì anh còn thừa hưởng được dòng máu đạo đức của người mẹ quá cố. Anh đã thừa hưởng được cái tinh hoa còn tiềm tàng trong huyết quản tâm linh do bà mẹ đạo đức truyền sang. Và nhờ đó anh đã chiến thắng.

Nhớ lại trong sách Cựu ước có đoạn nói về dân Do thái phải bước vào một trận chiến cam go với người Amalek. Từ sáng sớm, Môisen đã đi lên núi với Aharon và một người phụ tá. Trên đó, Môisen đã giơ tay lên trời cầu nguyện. Và hễ ông giơ tay lên thì dân Do thái rượt quân Amalek chạy tơi bời, còn khi mõi tay hạ xuống một tí thì quân Amalek lại vùng lên đuổi dân Do thái chạy bán sống bán chết. Thành ra hai bên đánh nhau mà cứ như trò chơi ngày hội. Nhưng cuối cùng, dân Do thái đã toàn thắng nhờ đôi tay của Môisen được giơ lên cho đến chiều tối.

Một sức mạnh tâm linh đã được truyền qua Môisen sang người Do thái, và nhờ thế họ đã đánh bại quân Amalek.

Nếu một thẩm phán bất lương, một quan toà bạo ngược mà còn phải nghe một kẻ tha thiết nài van và vững tâm kêu cầu như thế, thì huống gì là Thiên Chúa, một Thẩm phán đầy lòng xót thương.

Đọc hồi ký của Sergi, có lẽ mỗi người sẽ có những cảm xúc hay nỗi niềm khác nhau dọc theo diễn tiến của câu chuyện, nhưng phần tôi lại bị lôi cuốn ngay từ đầu bởi cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề của dịch giả Nhị Lang: Với một con người như Koudakov, mồ côi cha mẹ từ thuở bé thơ, trộm cắp đầu đường xó chợ, không ai dạy cho một câu về luân thường đạo lý, lại còn luôn được khuyến khích làm những điều thất nhân ác đức, trong một môi trường như vậy thì đáng lẽ Koudakov phải biến thành một con thú ghê tởm nhất trần gian chứ. Đàng này anh đã không trở thành con thú, nhưng lại dám một mình đột phá chống lại cả một hệ thống đàn áp tôn giáo tinh vi và một chế độ vô thần mênh mông như tại Nga. Anh đã đi từ thái cực bất lương qua thái cực thánh thiện mà không có một sự hướng dẫn hay tia sáng đạo đức nào chung quanh. Thế thì nhờ đâu mà anh đã có được sự biến đổi lạ lùng như vậy?

Cũng vậy, sức mạnh tâm linh đã được truyền sang Sergei từ người mẹ đạo đức và nhờ đó anh đã giành được phần thắng trong cuộc chiến giữa một con người không tim óc với con người có tâm hồn, giữa thế giới vô thần và thế giới niềm tin, giữa hận thù gian ác và bao dung nhân ái.

Vậy mới hay những tinh hoa của lòng đạo đức nơi cha mẹ sẽ có ảnh hưởng biết bao trên cuộc đời con cái. Nhất là khi cuộc đời đó lại đang là một cuộc chiến giữa đúng và sai, tội lỗi và thánh thiện, bất hiếu và có hiếu, đam mê buông tuồng và khổ chế hy sinh. Trước các trận chiến quyết liệt đó, cha mẹ phải là những người không ngừng giơ tay lên cao để khẩn cầu cùng Thiên Chúa cho con cái như Moisen đã khẩn cầu cho Israen. Và phải giơ tay khẩn cầu liên lỉ, từ "hừng đông" cho đến "chiều tà," từ bắt đầu cuộc chiến cho đến khi toàn thắng. Chứ không vì mỏi mệt hay nhát đảm, quân thù

Tất nhiên, Ngài sẽ rộng lòng vạn lần hơn thẩm phán bất lương kia chứ. Ngài sẽ lắng nghe mà xoa dịu cùng đáp cứu cho kẻ nài van Ngài chứ.

Nhưng liệu tôi có đủ kiên cường và bền chí nguyện cầu như bà goá ấy hay không?

 

49.Kiên trì! kiên trì!

Cuộc đua Tour de France là một cuộc đua xe đạp được tổ chức tại Pháp trong khoảng một tháng. Đường đua dài hơn 3 ngàn cây số, gồm những khúc quẹo hiểm trở, có lúc lên núi xuống đồi. Cuộc đua này chỉ có những người chạy xe đạp đua lành nghề tham dự.

Vào tháng Bảy năm 1986, Greg LeMond đã đoạt được giải Tour de France. Greg đã đạt tới tuyệt đỉnh của một môn thể giao thế giới.

Vào tháng Tư năm 1987, Greg đã không may bị bắn khi anh đi săn. Ba mươi viên đạn đã đâm qua lưng, chân, tay, phổi, gan, mô bọc tin, và làm gẫy hai xương sườn. Kỳ diệu thay, Greg đã không chết. Sau một thời gian nằm nhà thương, anh đãđược trở về nhà.

Khi trở về nhà, Greg còn phải kiên trì vượt qua những ngày tháng trị liệu và hồi phục sức khoẻ, Sau đó, Greg lại bắt đầu luyện tập chạy xe đạp và ghi tên tham gia các cuộc đua.

Gần một năm sau khi bị thương, Greg thi đấu đua xe đạp ở Ireland. Tuy không thắng, Greg đã không bỏ cuộc. Sau nhiều cuộc thi đấu, Greg càng trở nên can đảm và dũng mạnh hơn.

Đến năm 1989, Greg ghi tên tham gia cuộc thi Tour de France. Nhiều người không tin rằng anh có thể hoàn tất cuộc đua. Sai với nhiều dđoán, Greg đã dùng hết sức lực mình để thi đấu tới cùng.

Tiếp đến là ngày cuối cùng của trận đua. Các đấu thủ bất đầu tiến dần về thành phố Paris. Hàng ngàn khán giđứng đầy đường để chờ xem kết quả cuộc đua. Greg khi đó đang đúng ở hàng thứ hai. Một ký giả thể thao ghi lại: “Greg như một mũi tên nhắm thẳng vđích điểm.”

Greg đã đuổi kịp đấu thủ dẫn đầu trong cuộc đua. Tiếp đấy, anh vượt qua cđấu thấy, và anh đã thắng giải Tour de France lần thứ hai. Anh đã đạt tới đích trong giây phút hồi hộp nhất trong bảy mươi sáu năm lịch sử của cuộc đua.

Câu chuyện trên minh họa điều mà Chúa Giêsu đã phán qua dụ ngôn trong bài Phúc âm hôm nay. Sự kiên nhẫn của Greg là sự kiên nhẫn mà Chúa Giêsu chủ trương cho tất cả những người muốn theo Ngài phải có khi họ làm việc và cầu nguyện để mở mang Nước Chúa trên trái đất này.

Greg là một mẫu gương cho câu ngạn ngữ thời xưa, “Sự kiên nhẫn có sức mạnh vô song”. Nếu Greg đã biết trang bị đầy đủ, đạt được những danh dự và phần thưởng thế gian này, thì chúng ta cũng phải biết trang bị đầy đủ hơn để đạt được phần thưởng trên trời.

Chúng ta phải làm sao để kiên nhẫn theo chân Chúa Kitô? Câu trả lời được chứa đựng trong lời của Chúa Giêsu. Ngài nói: “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta” (Lc 9:23). Lời tuyên bố đó của Chúa Giêsu bao gồm câu trả lời cho việc chúng ta phải làm sao để kiên trì theo chân Chúa Kitô.

Trước hết, chúng ta phải biết từ bỏ chính mình đi. Chúng ta phải biết nhắm tới mục đích của chúng ta hơn là nhắm về mình.

Thứ đến, bên cạnh sự bỏ mình, chúng ta còn phải vác thập giá mình hằng ngày. Nói cách khác, chúng ta phải tập đón nhận thập giá từng ngày một.

Sau hết, bên cạnh việc bỏ mình và vác thánh giá hằng ngày, chúng ta phải theo Chúa Giêsu. Có nghĩa là, chúng ta theo dấu vết chân Ngài. Theo dấu chân Ngài không có nghĩa là chúng ta sẽ không bao giờ té, nhưng có nghĩa là mỗi lần chúng ta té, chúng ta biết đứng dậy và tiếp tục đi.

Như thế, điểm then chốt của việc kiên trì theo chân Chúa Giêsu là làm những gì Ngài đã phán. “Ai muốn theo Ta phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.”

 

50.Sức mạnh vạn năng- Lm. Vũ Minh Nghiễm

Năm nào đây, tờ Guidepost có đăng một câu chuyện đáng ghi nhớ như sau:

Cô Mary là một giáo viên Trung học trẻ. Cô hằng mong ước được thành công trong nghề nghiệp của mình. Nhưng trong lớp, có một cậu học sinh rất bướng bỉnh, nghịch ngợm, hay phá phách, làm cho cả lớp nên ồn ào xáo trộn như rạp xiếc. Cô Mary buồn bã vô cùng. Một buổi sáng kia, trước giờ học, cô ngồi vào bàn viết lấy giấy viết một câu gì đó bằng tốc ký (tức là chữ viết bằng những dấu tượng trưng). Bỗng cậu Bill xuất hiện. Cậu lại nơi bàn cô giáo, hỏi:

- Cô đang viết gì vậy?

- Cô đang viết một lời cầu nguyện đây em ạ. Cô giáo trả lời...

Cậu Bill nhạo lại liền:

- Chứ Thiên Chúa có đọc chữ tốc ký được không?

- Ngài có thể hiểu được hết mọi sự. Ngài có thể nhậm lời cầu nguyện của cô nữa.

Nói xong cô gấp tờ giấy kinh đó lại, bỏ vào trong cuốn Kinh Thánh cô để trên bàn, rồi đứng dậy, lên bảng đen viết bài làm cho học trò. Bill liền rón rén đi lên, lén mở cuốn Kinh thánh, lấy tờ giấy cô giáo vừa để trong đó, và bỏ vào cuốn tập của mình.

Thời gian trôi qua...

Hai mươi năm về sau. Một hôm chàng lên gác nhà, gặp thấy cái hộp đựng các đồ đạc của chàng xưa khi còn cắp sách đi học. Cái hộp nầy mẹ chàng cất giữ trên đó đã lâu lắm. Mở ra, chàng thấy trong đó có cuốn tập của chàng hồi trước. Cầm lên, chàng giở trang nầy sang trang nọ, trang nọ sang trang kia. Kìa! Tờ giấy kinh cô giáo Mary viết xưa, mà chàng đã lấy trộm từ cuốn Kinh Thánh cô để trên bàn, đang nằm gọn trong đó, tuy đã úa vàng. Chàng liền lấy ra, nhìn đi ngắm lại những giòng cô Mary viết bằng tốc ký ngoằn ngoèo, chẳng hiểu gì cả. Chàng xếp tờ giấy lại, bỏ vào ví mình. Hôm sau, đến sở làm việc, chàng đem tờ giấy ra, xin cô thư ký cắt nghĩa cho những giòng viết trong đó có nghĩa gì. Xem xong, cô thư ký đỏ mặt, nói: “ Đây là chuyện riêng tư của ông. Tôi sđánh máy, rồi chiều nay,khi tan sở ra về, tôi sđem để trên bàn giấy cho ông.”

Chiều đó, Bill đọc câu kinh của cô giáo Mary xưa, cách đây 20 năm như sau:

“Lạy Chúa, xin đừng để con phải thất bại trong nghề nghiệp của con. Trò Bill quá bướng bỉnh, phá phách, con không điều khiển nổi lớp học của em. Xin Chúa đánh động tâm hồn em. Nó có thể trở nên một nguời thật tốt, mà cũng có thể trở nên một người thật xấu. Một thiên thần hay một tướng quỉ.”

Câu kinh sau cùng bổ vào tâm hồn chàng như một nhát búa tạ! Tôi có thể trở nên một người hoặc thật tốt, hoặc thật xấu, một thiên thần hay một tướng quỉ!

Chính lúc đó, chàng đang tính toán làm một việc mà nếu thực hiện, thì đời chàng sẽ là một đời đại gian đại ác.

Tâm hồn chàng đầy hoang mang giao động. Chàng xếp bản kinh kia, bỏ vào ví lại, rồi đóng cửa ra về. Trong những ngày sau đó, chàng rút bản kinh ra đọc đi xem lại nhiều lần. Cuối cùng chàng đổi ý, cương quyết gạt bỏ công việc tối tăm gian ác dđịnh. Sau đó, chàng đi tìm gặp cô giáoMary xưa. Với lòng đầy biết ơn, chàng thuật lại cho cô nghe: nhờ câu kinh của cô mà chàng đã xoá bđược một việc đại gian ác như thế nào.

Câu chuyện trên đây giúp chúng ta hiểu được những gì Chúa Yê-su muốn dạy các môn đồ qua bài Phúc Âm hôm nay về sự cầu nguyện.

Thứ nhứt: Sức mạnh của lời cầu nguyện.

Thứ hai: Sự kiên trì trong việc cầu nguyện.

Trước hết, sức mạnh của lời cầu nguyện. Lời cầu nguyện có ảnh hưởng mãnh liệt trên thành quả của công việc chúng ta làm. Lời cầu nguyện có thể thay đổi hẳn cuộc đời của con người ta, như lời cầu nguyện cô giáo Mary đã thay đổi hẳn cuộc đời anh Bill.

Bàn về sức mạnh của sự cầu nguyện, bác sĩ Carrel, một người được giải thưởng Nobel, nói: “Lời kinh cầu nguyện là một nguồn sinh lực mạnh mẽ nhứt mà con người ta có thể sản xuất được. Lời kinh cầu nguyện có ảnh hưởng mạnh mẽ trên tâm hồn và thể xác của chúng ta giống như các hạch tuyến trong cơ thể chúng ta vậy. Lời kinh cầu nguyện là một sức mạnh thiết thực như hấp lực (sức hút) của trái đất.”

Thứ hai, để thực nghiệm được sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng ta phải kiên trì. Trong bài đọc thứ nhứt, chúng ta thấy ông Mô-sê đã kiên trì trong sự cầu nguyện như thế nào. Trong khi quân Israel giao chiến với quân cướp đường Amalec, ông lên đỉnh núi cầu nguyện. Bao lâu ông giơ tay lên cầu nguyện, thì quân Israel thắng thế, quân giặc lùi. Khi ông bỏ tay xuống, thì quân giặc lại thắng thế, quân Israel lùi. Mấy người bạn phải vực ông ngồi lên một tảng đá, nâng hai cánh tay ông lên, giúp ông cầu nguyện cho đến khi mặt trời lặn xuống, và tướng Yo-su-ê dẹp tan quân địch.

Chúng ta cũng vậy, phải kiên trì trong việc cầu nguyện, mãi cho đến khi mặt trời của cuộc đời chúng ta lặn xuống, mới có thể kết thúc được trận chiến của chúng ta với ba thù ma quỉ, thế gian và xác thịt. Chúng ta chỉ có thể buông tay súng một khi nằm xuống và được Chúa gọi về.

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Yê-su nói về một vị thẩm phán lì lợm, dưới không nể người, trên không sợ Trời. Thế mà ông đã chịu thua một bà góa nghèo hèn. Ngày ngày bà cứ kêu gào mãi trước cửa nhà ông, xin ông minh oan cho bà. Sau cùng, vì không chịu nổi được sự quấy rầy đó mà ông phải chiều ý, xử minh oan cho bà.

Nghe qua, chúng ta có cảm tưởng như Chúa dạy chúng ta gây áp lực với Cha trên trời, như bà góa kia đã gây áp lực nơi ông thẩm phán bất lương?

Không! Ông thẩm phán kia bất lương, còn Cha trên trời thì đại lượng và khôn ngoan. Một người con bướng bỉnh có thể hành động như vậy đối với cha mẹ ít khôn ngoan. Chúng ta thì không thể làm áp lực với Cha trên trời, là đấng khôn ngoan vô cùng, biết chọn sự lành để ban cho chúng ta, biết chọn thời buổi để nhậm lời chúng ta.

Khi nói dụ ngôn trên, Đức Yê-su chỉ nhằm dạy chúng ta điều này: Phải dùng lời cầu nguyện để kết hợp cùng Chúa khi buồn cũng như lúc vui, ban đêm cũng như ban ngày, trời mưa âm u, cũng như trời nắng sáng. Chúng ta phải tạo cho sự đọc kinh cầu nguyện thành một tập quán, một nhu cầu như ăn cơm uống nước vậy.

Hiểu được ý nghĩa sự đọc kinh cầu nguyện là như thế, chúng ta mới ưa thích sự cầu nguyện, mới kiên trì trong sự cầu nguyện được. Nhược bằng hiểu sự cầu nguyện chỉ là cầu xin, chúng ta sẽ không thể ưa thích sự cầu nguyện, sẽ chán ghét sự cầu nguyện, việc dâng lễ cầu kinh.

Đã bao lần chúng ta cầu xin mà đâu có được Chúa nhậm lời? Cầu xin Chúa cho được khỏe mạnh, mà cứ nay yếu mai đau! Cầu xin cho một người bạn đang mắc ung thư, được lành mạnh, mà thấy bạn nằm xuống chết như thường! Cầu xin được trúng số, đỡ vất vả, mà mất bao nhiêu tiền rồi, chỉ được cái không thôi!

Phải, nếu hiểu sự cầu nguyện chỉ có nghĩa là cầu xin mà thôi, thì chúng ta sẽ không thể kiên trì trong sự cầu nguyện, không thể ưa thích đi dâng lễ cầu kinh lâu được.

Đức Yê-su thì hiểu sự cầu nguyện một cách khác. Phúc âm đã nói đến việc Chúa cầu nguyện, ít nhứt là 20 lần. Phần lớn sự cầu nguyện của Ngài là những lời chúc tụng, tán tạ ngợi khen Thiên Chúa Cha. Lần cuối đời, trong vườn Cây Dầu, trước viễn ảnh thập giá, Ngài đã cầu xin:

“Lạy Cha, xin cho con được qua chén đắng nầy.”

Nhưng rồi Ngài vội thêm liền:

“Con xin vâng theo ý Cha, không phải theo ý con.”

Và Ngài đã không được Chúa Cha chấp nhận. Ngài vẫn bị quân dữ bắt treo lên thập giá. Ngài đã được một ơn cao trọng khác. Ngài được can đảm và bình tĩnh, rất bình tĩnh, để nộp mình cho quân dữ.

Để tóm lược, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện cô giáo Mary và cậu học trò tên Bill nói lúc ban đầu.

Trước hết, lời cầu nguyện quả là một sức mạnh vạn năng. Nhờ lời cầu nguyện của cô, mà cậu học trò bướng bỉnh kia đã thay đổi đời sống hoàn toàn, và trở nên ngưởi lương thiện.

Thứ đến, ơn cô xin, Chúa đã không ban cho ngay. Đợi 20 năm sau, Ngài mới nhậm lời, mở con mắt linh hồn cho chàng Bill được nhìn thấy con đường chính trực. Vậy khi cầu nguyện, chúng ta phải biết kiên trì, phó thác mà cầu nguyện. Cha trên trời đại lượng và khôn ngoan vô cùng. Ngài sẽ nghe lời con cái kêu cầu. Nhưng cách nào và lúc nào?

Điều đó hoàn toàn tùy thuộc vào thánh ý Ngài, vào sự khôn ngoan của Ngài.

Nếu chúng ta biết cầu nguyện như vậy, tức là cầu nguyện như Đức Yê-su đã cầu nguyện và dạy các môn đệ cầu nguyện, chúng ta sẽ ưa thích sự cầu nguyện, sự đọc kinh dâng lễ. Và dầu gặp hoàn cảnh nào đi nữa, tâm hồn chúng ta cũng sẽ gặp được bình an và thư thái.

 

51.Kiên tâm cầu nguyện- Lm. Trần Bình Trọng

Chắc nhiều người đã nghe câu chuyện ngụ ngôn của Easop về cuộc chạy đua giữa con thỏ và con rùa. Hai con vật đồng ý làm một cuộc chạy đua. Vừa bắt đầu thì con thỏ liền phóng nước đại, phi một đường rất là ngoạn mục và lả lướt. Còn chú rùa thì cứ ì ạch, khệnh khạng từng bước giống như mấy bà bận áo đình chiến. Để tỏ ra khinh thđối thủ hạng nhẹ, con thỏ quyết định dừng lại ngủ một giấc cho đỡ buồn. Khi vừa giật mình tỉnh dạy, thì con thđã thấy con rùa gần tới đích, đuổi hết kịp. Ngụ ngôn của câu chuyện là kiên trì sẽ giúp người ta thành công.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay dạy ta kiên nhẫn cầu nguyện. Cầu nguyện là việc cần thiết đối với người tín hữu vì mỗi người đều tuỳ thuộc vào Chúa từng hơi thở. Sự cần thiết của việc cầu nguyện bắt đầu từ thái độ khiêm tốn, chấp nhận cái thân phận yếu hèn và những thiếu thốn của mình. Bài trích sách Xuất hành hôm nay ghi lại lòng kiên nhẫn cầu nguyện của Môsê. Khi ông Môsê giang tay cầu nguyện thì dân Chúa thắng thế. Còn khi ông mệt mỏi xuôi tay xuống thì quân địch Amalếch thắng. Thánh Phaolô trong thư căn dặn Timôthê phải kiên nhẫn và trung tín cầu nguyện và suy gẫm lời Chúa trong thánh kinh. Rồi đến ngụ ngôn bà goá trong Phúc âm. Bà goá nài nẵng xin quan toà xét xử công lý cho bà. Để bà khỏi quấy rầy, ông quan toà, mặc dầu là người thiếu thanh liêm, cuối cùng cũng xét xử vụ kiện cho bà.

Cuộc trở lại của thánh Augustinô là một ví dụ điển hình nói lên lòng kiên nhẫn trong việc cầu nguyệen của bà mẹ là Monica. Sống trong thời hiện tại và hiện đại, người ta được dùng nhiều thứ dịch vụ nhanh chóng như trà, cà phê, đồ hộp chế sẵn, máy ảnh chụp lấy ngay, lò nướng microwave, gửi fax, gửi điện thư trong vòng giây lát. Tuy nhiên trong đời sống thiêng liêng, không gì có thể trở nên hoàn hảo nhanh chóng như vậy. Qua ngụ ngôn trong Phúc âm hôm nay, Chúa hứa đáp ứng lời cầu nguyện của ta, nhưng là theo đường lối của Chúa. Bao giờ Chúa mới ban ơn, ta không biết được, nhưng ta phải đặt tin tưởng phó thác vào Chúa.

Có đôi khi ta xin ơn này mà Chúa lại ban ơn khác khiến cho người ta không ý thức được là Chúa đã ban ơn. Ví dụ có người xin khỏi bệnh phần xác, mà Chúa lại ban ơn khỏi bệnh tinh thần: cho người đó vui lòng chấp nhận bản thân và hoàn cảnh. Có trường hợp Chúa không ban ơn liền, nhưng Chúa chữa trị dần dần. Ví dụ một người xin Chúa chữa bệnh đau lưng. Chúa soi sáng cho người đó biết đau lưng là tại đầu óc bị căng thẳng làm máu tụ vào một nơi, không được vận chuyển điều hoà. Và Chúa chữa họ bằng cách soi sáng cho họ đọc sách để hiểu tại sao bắp thịt ở lưng bị yếu đau, để rồi bày cách cho họ tập thể thao ở bắp thịt lưng, cho máu luân chuyển điều hoà. Như vậy bác sĩ cũng như thuốc men là những dụng cụ Chúa dùng để chữa trị bệnh tật loài người. Có trường hợp người ta tưởng Chúa không nghe lời cầu của họ, nhưng thực sự Chúa đã nghe lời mà người ta không hay biết. Ví dụ người ta xin cho một người chịu đau đớn về phần xác được khỏi bệnh, mà Chúa lại cất họ ra khỏi thế gian. Thực ra thì Chúa đã chấp nhận lời họ xin bằng cách chấm dứt đau khổ về phần xác cho người đau ốm.

Còn những lý do tại sao điều ta xin mà chưa được hay không được có thể là vì người ta không cộng tác với ơn Chúa, không biết tự giúp mình. Ví dụ một người xin Chúa giúp chống trả cám dỗ về đức khiết tịnh mà cứ xem phim ảnh trụy lạc thì làm sao tránh khỏi cám dỗ? Chưa được điều mình xin cũng có thể là vì người ta đặt chướng ngại vật, làm cản trở ơn Chúa. Chẳng hạn tính ích kỉ, lòng hận thù là những chướng ngại vật làm cản trở ơn Chúa. Còn không xin được điều mình xin có thể là tại người ta thiếu đức tin. Kiên tâm trong việc cầu nguyện là dấu chỉ người có đức tin. Đức tin là yếu tố quan trọng vì nếu người ta cầu nguyện mà không có đức tin, lời cầu nguyện khó lòng được chấp nhận. Có người cầu nguyện vài lần mà không được sinh ra chán nản, bỏ cuộc không cầu nguyện nữa. Đó chính là điều Chúa thắc mắc cuối Phúc âm hôm nay: Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? (Lc 18:8).

 

52.Suy niệm của JKN – 2

Câu hỏi gợi ý:

1. Đức Giêsu đã từng khuyên ta khi cầu nguyện đừng nên dài dòng, vì Thiên Chúa biết rõ những điều ta cần trước khi ta mở miệng cầu xin (x. Mt 6,7-8). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài lại khuyên ta phải kiên trì cầu nguyện. Như thế Ngài có tự mâu thuẫn không?

2. Kiên trì cầu nguyện là gì? Là giáo dân, bận đủ mọi thứ chuyện, làm sao có đủ thì giờ để kiên trì cầu nguyện?

3. Có phải hễ cứ kiên trì cầu nguyện thì việc gì ta xin cũng đều được Thiên Chúa nhậm lời? Nếu không được nhậm lời, thì ta phải hiểu thế nào? Nếu đứa con còn nhỏ của ta cứ năn nỉ hoài xin ta con bọ cạp để chơi, ta có cho nó không?

Suy tư gợi ý:

1. Cầu nguyện kiên trì ắt phải được Thiên Chúa nhận lời

Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng này, Đức Giêsu cố ý đưa ra hai hình ảnh tương phản rất nổi bật để nói lên sự bảo đảm được nhận lời của việc cầu nguyện kiên trì. Đó là sự tương phản giữa Thiên Chúa nhân từ đầy tình thương và viên quan tòa thiếu lòng nhân; và giữa người Kitô hữu và bà góa trong xã hội Do Thái.

Ông quan tòa mà Đức Giêsu mô tả là một người «chẳng kính sợ Thiên Chúa, và cũng chẳng coi ai ra gì», nghĩa là một người có chức quyền, nhưng không có lương tâm, đạo đức, chẳng biết thương người và luôn khinh thường dân chúng. Một quan tòa vô lương tâm như vậy thế mà đã phải nhậm lời yêu cầu của một người dân quèn! không phải vì tốt bụng mà vì không muốn bị quấy rầy mãi do người dân kia cứ kêu cầu mình hoài. Kẻ vô lương tâm mà còn hành xử như thế, huống gì một Thiên Chúa nhân lành! Làm sao Ngài có thể từ chối lời cầu xin của người Kitô hữu kiên trì cầu xin Ngài với lòng thành khẩn?

Trong xã hội Do Thái cũng như nhiều xã hội khác, phụ nữ vốn đã bị coi thường so với nam giới; các góa phụ còn bị coi thường hơn nữa, vì họ là thành phần tương đối nghèo khổ nhất trong xã hội. Chồng chết, họ trở nên cô thân cô thế, phải vô cùng vất vả tự kiếm sống để nuôi bản thân và nuôi con, nên rất dễ bị bắt nạt và đối xử bất công. Vì thế, người «công dân hạng hai» như bà góa này chẳng là cái gì đáng kể trước con mắt khinh đời khinh dân của ông quan tòa vô lương tâm kia. Thế mà bà ấy đã làm cho ông kia phải nhận lời cầu xin của mình, chỉ vì sự kiên trì van xin.

Trái lại, trước mắt của Thiên Chúa, con người rất có giá trị. Có giá đến nỗi Ngài đã phải cho Con Một của Ngài xuống trần, hy sinh mạng sống mình để cứu họ, cho dù họ đang trong tình trạng tội lỗi, chống đối mình. Thánh Kinh mô tả sự chăm sóc của Ngài đối với con người: Con người được «Chúa luôn ấp ủ, dưỡng dục, giữ gìn chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa» (Đnl 32,10; x. Tv 17,8; Hc 17,22; Dc 2,12). Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người được thể hiện qua cách hành xử của Đức Giêsu: «Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng» (Ga 13,1). Thế thì lời cầu xin kiên trì của người Kitô hữu đối với Thiên Chúa sao lại không được nhận lời?

Nhưng kinh nghiệm cho thấy: rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện mà đâu được Thiên Chúa nhận lời! Tại sao? Có thể vì hai lý do: hoặc ta đã không kiên trì cầu nguyện, hoặc điều ta xin không thật sự ích lợi cho ta. Vậy, trước hết, ta phải kiên trì cầu nguyện. Muốn kiên trì cầu nguyện, trước hết, ta phải biết kiên trì cầu nguyện là gì?

2. Kiên trì cầu nguyện không chỉ là một hành động

Nhiều Kitô hữu tưởng kiên trì cầu nguyện là cứ liên tục lập đi lập lại hoài những điều mình muốn cầu xin. Họ làm như Thiên Chúa không có trí nhớ và chẳng quan tâm lắm tới những nhu cầu của mình, nên cứ phải nhắc đi nhắc lại kẻo Ngài quên. Cách cầu nguyện của họ không khác gì cách của những người thờ thần Baan, bị ngôn sứ Êlia chế nhạo: «Hãy kêu lớn tiếng nữa lên, vì người là một vị thần mà! Người đang mải suy nghĩ, hay là đi vắng hoặc trẩy đường xa; cũng có khi người đang ngủ, người sẽ thức dậy thôi!» (1V 18,27). Chính Đức Giêsu cũng đả phá cách cầu nguyện như thế: «Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin» (Mt 6,7-8).

Nếu kiên trì cầu nguyện là cứ phải liên tục lập đi lập lại lời cầu xin như thế thì đa số giáo dân sẽ không có thì giờ để cầu nguyện, vì suốt ngày bận bịu với công việc nghề nghiệp, gia đình, giao tế xã hội… Nhưng rất may, kiên trì cầu nguyện không phải là như thế. Cầu nguyện không chỉ là một hành động, nó vượt lên trên hành động của môi miệng, của trí óc, của tay chân. Đã là hành động thì không thể kéo dài liên tục ngày này sang ngày khác được. Các thánh coi cầu nguyện là sự sống của mình. Trong đời sống tâm linh của các ngài, nó cần thiết như hơi thở. Hơi thở cần thiết đến mức không thở thì chết. Vì thế, các thánh cầu nguyện liên tục: khi thức, khi ngủ, khi làm việc, khi chơi đùa, khi giao tiếp… Tất cả mọi việc của các ngài đều chìm đắm trong cầu nguyện. Nếu cầu nguyện là một hành động, thì không một vị thánh nào có thể cầu nguyện liên tục như thế được.

3. Cầu nguyện là gì?

Cầu nguyện, đúng hơn, là một tình trạng của tâm linh luôn hướng về Thiên Chúa, là một thái độ sống khôn ngoan nhất đem lại bình an và sức mạnh. Tình trạng tâm linh hay thái độ sống thì có thể kéo dài liên tục, không đứt đoạn, kể cả khi ngủ, khi làm việc, ngay cả khi không ý thức rõ ràng về Thiên Chúa hay về việc cầu nguyện. Cầu nguyện là tình trạng kết hiệp với Thiên Chúa, được cấu thành bởi:

– ý thức Thiên Chúa luôn hiện diện trong chính bản thân mình. Người cầu nguyện đích thực luôn ý thức mình đang sống trước sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngài đang nhìn mình bằng ánh mắt yêu thương, đang theo dõi từng hơi thở, từng bước đi, từng hành động của mình như người mẹ luôn quan tâm theo dõi đứa con nhỏ bé của mình. Vì thế, người cầu nguyện đích thực luôn cảm thấy mình đang sống trong một «cảnh vực thần linh» (milieu divin, từ của cha Teillard de Chardin), hay cảnh giới thần thiêng.

– tin tưởng, phó thác tuyệt đối: Người cầu nguyện đích thực luôn tin tưởng mình xuất phát từ Thiên Chúa, nên Ngài là bản thân sâu thẳm nhất của mình, Ngài còn «gần gũi và thân mật với mình hơn cả chính bản thân mình» (Deus intimior intimo meo, câu của thánh Âu-Tinh). Nói cách khác dễ hiểu hơn, Ngài chính là Cha Mẹ đích thực nhất của mình, yêu thương mình vô hạn (hơn cả cha mẹ sinh ra xác thịt mình). Đồng thời Ngài cũng khôn ngoan và quyền năng vô biên. Vì thế, họ luôn sống trong bình an và vui tươi, do biết rằng Thiên Chúa luôn che chở, dẫn dắt mình, ban cho mình tất cả những gì cần thiết cho đời sống của mình, để mình sống hạnh phúc ngay ở đời này, nhất là được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.

– ý thức Thiên Chúa là nguồn tình yêu và sức mạnh của mình: Vì tình yêu và sức mạnh của Ngài vô biên, nên khi kết hiệp với Thiên Chúa, mình cũng trở nên mạnh mẽ và đầy khả năng yêu thương.

– tuyệt đối tuân hành thánh ý Thiên Chúa: Ý thức rằng Thiên Chúa yêu thương mình và khôn ngoan hơn mình vô cùng, người cầu nguyện đích thực cho rằng cứ để Chúa dẫn dắt mình theo đường lối của Ngài thì ích lợi cho mình hơn là mình tự ý đi theo đường lối riêng của mình. Để Chúa dẫn dắt chẳng những là sẵn sàng làm theo ý muốn của Ngài trong bất kỳ tình huống nào trong cuộc đời, mà còn là muốn những gì Ngài muốn. Cho dẫu trong nhiều trường hợp, làm theo thánh ý Ngài thì trước mắt là bất lợi hay thiệt hại cho mình, làm cho mình đau khổ.

4. Cũng có lúc Thiên Chúa không nhận lời ta cầu xin

Khi đã có thái độ tuyệt đối tuân hành thánh ý Thiên Chúa rồi, thì ta không còn thắc mắc gì về những điều ta cầu xin có được nhận lời hay không. Vì ta biết chắc chắn những gì cần cho ta thì bảo đảm là Thiên Chúa luôn luôn ban cho ta đúng lúc. Tuy nhiên, cũng có những điều ta cầu xin, do lòng mong muốn thiếu sáng suốt của ta, nhiều khi có hại hoặc không có lợi cho tâm hồn ta, thì Thiên Chúa vì thương ta nên không ban cho ta. Cũng như khi ta còn nhỏ, cha mẹ ta không chấp thuận cho ta đi chơi như ta mong muốn và cầu xin, mà bắt ta học bài, thì đó là chuyện hợp lý. Chỉ vì các ngài thương ta, muốn ta nên người và tương lai ta được hạnh phúc. Chính Thiên Chúa đã không nhậm lời Đức Giêsu khi Ngài cầu xin cho khỏi uống chén đắng của Ngài (x. Mt 26,39.42). Vì thế, khi không được như ý cầu xin, người cầu nguyện đích thực vẫn luôn bình an, vui tươi, vì biết điều mình cầu xin không ích lợi cho mình, ít ra là vào lúc này.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, xin cho con trưởng thành trong việc cầu nguyện. Xin đừng để đời sống tâm linh của con bị mòn mỏi, kém phát triển vì cách cầu nguyện ấu trĩ của con, tương tự cách cầu nguyện của dân ngoại. Mỗi lần cầu nguyện là họ lại lải nhải lập đi lập lại những lời cầu xin đầy ích kỷ của họ. Xin dạy con biết cầu nguyện, để con có thể cầu nguyện liên tục, cả những khi con ăn, con ngủ, con chơi, con làm việc, giống như Đức Giêsu đã cầu nguyện trong cuộc đời của Ngài.

 

53.Suy niệm của William Barclay

Dụ ngôn quan tòa bất chính được Chúa kể liên hệ trực tiếp đến sự giáo huấn các môn đệ về sự trở lại Ngài. Tuy nhiên, vẫn có giá trị khích lệ các tín hữu cầu nguyện qua mọi thời đại. Lý luận là thế này: nếu một quan án bất chinh, không sợ trời và cũng chẳng nể người, mà rồi cũng phải nhượng bộ trước lời kêu nài của một bà góa, thì huống chi Thiên Chúa công chính lại không sẵn sàng nghe lời cầu khẩn của những kẻ Ngài yêu thương sao?

Dụ ngôn này nói tới một việc đã thường xảy ra tại Pa-let-tin.

Có hai nhân vật trong chuyện này:

1. Vị quan tòa:

Rõ ràng ông không phải là một thẩm phán Do-thái. Các việc tranh chấp tầm thường xảy ra giữa người Do-thái được xử trước mặt các trưởng lão chứ không bao giờ đem đến các tòa án công cộng. Và theo luật Do-thái, nếu có vấn đề phải phân xử, thì một người không đủ để lập phiên tòa. Bao giờ cũng có ba vị quan án, một vị do bên nguyên cáo chọn, một vị do bên bị cáo chọn, và một vị khác được chỉ định cách độc lập. Vị quan tòa trong chuyện này là một trong những quan tòa ăn lương được bổ nhiệm hoặc bởi vua Hê-rô-đê hoặc bởi người La-mã. Các vị này nổi tiếng tham ô. Trừ khi bên bị cáo có thế lực về tiền bạc đút lót cho sự việc đi tới kết thúc, còn thì người ta không hy vọng gì được quan tòa xét xử cho. Thiên hạ đồn rằng các vị này sẵn lòng khiến công lý thành “công lý” chỉ vì một đĩa thịt. Dân chúng còn mỉa mai họ bằng cách chơi chữ; họ chính thức được gọi là quan tòa đoàn phạt, nhưng quần chúng gọi là quan tòa ăn cướp.

2. Bà góa này tượng trưng cho hết thảy những người nghèo nàn, cô thế, cô thân.

Dĩ nhiên, vì không có tiền bạc, bà ta chẳng hy vọng gì được xét theo lẽ công bình bởi một quan tòa như vậy. Nhưng bà ta có khí giới của sự kiên trì. Rất có thể, điều mà quan tòa này sợ là một loại bạo lực nào đó từ được dịch là quấy rầy có nghĩa: “kẻo nó làm cho mắt ta tối đen.” Chúng ta có thể tối mắt bằng hai cách:hoặc bằng giấc ngủ hoặc do một cú đấm! Dù sao, cuối cùng sự kiên trì của bà ta đã thắng. Dụ ngôn này cũng giống dụ ngôn về người bạn lúc nửa đêm… Dụ ngôn không có ý ví sánh Thiên Chúa với quan tòa bất chính, nhưng sách ngược lại với con người như thế, Chúa Giêsu có ý nói: “Thẩm phán bất chính còn như thế, lẽ nào Thiên Chúa không xem xét bênh vực những đứa con yêu ngày đêm kêu xin Ngài sao? Chắc chắn Ngài sẽ vội vàng cứu giúp họ.”

Chúng ta hãy nghe lời Đức Gio-an Phao-lô II nhắn nhủ giới trẻ về cầu nguyện dựa vào chính lời Chúa Giêsu bảo “phải cầu nguyện luôn đừng nản chí.” Tại sao chúng ta phải cầu nguyện?

1. Chúng ta phải cầu nguyện, trước hết, là vì chúng ta là tín hữu:

Thật vậy, cầu nguyện là vì nhận biết những giới hạn và lệ thuộc của chúng ta: chúng ta đến từ Chúa, chúng ta sống nhờ Chúa và chúng ta sẽ trở về với Chúa. Do đó, chúng ta phải trao phó chúng ta cho Người, là Đấng Tạo Dựng và Cứu Chúa của chúng ta, với một lòng tín thác trọn vẹn… Trước hết cầu nguyện là một hành vi hiểu biết, tâm tình khiêm tốn và biết ơn, một thái độ tin yêu phó thác nơi Đấng vì yêu thương đã ban cho chúng ta sự sống. Cầu nguyện là một cuộc đối thoại nhiệm màu, nhưng có thực, với Thiên Chúa, một cuộc đời diễn ra trong tin cậy và yêu mến.

2. Vì là Kitô hữu, nên chúng ta còn phải cầu nguyện như Kitô hữu nữa:

Thật vậy, đối với Kitô hữu, việc cầu nguyện mang một sắc thái đặc thù là thay đổi bản chất và giá trị của cầu nguyện. Kitô hữu là môn đệ của Đức Giêsu, là người tin nhận Đức Giêsu là Ngôi Lời nhập thể, là con Thiên Chúa xuống trần gian giữa loài người chúng ta. Với tư cách là một người, cuộc đời của Đức Giêsu là đời cầu nguyện liên lỷ, một hành vi liên tục kính thờ và yêu mến Cha, và rồi cao điểm của cầu nguyện là hiến tế thập giá, tiên báo qua bữa Tiệc Thánh cuối cùng trong nhà Tiệc Ly và truyền lại qua các thế hệ bằng thánh lễ. Thế nên, người Kitô hữu biết lời cầu nguyện của mình là Chúa Giêsu, mọi lời cầu nguyện của mình đến từ Chúa Giêsu, chính Ngài cầu nguyện trong chúng ta, với chúng ta, và cho chúng ta. Tất cả những ai tin vào Thiên Chúa đến cầu nguyện, những người Kitô hữu cầu nguyện trong Chúa Kitô: Chúa Kitô là lời cầu nguyện của chúng ta…!

3. Cuối cùng, chúng ta phải cầu nguyện vì chúng ta yếu đuối và tội lỗi.

Cần phải khiêm tốn và thành thật nhận thức rằng chúng ta là những tạo vật hèn kém, với những ý nghĩ mơ hồ, hay thay đổi và yếu đuối, luôn cần nhận được nâng đỡ và an ủi. Cầu nguyện ban sức mạnh để theo đuổi lý tưởng cao cả, gìn giữ đức tin, cậy, mến, trong sạch, quảng đại; cầu nguyện mang lại can đảm để thoát khỏi tình trạng ù lỳ, và dần dần nếu chẳng may đã nhường bước cho cám dỗ và yếu đuối; cầu nguyện soi sáng để thấy và thẩm định các biến cố đời sống riêng tư mình và cả lịch sử trong viễn tượng cứu độ của Thiên Chúa và của đời đời. Thế nên, đừng bao giờ các con bỏ cầu nguyện! Đừng để một ngày nào qua đi mà chúng con không cầu nguyện một ít.

Cầu nguyện là một bổn phận, nhưng cũng là một niềm vui lớn! Vì đó là cuộc đối thoại với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu Kitô. Kiên trì lễ ngày Chúa nhật, và nếu có thể dự lễ nhiều lần trong tuần, cầu nguyện sáng chiều, và những lúc thuận tiện!”

Dụ ngôn này Chúa dạy liên hệ trực tiếp đến việc trở lại của Ngài. Do đó, không phải chỉ khuyến khích cầu nguyện tổng quát, mà đặc biệt là sự đến và đặc biệt hơn là ân huệ do đó mà ra. Tuy nhiên sức mạnh của dụ ngôn là kể lại cho Hội Thánh sự yếu đuối và cô đơn, và Hội Thánh trong khoảng thời gian từ lúc Chúa chịu đóng đinh cho đến khi Người trở lại. Chúa Giêsu vừa mô tả tình trạng của thế giới lúc Ngài trở lại. Ngài đã chụp hình thái độ vô tình, lơ là và miệt mài những chuyện trần tục, rồi bầy giờ Ngài muốn thúc giục kẻ theo Ngài hãy kiên nhẫn và hướng lòng về Ngài trong cầu nguyện.

Sau khi kể xong thí dụ, Chúa hỏi một câu đượm vẻ đau buồn: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa không?” Có còn những kẻ thật lòng tin Đấng Kitô, yêu Ngài và trông đợi sự trở lại của Ngài? Câu hỏi đó chính là lời cảnh cáo long trọng về hiểm họa tinh thần thế tục và vô tín sẽ thịnh hành. Chúng ta không nên tuyệt vọng bi quan, Hội Thánh lúc nào cũng có kẻ thù, Hội Thánh luôn luôn canh giữ ảnh hưởng của thế tục đang vây quanh. Chúa Giêsu đã dạy chúng ta kiên trì cầu nguyện liên kết mật thiết với nhau. Thánh Âutinh phát biểu: “Chúng ta tin để cầu nguyện, và để niềm tin và với niềm tin đó chúng ta cầu nguyện khỏi chao đảo, chúng ta ta cầu nguyện. Niềm tin làm phát sinh cầu nguyện, và cầu nguyện một khi đã phát sinh sẽ đem lại chắc chắn trong niềm tin.”

 

54.Kiên trì cầu nguyện

(Suy niệm của Lm Đan Vinh)

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH: Tin mừng Lu-ca kể ra dụ ngôn của Đức Giêsu về bà góa và ông quan tòa nhằm dạy các môn đệ: “phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Một người bất lương như ông quan tòa mà còn phải chịu thua lòng kiên trì nài xin của bà góa nghèo. Phương chi Thiên Chúa là Cha nhân lành lại không mau chóng bênh vực những kẻ hằng kêu xin Người đêm ngày hay sao? Tuy nhiên có nhiều kẻ vì thiếu kiên trì khi gặp gian nan thử thách nên đã sớm bị mất đức tin. Vì thế Đức Giêsu đã phải thốt lên lời than phiền như sau: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”.

CHÚ THÍCH:

- C 1-3: + Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn…: Câu dẫn nhập này báo trước ý nghĩa của dụ ngôn: Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ kiên trì và liên lỉ cầu nguyện để chuẩn bị cho ngày Người tái lâm. +Trong thành kia có một ông quan tòa: Ông này bị coi là bất lương vì ông chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng nể nang người đời. Những quan tòa như thế có nhiều trong dân Ít-ra-en, nhất là trong thời kỳ đất nước bị ngoại bang cai trị. Những quan tòa này nhiều lần đã bị các ngôn sứ lên án (x. Is 1,23; Gr 5,28; Am 5,7). +Trong thành đó cũng có một bà góa: Bà góa là một mẫu người nghèo thường được đề cập tới trong Thánh kinh. Do các bà không có chồng bảo vệ nên dễ bị kẻ xấu chèn ép bóc lột. +“Xin ngài bênh vực tôi chống lại kẻ kiện tôi”: Bà góa này xin quan tòa giúp minh oan trước kẻ đang kiện cáo mình.

- C 4-5: +Một thời gian khá lâu, ông không chịu…: Lúc đầu ông quan tòa hành động vì ích kỷ, nhưng cuối cùng ông cũng đành phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa nghèo để đứng ra bênh vực bà, hầu tránh khỏi bị bà đến quấy rầy mãi.

- C 6-8: +Rồi Chúa nói: Lu-ca nêu tước hiệu “Chúa” 20 lần trong các bài tường thuật. Tước hiệu “Chúa” ám chỉ Đức Giêsu đã được tôn vinh sau khi phuc sinh (Pl 2,6-11). Khi dùng tước hiệu “Chua” này Lu-ca muốn nhấn mạnh vương quyền mầu nhiệm của Đức Giêsu. +“Anh em nghe quan tòa bất chính ấy nói đó: Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn…”: Mục đích so sánh Thiên Chúa với quan tòa bất chính là để làm nổi bật sự tương phản giữa lối hành xử bất lương của viên quan tòa với lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa. Một con người ngang ngược ích kỷ vô tín mà còn biết bênh đỡ người yếu thế để tránh sự quấy rầy như vậy, phương chi Thiên Chúa nhân từ lại có thể nhẫn tâm từ chối lời cầu xin của những kẻ đầy lòng cậy trông phó thác nơi Ngài hay sao? +Dù Người có trì hoãn: Chắc chắn Chúa sẽ can thiệp, nhưng theo cách thức của Người. Mỗi khi cầu xin mà lâu vẫn chưa được như ý, chúng ta hãy nhớ lại trường hợp Đức Giêsu trong vườn cây Dầu: đã cầu xin Chúa Cha cho khỏi uống chén đắng và đã không được Cha ưng thuận, nhưng nhờ đó mà loài người chúng ta mới được hưởng ơn cứu độ nhờ cuộc khổ nạn và phuc sinh của Đức Giêsu. Trong thực tế, có nhiều điều chúng ta cố nài xin Chúa ban cho mình, vì tưởng là điều tốt cho mình, nhưng thực ra lại có hại cho phần rỗi đời đời của ta, nên vì tình thương mà Chúa đã không ban theo ý ta như Đức Giêsu đã nói: ”Có ngừoi cha nào đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá?….”. Trật tự thế giới này sẽ ra sao nếu các ước muốn ngông cuồng ấu trĩ của mọi người đều được Chúa chấp nhận? +Người sẽ mau chóng bênh vực họ: Ở đây cũng như ở nhiều nơi khác (x. Mt 9,1; 13,30). Đức Giêsu báo trước sẽ có một cuộc phán xét để bênh vực những kẻ Người tuyển chọn (x. Lc 17,22-37). +Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?: Trong cơn thử thách, những kẻ được tuyển chọn cũng vẫn có thể trở thành vô tín nếu không kiên trì (x. Mc 13,20-22). Vì thế Đức Giêsu khuyên các môn đệ tránh lối sống buông thả, nhưng phải vững tâm cầu nguyện, giống như bà góa trong dụ ngôn đã luôn kiên trì cầu xin trước thái độ thờ ơ của vị quan tòa bất lương. Trong thời gian dài từ khi Đức Ki-tô về trời đến khi Người lại đến vào ngày tận thế, các tín hữu phải “tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36).

CÂU HỎI: 1) Câu nào trong Tin mừng cho thấy bài học Đức Giêsu muốn dạy môn đệ về sự tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa? 2) Phải giải thích thế nào nếu Thiên Chúa trì hõan không nhận lời cầu xin xem ra chính đáng của chúng ta? 3) Câu nào cho thấy vào ngày tận thế nhiều người có thể mất đức tin vì đã không kiên trì cầu nguyện khi gặp gian nan thử thách? 4) Chúa đã hứa:"Hãy xin sẽ được…", vậy tại sao tôi cầu xin hoài mà vẫn không được Chúa ban như ý của mình?

II. SỐNG LỜI CHÚA:

1. LỜI CHÚA: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng đến kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn?” (Lc 18,7).

2. CÂU CHUYỆN:

- CỨ KIÊN TRÌ CẦU NGUYỆN THÌ CHẮC SẼ ĐƯỢC CHÚA CHẤP NHẬN: Một nhân viên bưu điện phi ngựa tới một ngôi nhà cửa đóng kín để phát thư. Ông gõ cửa nhưng không thấy ai ra mở cả. Ông biết trong nhà có người, vì đã thấy bóng họ thấp thóang qua khung cửa sổ. Do đó, ông vừa la lớn vừa đập mạnh vào cánh cửa. Sau khi ông đập cửa tới 5 lần thì một lỗ nhỏ trên cánh cửa được mở ra và có tiếng người trong nhà hỏi: “Ông muốn gì?”. Ông trả lời: “Muốn gì ư? Tôi đã kêu cửa mấy phút rồi mà không thấy ai ra mở cửa để lấy thư cả!” Bấy giờ người trong nhà mới vặn chốt mở rộng cửa ra và giải thích như sau: “Xin ông thông cảm cho. Mỗi ngày chúng tôi phải chịu đựng lũ trẻ hàng xóm đến phá quấy: Chúng cứ tới đập cửa ầm ầm, rồi khi chúng tôi ra mở cửa thì lại chẳng thấy ai cả. Khi nãy lúc đầu chúng tôi cứ tưởng là lũ trẻ đến phá rối như mọi khi, nên không ra mở cửa. Nhưng về sau thấy cửa cứ bị đập hòai, nên chúng tôi biết là có khách đến thăm thực sự”.

- CẦU NGUYỆN ĐÃ ỨNG NGHIỆM SAU NHIỀU NĂM: Tạp chí Hướng Đạo có đăng một câu chuyện thú vị về một cô giáo trẻ. Câu chuyện được tóm tắt như sau: Cô giáo Ma-ry được điều về dạy ở một trường học nọ. Trong lớp cô phụ trách có một học sinh ngỗ nghịch tên là Bill. Em này thường gây cho cô giáo trẻ sự bực bội và biến lớp học thành một nơi bát nháo. Một buổi sáng kia, cô Ma-ry đến lớp sớm hơn và ngồi ở bàn thầy giáo hí hoáy viết tốc ký lên một trang giấy, thì bất ngờ Bill xuất hiện. Cậu bé tiến lại gần bàn cô giáo và nói: “Cô đang viết gì vậy?” Ma-ry đáp: “Cô viết lời cầu nguyện với Chúa đó”. Bill chế giễu: “Chúa có thể đọc được chữ tốc ký hay sao?” Ma-ry đáp: “Người có thể làm được mọi sự. Ngay cả việc nhậm lời cầu xin này của cô!”. Nói xong, cô để mảnh giấy kia vào trong cuốn Kinh thánh, và quay lên viết bài học trên bảng cho cả lớp. Lợi dụng lúc cô giáo loay hoay viết, Bill đã lén lấy cắp mảnh giấy có ghi lời cầu nguyện của cô giáo và bỏ vào trong cuốn tập của cậu. Hai mươi năm sau, Bill đã trở thành giám đốc của một công ty lớn. Một hôm ông ta lục tìm một đồ vật cũ để trên gác xép ngôi nhà xưa của cha mẹ ông. Bill tình cờ cầm lên một cuốn sổ ghi bài học thuở nhỏ và đột nhiên thấy một mảnh giấy vàng ố rơi xuống sàn. Đó là mẩu giấy có ghi chữ tốc ký. Bill không hiểu nội dung những dòng chữ ấy. Ông gấp tờ giấy kia lại, mang đến văn phòng nhờ cô thư ký đọc giúp. Cô ta đã viết lời dịch vào một tờ giấy khác và đưa cho Bill. Ông nhận ra đó là lời cầu nguyện của cô giáo Ma-ry năm xưa, nội dung lời cầu ấy như sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con bị thất bại trong nghề giáo của con. Con không thể làm cho lớp con đang dạy vào khuôn khổ kỷ luật được, vì có một cậu học trò tên là Bill hay phá bĩnh. Xin Chúa hãy uốn nắn tâm hồn cậu bé này. Vì theo con nhận xét: Cậu bé ấy có thể trở thành một người hoặc rất tốt hoặc rất xấu sau này”. Câu cuối cùng như một nhát búa nện vào đầu Bill, bắt ông phải suy nghĩ. Thật ra chỉ vài giờ trước đó, Bill có dự tính lao vào một vụ làm ăn buôn lậu, hy vọng sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty. Ông cầm tờ giấy kia lên gấp lại cho vào chiếc ví để trong túi quần. Rồi trong suốt một tuần lễ kế tiếp, mỗi khi có dịp là ông lại lôi tờ giấy kia ra đọc đi đọc lại nhiều lần. Cuối cùng thì lời cầu nguyện của cô giáo được viết trước đó hai mươi năm đã phát huy tác dụng và làm thay đổi ý định buôn lậu của Bill. Mấy tuần sau, khi có dịp ngang qua nhà cô giáo cũ, ông đã tìm đến thăm cô và kể cho cô nghe về lời cầu nguyện của cô cách đây 20 năm đã có sức mạnh làm thay đổi cuộc đời hiện tại của ông ra sao.

3. SUY NIỆM:

Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã dạy các môn đệ: "Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí" (Lc 18,1). Người muốn các tín hữu chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện để sẽ được Chúa ban ơn cứu độ. Nhưng tại sao chúng ta lại phải cầu nguyên và phải cầu nguyện thê nào?

1. Có mấy thái độ cầu nguyện?:

- Trong một vụ động đất lớn khiến nhiều nhà cửa trong thành phố bị sụp đổ. Có ba người bị kẹt trong văn phòng một tòa nhà của một công ty xây dựng. Bấy giờ văn phòng bị tối thui vì cúp điện và một khối bê-tông lớn từ tầng trên rơi xuống đã chắn ngang cửa sổ và cửa ra vào văn phòng. Trước tình huống này, người thứ nhất là trưởng phòng không có đức tin và đã bỏ không đên nhà thờ từ lâu. Ông ta bực tức không ngừng chửi rủa viên kỹ sư thiết kế và là chủ thi công công trình tòa nhà đã không chịu gia cố thêm sắt thép khi xây dựng chân móng và đà cột, khiến tòa nhà dễ dàng sụp đổ khi bị động đất mạnh. Anh thứ hai là nhân viên vệ sinh của công ty có lòng đạo đức bình dân, khi bị kẹt trong văn phòng liền quỳ gối lần chuỗi kinh mân côi thật sốt sắng cầu xin Đức Mẹ thương ra tay cứu giúp. Anh thứ ba là nhân viên bảo trì máy móc của công ty là người có đức tin trưởng thành đã tỏ ra bình tĩnh khi gặp sự cố. Anh ta âm thầm đối thoại cầu xin Chúa như sau: “Lay Chúa, Chúa muốn con làm gì để thoát khỏi hoàn cảnh này?” Sau đó anh lấy ra búa và đục trong giỏ đồ nghề luôn mang theo và bắt đầu đục phá khối bê-tông bít lối ra vào kia. Cứ sau một lúc làm việc, anh dừng tay nghỉ mệt và lại thầm thĩ thưa chuyện với Chúa: "Lạy Chúa, xin giúp con đủ sức đục bể khối bê-tông này để cả ba người chúng con mau thoát ra ngoài". Cuối cùng anh ta đã phá được một mảng lớn bê-tông và cả ba người đã chui ra ngoài an toàn.

2. Tại sao phải cầu nguyện?

Câu chuyện trên cho thấy ba thái độ cầu nguyên: người thứ nhất do mất đức tin, cho rằng cầu nguyện vừa mất thời giờ lại vừa vô ích, nên không cầu nguyện khi gặp khó khăn. Anh ta chỉ biết đổ lỗi cho hoàn cảnh và tha nhân, mà không tích cực giải quyết vấn đề. Người thứ hai có đức tin thụ động: Khi gặp sự cố chỉ biết khoanh tay đọc kinh để cầu xin phép lạ, thay vì chủ động giải quyết vấn đề. Có lẽ đại đa số các tín hữu chúng ta vẫn đang có lối cầu nguyện thụ động này, nhất là khi chúng ta cầu xin Chúa cho người khác. Người thứ ba có đức tin tích cực chủ động: tuy tin vào quyền năng của Chúa, nhưng đồng thời cũng ý thức phải sử dụng các phương tiện Chúa ban để chủ động giải quyết sự cố mà không quên cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp. Đây là cách cầu nguyện đúng đắn đẹp long Chúa mà các tin hữu chúng ta cần phải áp dụng trong cuộc sống đời thường.

3. Chúng ta phải làm gì?

- Kiên trì cầu nguyện: Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ: "Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí" (Lc 18,1). Người muốn các tín hữu chúng ta phải kiên trì cầu nguyện noi gương ông Mô-sê quì giang tay suốt cả ngày để cầu xin cho quân Ít-ra-en thắng trận (Bài đọc 1); Hay như bà goá bị kiện cáo oan ức đã kiên trì xin ông quan toà “vốn không tin Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người đời” minh oan cho bà. Nhờ biết kiên trì mà cuối cùng bà đã được ông ta minh oan (Bài Tin Mừng). Mỗi người chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện, cả những lúc xem ra Chúa im lặng không đáp ứng các yêu cầu chính đáng của chúng ta với lòng tín thác cậy trông vào quyền năng và tình thương cùa Chúa như lời Đức Giêsu: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ” (Lc 18,7-8a).

- Không nên đòi hiệu quả tức thời: Khi cầu nguyện, chúng ta tin chắc Chúa sẽ đáp lời cầu xin của chúng ta. Nhưng Ngài không ban lập tức theo ý riêng của chúng ta, mà ban vào thời gian và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta. Thời gian Chúa nhậm lời có thể kéo dài lâu hơn chúng ta nghĩ và cách Ngài ban ơn cũng có thể khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng thích hợp nhất và ữu hiệu nhất cho hạnh phúc của chúng ta.

- Hãy cầu xin theo ơn Thánh Thần soi dẫn: Thánh Phao-lô đã dạy: "Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí sẽ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta… theo đúng thánh ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27). Như thế, cầu nguyện không phải là xin ơn theo kiểu vụ lợi của chúng ta, cũng không phải là sự liệt kê những nhu cầu để xin Chúa ban theo ý riêng của ta. Nhưng cầu nguyện là đối thoại với Thiên Chúa, xin Ngài giúp chúng ta vâng theo thánh ý Ngài, noi gương Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha trước cuộc khổ nạn: “Cha ơi! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39). Tuy nhiên con người vốn yếu đuối dễ nản chí, nên Đức Giêsu đã cảnh báo: "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8).

4. THẢO LUẬN: 1)Bạn cần đọc kinh dự lễ như thế nào để tránh bị lo ra chia trí và để lời cầu nguyện xứng đáng được Chúa chấp nhận? 2)Ngoài việc đọc kinh dự lễ, bạn cần làm gì để biến đời bạn trở thành một lời cầu nguyện liên lỉ?

5. NGUYỆN CẦU

- LẠY CHÚA CHA giàu lòng từ bi thương xót. Chúa hằng nhận lời cầu xin của con. Qua dụ ngôn hôm nay, Đức Giêsu đã dạy con rằng: Ông quan tòa dù là kẻ bất chính và ích kỷ mà còn sẵn sàng đáp lại lời cầu xin kiên trì của một bà góa nghèo, phương chi là Chúa, Đấng hằng thương yêu săn sóc con như gà mẹ ấp ủ đàn con dưới cánh. Con tin tưởng vào Chúa và phó thác cuộc đời con trong tay Chúa quan phòng. Xin Chúa thương nâng đỡ và ban ơn giúp con.

- LẠY CHÚA. Điều làm cho Chúa đau lòng là nhiều người đã bị mất đức tin, trong đó có thể có cả con nữa. Nhiều lúc chính con đã không tin vào hiệu lực của lời cầu xin. Khi gặp khổ đau hoạn nạn, con thường hay than thân trách phận, mà không cầu xin Chúa nâng đỡ. Cũng có những lúc con chỉ cậy vào sức riêng mình, dựa vào thế lực của tiền bạc hay của những kẻ nhiều quyền lực… mà không cậy dựa vào ơn của Chúa. Nhiều lúc con chán nản thất vọng vì cầu xin mãi mà không được Chúa ban theo ý con xin. Xin giúp con kiên trì cầu nguyện và không bao giờ nản chí. Xin cho con ý thức rằng: Những ai tin cậy vào Chúa, sẽ không bao giờ phải thất vọng hổ ngươi.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con

 

55.Cầu nguyện là sự sống của người Kitô hữu

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)

Bất kể một tôn giáo nào, cầu nguyện là yếu tố sống còn của mình. Cầu nguyện được ví như hơi thở, là hoạt động căn bản của đời sống tâm linh. Cầu nguyện đối với người Công Giáo, chính là thể hiện niềm tin, phó thác cho sự an bài quan phòng của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu một lần nữa nhắc lại cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc cầu nguyện, đồng thời Ngài dạy mỗi chúng ta hãy kiên trì, trung thành khi cầu nguyện qua dụ ngôn vị thẩm phán bất lương và bà góa nghèo.

1. Sự cần thiết của lời cầu nguyện

Nếu cá cần nước để sống; cây cối cần ánh sáng mặt trời để quang hợp và sinh trưởng, thì cầu nguyện cũng cần cho đời sống của người kitô hữu như vậy. Cầu nguyện chính là nâng tâm hồn lên với Thiên Chúa để xin Ngài ban ơn, nâng đỡ. Cầu nguyện còn nói lên một sự thật là ta thuộc về Chúa; Chúa thuộc về ta. Tuy nhiên, vẫn là khởi đi từ Thiên Chúa, Ngài luôn thúc đẩy tâm hồn chúng ta khao khát Ngài: “như nai rừng mong mỏi, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa”. Hay nói như thánh Âu Tinh: “Lạy Chúa, tâm hồn con vẫn bồn chồn xao xuyến mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa”.

Khi nói đến sự cần thiết của cầu nguyện, Đức Giêsu cũng đã nhiều lần khuyên các môn đệ của mình hãy cầu nguyện và, chính Ngài cũng luôn luôn cầu nguyện trước, trong và sau khi làm bất cứ việc gì. Thật vậy, Ngài cầu nguyện trong sa mạc; nơi hội đường; trên triền núi; ngoài bãi biển. Đặc biệt, nơi các giáo huấn của Ngài, chúng ta thấy toát lên tâm tình cầu nguyện. Khi dạy các tông đồ cầu nguyện, Ngài nói: “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng nghỉ” (Lc 18,1). “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14,38). Rồi khi dạy các ông về sự tín thác, Ngài nói: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga 15,5). Qua câu nói này, Đức Giêsu cho chúng ta thấy sức mạnh vô song của lời cầu nguyện, cũng như quyền năng của Thiên Chúa trên mọi sự.

Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói về sức mạnh của lời cầu nguyện như sau: “Hãy cho tôi một đòn bẩy, một điểm tựa, thì tôi sẽ nâng thế giới lên”.

Như vậy, cầu nguyện là điều quan trọng. Không cầu nguyện, ta đánh mất điều căn bản để làm nên đời sống tinh thần. Tuy nhiên, khi cầu nguyện, Đức Giêsu dạy phải có sự kiên trì và trung thành.

2. Kiên trì trong cầu nguyện

Nói về sự kiên trì trong cầu nguyện, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn bà góa và vị thẩm phán:

Bà góa mà Đức Giêsu nói đến hôm nay chính là một trong những thành phần bị xã hội khinh khi, bỏ rơi; là thành phần thấp cổ bé họng trong xã hội, không có tiếng nói và ít được ai quan tâm. Sở dĩ có sự kỳ thị này là do thói quen, văn hóa và truyền thống của một số nước niềm Cận Đông thời bấy giờ. Thành phần bà góa là một trong ba thành phần không cần quan tâm (quả phụ, cô nhi và di dân). Họ cũng không có quyền đòi xã hội phải công bằng với mình. Chính vì thế, việc ông thẩm phán dửng dưng và không thèm quan tâm tới bà là lẽ đương nhiên, không có gì lạ. Ý thức được điều đó, nên bà đã trai lỳ và hoàn toàn phó thác trong tay vị thẩm phán bất công.

Nói lên tính kiên trì của bà góa này, tưởng cũng nên nhắc lại khuôn mặt của vị thẩm phán trong dụ ngôn hôm nay để thấy được lòng kiên định, trung thành của người đàn bà này.

Vị thẩm phán chính là một người bất lương, tham nhũng, bóc lột. Cuộc đời của ông là tiền và tiền chứ không có ân nghĩa gì hết. Vì thế, ông ta “không có kiêng nể ai” và, cũng “chẳng coi Thiên Chúa ra gì”. Cán cân công lý của ông chính là tiền. Tuy nhiên, ông đã chịu thua bà góa nghèo. Bà này có một thứ vũ khí thần kỳ, khiến vị thẩm phán cứng lòng, vô cảm đến đâu cũng phải khuất phục, đó là: kiên trì để ngồi lỳ, kỳ nèo, năn nỉ. Quả thật, ông thẩm phán này không thể chịu nổi sự phiền hà của bà góa. Cuối cùng, ông ta đã phải mở phiên tòa để minh oan cho bà. Điều mà Đức Giêsu muốn nói ở đây chính là sự kiên trì của bà góa. Và, đi xa hơn một bước nữa, Đức Giêsu muốn nói về lòng nhân từ của Thiên Chúa qua hình ảnh vị quan tòa.

3. Lòng nhân từ của Thiên Chúa

Nếu người thẩm phán trong bài Tin Mừng hôm nay rất bất lương và bất nhân như thế, mà ông ta còn phải chịu khuất phục trước nỗi thống khổ của bà góa, thì Thiên Chúa là Đấng nhân lành, từ bi, chậm giận và hay thương xót… lại không thương con cái khi chúng chạy đến với mình hay sao? Chính Đức Giêsu đã mạc khải cho thấy tình thương của Thiên Chúa khi nói: “Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cửa cho” (Mt 11,9). Tuy nhiên, lời cầu nguyện của chúng ta có khi đẹp lòng Chúa và ích lợi cho phần hồn thì Chúa sẽ ban cho ngay, nhưng đôi khi chúng ta chỉ biết xin mà không biết điều đó có lợi hay có hại, những lúc như thế, Chúa sẽ trì hoãn hoặc ban những ơn khác tốt đẹp hơn cho chúng ta. Vì vậy, hãy tin tưởng, kiên trì và phó thác nơi Thiên Chúa. Hãy trở thành tác phẩm trong bàn tay tuyệt diệu của Thiên Chúa. Vậy, nếu chúng ta đã được Chúa yêu thương, thì chúng ta cũng phải loan truyền về một vị Thiên Chúa giàu tình thương và muốn cho con người được hạnh phúc đến với hết mọi người, mọi nơi...

4. Truyền giáo bằng cầu nguyện

Hôm nay là ngày khánh nhật truyền giáo, ngày cả Giáo Hội cầu nguyện cho công cuộc truyền giáo, đồng thời cũng là dịp để mỗi chúng ta ý thức vai trò loan báo Tin Mừng của mình.

Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội. Nếu Giáo Hội không truyền giáo thì Giáo Hội đánh mất bản chất của mình, và như thế đặc tính của chúng ta mất. Tuy nhiên, truyền giáo có nhiều cách. Một trong những cách truyền giáo hữu hiệu nhất chính là cầu nguyện.

Đức Giêsu khi xưa cũng vậy, Ngài khởi đầu sứ vụ của mình bằng việc vào hoang địa ăn chay, cầu nguyện. Ngài cầu nguyện để: nhằm tìm kiếm, đón nhận và thi hành thánh ý của Chúa Cha (x. Mt 4,1-11). Sau khi loan báo Tin Mừng Chúa Giêsu cũng cầu nguyện: “Giải tán họ xong, Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện” (Mt 14, 23); “Anh em ngồi lại đây, Thầy đến đàng kia cầu nguyện” (Mt 26,36); “ sau khi từ biệt các ông, Ngài lên núi cầu nguyện” (Mc 6,46); “Ngài lui vào nơi hoang vắng để cầu nguyện” (Lc 5,16)...

Tại sao khi truyền giáo phải cầu nguyện? Thưa vì chúng ta xác định rất rõ: công trình cứu độ là của Thiên Chúa. Chúng ta chỉ là người cộng tác vào công trình ấy mà thôi. Thật vậy: “Nếu như Chúa chẳng xây nhà, thờ nề vất vả cũng là uổng công…”. Chính Thiên Chúa mới làm cho công cuộc truyền giáo sinh hoa kết quả (x. 1 Cr 3, 6-7). Thánh Phaolô cũng nói: “ Trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin, và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4,6).

Khi cầu nguyện, chúng ta biết được tính cấp thiết của sứ vụ. Biết mưu cầu hạnh phúc cho người khác. Sẵn sàng hy sinh, trung thành vì Nước Trời và phần rỗi của các linh hồn.

Nếu không có đời sống cầu nguyện, chúng ta sẽ là những người thợ dại khờ trong cánh đồng của sự chết. Cầu nguyện để xin Chúa biến đổi chính chúng ta, làm cho chúng ta trở nên xứng đáng để trở thành sứ giả của Chúa, những người thợ gặt lành nghề như Chúa muốn trong cánh đồng truyền giáo của Ngài, trở nên những người gieo vãi hạt giống Tin Mừng yêu thương giữa một thế giới đang dần dần muốn xa rời Thiên Chúa, đến với những con người chưa có cơ hội biết Ngài, những con người lầm lạc trong thế giới hôm nay.

Lạy Chúa, xin cho chúng con yêu mến đời sống cầu nguyện, bởi vì có cầu nguyện, chúng con mới biết Chúa là Đấng yêu thương. Xin cũng cho chúng con biết kiên trì, trung thành trong khi cầu nguyện. Xin Chúa ban cho cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội có được nhiều thợ gặt lành nghề, để ra đi thu lúa về cho Chúa. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ