Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 75

Tổng truy cập: 1358099

CHÂN TƯỚNG CỦA ĐỨC GIÊSU

CHÂN TƯỚNG CỦA ĐỨC GIÊSU

 

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Người đồng thời với Đức Giêsu chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể. Sở dĩ vậy vì Đức Giêsu là một người như bất cứ ai khác, Ngài là người hoàn toàn đến độ một người bình thường như thế nào thì Ngài cũng như vậy. Ngài nghèo như bất cứ người nghèo nào. Không ai biết Ngài, Ngài vô danh như bất cứ ai khác. Lời tựa trong tin mừng theo thánh Yoan gọi Ngài là Lời Thiên Chúa, Lời đã thành xác phàm.

1) Đức Giêsu là một ngôn sđối với người đương thời

Ngôn sứ là người Thiên Chúa dùng để nói với dân về ý định của Ngài, chuyển thông cho dân những gì Thiên Chúa muốn. Một vị ngôn sứ không nhất thiết phải là người biết trước những biến cố sẽ xảy ra ở tương lai. Dân Do Thái tin rằng Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện một vị ngôn sứ “lớn” như Môsê. Vì thế nên khi Đức Giêsu làm những dấu lạ cả thể, thì người đương thời đã coi Ngài là một ngôn sứ.

Khi một ký lục giảng dạy, ông ta tựa vào Lời Chúa để dạy dân chúng. Uy quyền của lời giảng dạy của ký lục, không đến từ họ nhưng đến từ uy quyền Lời Chúa. Đức Giêsu giảng dạy không giống như các ký lục, Ngài giảng dạy như người có uy quyền. Không chỉ là người có uy quyền qua giảng dạy, Đức Giêsu còn đuổi được quỷ qua lời truyền phán của Ngài. Đức Giêsu là ai mà có thể làm những điều này. Hành vi của Đức Giêsu làm dân chúng đặt câu hỏi về chân tính của Ngài.

Một ngôn sứ xuất hiện, là dấu chỉ Thiên Chúa đang ở với dân. Thiên Chúa đang thực hiện việc kỳ diệu qua vị ngôn sứ. Khi dân chúng nhận ra Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, là một ngôn sứ, thì họ nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với họ. Thiên Chúa đang quan tâm và yêu thương họ.

2) Hơn một vị ngôn sứ

Đức Giêsu không chỉ là một ngôn sứ (tiên tri), nhưng Ngài còn là Đấng Kitô, nghĩa là Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu dân Ngài. Dân chúng thời Đức Giêsu đang ao ước thoát ách đô hộ của người Roma, nên họ mong chờ Thiên Chúa sai đến một vị cứu tinh giải thoát họ khỏi cảnh áp bức chính trị này. Đức Giêsu ý thức Ngài không phải là vị Kitô chính trị, nên Ngài đã cấm các tông đồ nói cho người ta biết Ngài là Kitô (Mt.16, 20).

Cái chết trên thập giá của Đức Giêsu làm cho dân chúng và các tông đồ như bừng tỉnh. Đức Giêsu không là Đấng Kitô như họ nghĩ. Các tư tế, kỳ lão và biệt phái nghĩ rằng Đức Giêsu cũng như bất kỳ ai khác, nên khi Ngài chết là họ tưởng rằng họ đã giải quyết được một bận tâm tranh chấp ảnh hưởng. Đức Giêsu sống lại, là một điều gì hoàn toàn mới. Không ai có thể nghĩ rằng Ngài sẽ sống lại. Ngay cả các tông đồ cũng không dám tin Ngài sống lại, cho dù Ngài đã báo trước vài lần, vì thế nên các ngài mới hoảng loạn sợ hãi, và hai môn đệ trên đường Emmau là hai người đã bỏ cuộc về quê vì thất vọng.

Đức Giêsu sống lại và truyền trao sứ mạng cho các tông đồ, làm các tông đồ và những người tin vào lời rao giảng của các tông đồ, suy nghĩ và hiểu biết hơn về Đức Giêsu. Đức Giêsu vẫn đang sống, cho dù bây giờ Ngài vượt khỏi tầm kiểm soát của con người, của những thế lực thù ghét Ngài cũng như cả của những người yêu mến Ngài. Ngài là ai? Đây là một câu hỏi luôn theo sát những người yêu mến Ngài, và cả những kẻ không thích Ngài. Ngay khi Ngài còn sống, Đức Giêsu đã biết người ta nói Ngài là ai, và cũng chính Ngài đã hỏi các tông đồ Ngài là ai, nhưng dường như những câu trả lời đó chưa đủ (Mt.16, 13-16).

3) Đức Giêsu là Con Thiên Chúa

Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Nhưng cả với câu trả lời này, người ta cũng có thể hiểu Đức Giêsu chỉ là một người đặc biệt thôi, vì nhiều người được gọi là con Thiên Chúa, chẳng hạn như những người được Thiên Chúa chọn, được Thiên Chúa yêu thương (Xh.4, 22; Hs.2, 1; Tv.82, 6). Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo một nghĩa rất đặc biệt, theo nghĩa là Ngài Con “đồng bản tính” với Thiên Chúa, được xác định sau này bởi công đồng Nicea (325).

Đức Giêsu là ai? Đối với các tông đồ, Ngài là người rất đặc biệt, luôn kết hợp với Thiên Chúa, đến độ lấy ý Thiên Chúa là lương thực cho mình (Ga.4, 34), là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa (Mt.17, 5). Ngài là Đấng “ngự bên hữu” Thiên Chúa (Mc.16, 19). Nhưng tất cả những “từ ngữ” ấy nghĩa là gì? Ngay cả từ ngữ “đồng bản tính” với Thiên Chúa có nghĩa là gì khi đức tin Kitô giáo dạy chúng ta Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Dnl.6, 4).

Đức Giêsu là một người như bất kỳ ai khác, Ngài bị cám dỗ, Ngài biết đói biết khát, Ngài cũng bị cám dỗ về danh lợi ở trong hoang địa, Ngài cũng bị cám dỗ “mất lòng tin vào Thiên Chúa” khi ở trên thập giá: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con;” nhưng Đức Giêsu còn hơn là một con người nữa, Ngài là một tiên tri, và hơn một tiên tri vì Yoan Tẩy Giả không đáng cởi dây giầy cho Ngài; Ngài là Đấng Kitô, Đấng Thiên Chúa sai đến để cứu con người. Và còn hơn thế nữa, Giáo Hội dạy rằng Ngài là Con Thiên Chúa, Con đồng bản tính với Thiên Chúa. Ngài có trước khi Ngài được sinh ra bởi Đức Maria. Ngài là Lời Thiên Chúa nhập thể. Ngài khác biệt với Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài lại là một với Thiên Chúa Cha. Ngôi Hai Thiên Chúa cũng là một từ ngữ các nhà thần học dùng để diễn đạt chân tướng của Ngài. Đức Giêsu là một người rất đặc biệt, và người ta đã dùng nhiều từ ngữ để diễn đạt về Ngài, về chân tướng của Ngài, về mầu nhiệm Giêsu.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Bạn hiểu thế nào về từ ngữ diễn tả Thiên Chúa “Một Thiên Chúa Ba Ngôi”?

2. Đức Giêsu là ai đối với bạn? Ngài ảnh hưởng trên đời bạn như thế nào?

 

24.Chạy theo tà thần

(Suy niệm của Anmai, CSsR)

"Đời là bể khổ", Đức Phật nói như thế! Ta có thể nói ngược lại "Bể khổ là đời!". Đã sinh ra trong thân phận làm người, ai ai cũng mang trong mình những đau khổ của cuộc đời. Không khổ nhiều cũng khổ ít chứ chẳng thể nào ai mà thoát khổ được. Trong những lúc cuộc đời gặp đau khổ, con người phải đối diện với chính trong sâu thẳm của lòng mình. Thường, người ta vẫn thường nói "lúc gian nan mới biết ai là bạn". Cũng vậy, trong những lúc gian nan thử thách của cuộc đời, ai là người để chúng ta tin tưởng, để chúng ta bám víu, để chúng ta trông cậy?

Buổi sáng nọ, đang làm việc, bỗng dưng sơ phụ trách cộng đoàn gọi tôi có việc. Ra hành lang thì thấy sơ dẫn hai mẹ con nđến gặp tôi. Tôi ngạc nhiên nhưng bình tĩnh hỏi chuyện.

Bà mẹ nói trước: "Thưa Cha! Con được người em con về nói văng vẳng bên tai con là con phải theo đạo Mẹ Maria, theo đạo ông Giêsu Kitô... mô phật! mô phật!" Tôi nghe bà nói tôi cảm thấy căng đây vì lẽ sao mà theo đạo Mẹ Maria mà miệng lại cứ mô phật, mô phật. Tôi lấy hết bình tĩnh để nghe hai mẹ con trình bày.

Chuyện là chồng của người con của bà đã bỏ vđể đi theo một người đàn bà khác. Cuộc sống ngày một khó khăn, chu cấp không như ngày xưa nữa. Bực bội trước cảnh đó và rồi người con của bà suy nghĩ nhiều, căng thẳng, mất ngủ! Nghe thấy nó làm sao đó, tôi mới hỏi là tình hình sao thì người con nói là gần 1 năm nay, cô ta không ngđược, chỉ chợp mắt nằm đó thôi và giđang buồn ngủ (lúc đó 9 giờ sáng). Bỗng dưng cô lăn ra chiếc ghế dài cô đang ngồi và cô nằm xuống, nằm một lát cô ngồi dậy. Tôi cảm thấy bắt đầu lúng túng và chỉ biết cầu nguyện thôi.

Đang lúc ấy thì miệng bà mẹ cứ mô phật, mô phật!

Bà mẹ lại nói tiếp rằng lúc nào bà cũng bị tiếng nói gì đó văng vẳng bên tai! Tiếng nói ấy bảo bà đến để theo đạo Kitô!

Tôi thấy cũng căng trước hai người phụ nữ không bình thường này. Tôi nghi là hai người này có chơi bùa chơi ngãi hay đi coi thầy bà gì đây và tôi hỏi thật lòng là hai người có đi coi thầy không thì tôi mới giải quyết vấn đề được. Ban đầu còn ấp úng nhưng sau đó cô con gái đã thú nhận là đã đi coi thầy khi gia đình gặp khủng hoảng, khó khăn, nhất là khi ông chồng bỏ vđi theo vợ bé. Cô còn khai thêm là người ta cho uống cái nước gì đó và hiện tại bây giờ mỗi ngày vẫn còn uống nước đó!

Tôi đã hiểu vấn đề và nguyên nhân của hậu quả mà hai mẹ con đang lãnh nhận.

Đó là hai mẹ con đã chơi với thế lực ma quỷ, thế lực của sự dữ nên giờ đây phải đón nhận hậu quả bi đát này.

Để giúp cho hai mẹ con. Tôi bắt đầu phân tích cho họ thấy rằng nếu như ông thầy bói toán mà biết được cuộc đời của mọi người để ông coi bói sao ông không biết được cuộc đời của ông để mà ông phải ngồi đó để bói toán cho những con người nhẹ dạ và cả tin như các cô các bà. Nếu ông biết được tương lai, biết được mọi chuyện thì đơn giản nhất là ông mua vé số để trúng số lấy tiền mua nhà lầu xe hơi chứ sao phải ngồi trong căn nhà ọp ẹp bói toán mà còn phải canh chừng công an!

Tôi nói thêm là thời nào cũng có ma quỷ. Như thời của Chúa Giêsu như trong trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe Thánh Maccô thuật lại đấy! Thời nào cũng có ma quỷ cả! Ma quỷ chính là những thiên thần đã bất tuân lệnh Chúa. Và từ những trang đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy ma quỷ đã dụ dỗ bà Eva để rồi bà cùng ông phạm tội bất tuân Thiên Chúa. Chính vì hai mẹ con của bà ấy đã đi theo hay nói đúng hơn là chơi với ma quỷ thì phải lãnh nhận hậu quả như hiện nay.

Tôi bảo với hai mẹ con rằng nếu như muốn thoát khỏi tình trạng hiện nay thì phải dứt khoát với ma quỷ, không còn uống nước của ông thầy cúng cho nữa. Muốn theo đạo ông Giêsu cũng được nhưng trước hết, ngay trong hiện tại cứ cầu nguyện với Chúa và Đức Mẹ đã rồi từ từ học đạo để theo đạo.

Nguyên nhân mà hai mẹ con này gặp phải hậu quả này đó chính là khi cuộc sống gặp khó khăn đã đi tìm đến thế giới của ma quỷ, thế giới của tà thần để giúp mình. Đơn giản nhất, khi người chồng đã theo vợ bé không còn chu cấp như xưa nữa thì chính người vợ phải cố gắng lao động để nuôi 3 đứa con, đàng này, người vợ ăn ở không, không chịu làm gì cả và rồi chạy đến thầy bùa, thầy ngãi để "giải hạn". Tưởng chừng "giải hạn" nhưng nào ngờ "hạn" nó đến với hai mẹ con này không biết đến ngày nào mới giải được.

Thời nào cũng vậy, khi gặp khó khăn người ta không cố gắng vươn lên bằng chính khả năng của mình nhưng cứ muốn dựa vào thế lực nào đó để giải thoát mình. Lẽ ra người ta đi tìm đến Đấng Cứu Độ của đời mình, Đấng làm chủ thời gian và không gian, làm chủ trời đất muôn vật để giúp họ nhưng không, người ta vẫn cứ đi tìm những thế lực nào đó.

Như sách Đệ Nhị Luật vừa cho chúng ta biết thánh ý của Đức Chúa trên dân qua miệng Môsê. Thiên Chúa hứa sẽ cho một ngôn sứ xuất hiện để giúp cho dân, ngôn sứ ấy sẽ nói lời của Đức Chúa và người nào không nghe lời ngôn sứ ấy thì Đức Chúa sẽ hạch tội người đó.

Trước đoạn sách Đệ Nhị Luật mà chúng ta vừa nghe, tác giả sách đã cảnh báo dân rằng: "Nếu ở giữa anh em xuất hiện một ngôn sứ hay một kẻ chuyên nghề chiêm bao và nó báo trước cho anh em một dấu lạ hay một điềm thiêng, nếu dấu lạ hay điềm thiêng nó đã nói xảy ra, và nó bảo: "Chúng ta hãy theo và phụng thờ các thần khác", những thần mà anh em không biết, thì anh em đừng nghe những lời của ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, thử thách anh em cho biết anh em có yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ không. Chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Đấng anh em phải theo; chính Người là Đấng anh em phải kính sợ; anh em phải giữ các mệnh lệnh của Người, phải nghe tiếng Người; chính Người là Đấng anh em phải phụng thờ; anh em phải gắn bó với Người. Ngôn sứ hay kẻ chuyên nghề chiêm bao ấy sẽ bị xử tử, vì nó đã hô hào nổi loạn chống Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng đã đưa anh em ra khỏi đất Ai-cập và đã chuộc anh em khỏi cảnh nô lệ, và vì nó đã muốn lôi cuốn anh em ra khỏi con đường Đức Chúa đã truyền cho anh em phải đi. Anh em phải khử trừ sự gian ác không cho tồn tại giữa anh em". (Đnl 13, 2,-6). Con người mọi thời đại vẫn nghe ngóng, vẫn trông chờ vào lời nói của những ngôn sứ giả.

Trải qua biết bao nhiêu thăng trầm của lịch sử cứu độ. Đức Chúa đã cho quá nhiều ngôn sứ đến để nói cho dân biết về tình thương cứu độ của Chúa, về thánh ý của Ngài nhưng rồi dân chúng cứ như bỏ ngoài tai để chạy theo không biết bao nhiêu là tà thần.

Thư gửi tín hữu Do Thái đã nói cho chúng ta: "Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ. Nhưng đến thời sau hết là những ngày này, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua Thánh Tử".

Quả thật, có quá nhiều ngôn sứ đã được Chúa sai đến để dạy bảo, để chỉ vẽ cho dân chúng biết con đường để đi theo Chúa nhưng rồi cha ông chúng ta và thậm chí chúng ta đây có nghe lời của các ngôn sứ đâu? Chúa nói quá nhiều, Chúa - vì yêu thương chúng ta - đã quá chăm sóc cho chúng ta nhưng nào chúng ta có chịu nghe Chúa. Những ngày này, Thiên Chúa đã dạy chúng ta qua Thánh Tử, qua Con Chí Ái của Ngài nhưng rồi chúng ta, cha ông chúng ta thời Chúa Giêsu - Con Chí Ái của Thiên Chúa - nhưng cha ông chúng ta và chúng ta có chịu nghe đâu? Nếu chúng ta thật sự nghe theo lời Chúa Giêsu thì cuộc đời của con người, cuộc đời của mỗi người chúng ta đâu có lao đao vất vả như thế này.

Cuộc đời chúng ta, chắc có lẽ phần nào cũng giống như hình ảnh của hai mẹ con nọ mà tôi đã gặp và tôi đã kể ở trên. Những lúc cuộc đời gặp lao đao vất vả, hai mẹ con ấy cũng như chính mỗi người chúng ta đã không biết tìm đến Chúa để mà bám víu. Chúng ta vẫn chạy theo người đời để nghe đủ mọi lời ngon ngọt của người phàm mà quên đi lời của Thiên Chúa. Giả như chúng ta quên thì Thiên Chúa với lòng bao dung của Ngài, Ngài sẽ tha thứ tất cả cho chúng ta nhưng chúng ta lại cố tình quên, đó mới là chuyện đáng nói.

Còn và còn khá nhiều người trong cuộc sống khi gặp gian nan khốn khó đã không chịu tìm đến với Chúa nhưng đã chạy theo tà thần. Khi bị những cơn sóng của cuộc đời xô đẩy, lẽ ra đi tìm đến Chúa nhưng không, lại đi tìm những thầy bói của cuộc đời.

Tôi quen một gia đình nọ. Người em thì hoàn toàn tin tưởng phó thác vào Chúa, người chị thì ngược lại. Đã hơn một lần người chị rủ người em đi xem bói nhưng người em dứt khoát là không. Người em kể lại chuyện ấy với tôi và bảo rằng chị không bao giờ đi xem bói vì chị không tin. Trong chúng ta cũng có một số người như người chị của người chị mà tôi quen này luôn tìm đến thầy bà để xem vận mạng của mình nhưng nào có ai biết được tương lai phận đời của mình đâu.

Chúng ta vẫn bị giằng co của cuộc đời. Những người bói toán là những con người cùng xác cùng thịt như chúng ta lại có "khả năng" biết được vận mạng, biết được tương lai của chúng ta. Còn Chúa, Chúa với chúng ta hình như nó xa vời vợi làm sao đó để rồi chúng ta không còn tin Chúa nữa mà tin theo người bói toán. Chúa vẫn ở đó, vẫn lặng lẽ để theo dõi, để quan sát, để chở che, để quan phòng chúng ta nhưng chúng ta không chịu nhận ra Ngài đó thôi.

Nguyện xin Chúa cho chúng ta sáng suốt để nhận ra Chúa chính là cùng đích, là lẽ sống, là nguồn cậy trông của cuộc đời mỗi người chúng ta để rồi giữa những lao đao vất vả của cuộc đời xảy đến chúng ta luôn chạy đến Chúa, bám vào mình Chúa mà thôi.

 

25.Lời quyền năng cứu độ

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Hoán cải và tin theo Chúa Giêsu vì Nước Trời gần đến là lời mời gọi của Đấng Thiên sai (x. Mc 1, 14-20). Sứ vụ Thiên sai ấy được tiếp tục thi hành với Lời Quyền Năng Cứu Độ, Lời có sức chữa lành những người bị quỉ ám, khiến cho những người mù được sáng, người què đi được, người điếc nghe được, nói chung là vui mừng sung sướng; mọi người đều ...thán phục; các thần ô uế phải vâng lệnh Người (x. Mc 1, 21-28).

Chiêu mộ các môn đệ xong, Chúa Giêsu cùng với các ông tới Capharnaum. Tại hội đường, nơi cộng đoàn tụ họp để lắng nghe Lời Chúa và phổ biến Luật cũng như lời các Tiên tri, lần đầu tiên các môn đệ được nghe Chúa Giêsu giảng dạy (x. Mc 1, 21-22).

Hơn cả luật sĩ

Chúa Giêsu giảng dạy như Đấng có quyền, mọi ánh mắt của những người ngồi đấy đều đổ dồn vào Người, còn thần ô uế thì buộc phải vâng lệnh và xuất ra khỏi người nó ám. Người giảng dạy với uy quyền của Thiên Chúa, chứ không như các Tiên tri trong Cựu Ước là những người được Thiên Chúa ủy thác cho; cũng không giảng dạy như các kinh sư Do thái là những người chỉ giải thích Kinh Thánh. Lời giảng dạy của Chúa Giêsu là một cuộc giải phóng, là Tin Mừng cứu rồi, cách riêng cho những người nghèo khổ, những người bị loại ra bên lề xã hội. Lời của Chúa Giêsu tương phản với lời giảng dạy của các thầy thông luật (Mc 1, 22). Câu hỏi được đặt ra: Vậy có điều gì mới chăng? Thưa không, Người không dạy điều gì mới mẻ hoặc trái với giáo lý, cũng không mang đến một giáo lý mới. Chính uy nguyền và phong cảnh giảng dạy làm người ta khám phá ra cái mới. Đồng thời, mới, là vì uy quyền của Người trên các thần ô uế: "Chúng vâng lệnh Người" (x. Mc 1, 25-26). Chúa Giêsu không tiếp chuyện, hay tranh luận với thần ô uế. Người đoạn tuyệt đối thoại với chúng. Và ta sẽ thấy câu trả lời vào cuối trình thuật cám dỗ trong hoang địa. Chúa Giêsu khẳng định: "Người là Chân Lý".

Hơn một Tiên tri

Bài đọc I trích sách Đệ Nhị Luật (Đnl 18, 15-20), chúng ta thấy Môisen được coi là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các ngôn sứ; ông là trung gian giữa Thiên Chúa với loài người. Ông trung gian cần thiết, vì dân chúng sợ mặc khải trực tiếp từ Thiên Chúa nên họ nói: "Tôi không muốn thấy ngọn lửa vĩ đại này nữa, kẻo tôi phải chết " (Đnl 18, 16).

Và đây là những điều Môisen được biết và công bố. Chúa phán: "Ta sẽ gầy dựng giữa anh em của họ một tiên tri như ngươi " (Đnl 18, 15); Chúa sẽ đặt vào miệng vị đó những lời của Chúa, vị ấy sẽ nói cho dân lệnh Chúa truyền. Và nếu kẻ nào không nghe lời của Chúa qua miệng người ấy sẽ nói nhân danh Chúa, kẻ ấy sẽ chuốc lấy hậu quả thích đáng, như Chúa quả quyết: "chính Ta, Ta sẽ tính số với nó"(Đnl 18, 19). Từ chối Môisen hay một tiên tri là từ chối chính Chúa.

Dân sẽ mượn miệng ông, giọng nói của ông, để thân thưa với Thiên Chúa. Một cách nào đó, người ấy không thể nói điều gì khác hơn là Lời Thiên Chúa. Cuộc sống của ông là một cuộc sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa.

Qua đoạn sách Đệ Nhị Luật, phụng vụ giúp chúng ta đọc lời nói đầu thể hiện sứ vụ công khai của Chúa Giêsu, Người hơn cả hơn Môisen: " Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền " (Mc 1,22), Người là "Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mc 1, 24).

Cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần ô uế

Tiếng thét của người bị thần ô uế ám và dằn vặt, nay được Chúa trừ là tiếng thét hư vô, không có nguồn gốc và không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu không chạm vào người này, Người cũng không thuyết phục hắn. Người nói chuyện trực tiếp với hắn lúc Lời Chúa bị mắc kẹt trong sa mạc bởi sự dữ, bạo lực và tà thần, mỗi người chúng ta phải thường xuyên kiên trì chiến đấu.

Điều thần ô uế nói trong hội đường như thể nó tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa. Nhưng nó bị Chúa Giêsu quát và bảo: "Hãy im đi!" (Mc 1, 25). Như sách Đệ Nhị Luật đã nói (18, 19) chúng ta phải biết nghe lời Chúa, trong hành động của đức tin, đức cậy để lời ấy có thể triển nở trong ta, đụng chạm đến chúng ta, biến đổi chúng ta và hiệp nhất chúng ta ...

Sự im lặng bắt buộc này có nghĩa là không còn thời gian nữa. Sự viễn mãn tràn đầy thánh thiện và ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến nhờ sự chết và phục sinh. Vì Người là " Đấng thánh của Thiên Chúa " (Mc 1, 24).

Đấng Thánh của Thiên Chúa

Việc trục xuất thần ô uế ra khỏi người bị nó ám được coi như cuộc chiến giữa Chúa Giêsu và thần dữ. Thần dữ cố gắng ngăn chặn nguy hiểm: "Có chuyện gì giữa chúng tôi và ông?" (Mc 1, 25) Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi và ra khỏi người này!" (Mc 1, 25) Cuộc chiến vẫn tiếp tục trong cơn co giật của bệnh nhân đang bị dằn vặt dữ dội và kêu lớn tiếng. Sức mạnh của Chúa Giêsu làm chủ sự dữ là những cái con người đang bị nắm giữ với lo âu sợ hãi và tự hỏi, "Điều này có nghĩa là gì? " (Mc 1, 27).

Giờ đây, bức màn che dậy được vén lên, mầu nhiệm của Chúa Giêsu và "bí mật" của Người hé mở: Đây là một giáo lý mới! Có thể đây là thời thiên sai mới chăng? Chúa Giêsu có thật là Đấng Mêsia không? Người truyền cho các thần ô uế và chúng vâng theo; chứng tỏ Người mạnh hơn Sự dữ. Nhưng chính ma quỉ nhập nhằng khi tỏ lộ về thân thế Chúa Giêsu: Người là Đấng Thánh, Đấng Thánh của Thiên Chúa! (Mc 1, 24) Thánh là thuộc tính của chính Thiên Chúa. Chúa bắt nó: "Im đi! " (Mc 1, 25). Còn đám đông dân chúng thì vẫn chưa sẵn sàng tiếp nhận, nên kinh ngạc.

Chúng ta cũng thế, khi ta hoang mang về sự sinh tồn của mỗi chúng ta, và thấy các cuộc chiến giữa Sự Thiện và Sự Ác xảy quanh ta và trong chúng ta, chúng ta tự đặt câu hỏi: Chúa Giêsu là ai đối với cá nhân tôi và toàn thể nhân loại?

Đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến không ngừng chống lại cám dỗ và loại trừ sự dữ. Sống theo Chúa Giêsu, con người sẽ không bao giờ nô lệ cho bản năng và ma quỉ. Để được như thế, chúng ta thành tâm nguyện xin mỗi ngày: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng xin cứu chúng con khỏi sự dữ" (Kinh Lạy Cha). Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ