Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 46
Tổng truy cập: 1362645
CHỈ MONG NGÀI LẤY ĐI
CHỈ MONG NGÀI LẤY ĐI
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
Trong những ngày Tết vừa qua, có lẽ cái từ được nhắc đến nhiều nhất đó là từ “PHÚC”; bởi chưng, đó chính là một từ mà nội hàm mang đậm ý nghĩa của lời chúc, của ước mơ, của niềm hy vọng…đẹp nhất dành cho nhau trong những ngày đầu năm. Chính vì thế, cố hiền nhân thi sĩ Nguyễn Công Trứ đã “nhân cách hóa” chữ “PHÚC” (“ÔNG PHÚC”) trong câu đối Tết để đời:
“Chiều ba mươi nợ réo tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa,
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà”.
Quan niệm và triết lý của Á Đông-Trung Hoa về “PHÚC” rất phong phú và tế vi. Điều nầy được dẫn chứng qua chính hình tượng chữ PHÚC (福) hình thành bởi bộ Thị (hoặc Kỳ 示) có hình dạng “Bàn thờ” và ký tự PHÚC (畐) được ghép bởi 3 tự: NHẤT (一), KHẨU (口), ĐIỀN (田) có hình dạng “Đôi tay nâng bình rượu” (Hình thức ký tự theo Giáp Cốt Văn) [1]. Qua cách chiết tự đó, nhiều người đã định nghĩa PHÚC chính là cuộc sống yên vui, đầy đủ như bình rượu đầy tràn dâng cúng thần linh[2]. Và cũng theo quan niệm và văn hóa Trung Hoa được ghi lại trong KInh Thi, cái Phúc tròn đầy luôn bao gồm 5 điều (NGŨ PHÚC): thọ (sống lâu), phú (giàu có), khang ninh (mạnh khoẻ bình an), du hảo đức (đức tốt lâu dài), khảo chung mệnh (chết già, chứ không phải chết non hoặc chết vì tai nạn). Cũng có nguồn khác cho rằng, “NGŨ PHÚC” bao gồm: phú, quý, thọ, khang, ninh”. Phú là giàu. Quý là sang. Thọ là sống lâu. Khang là mạnh khỏe. Ninh là bình an.[3]
Trong khi đó, giáo huấn xuyên suốt của truyền thống mạc khải Cựu Ước thì dạy rằng: hạnh phúc đích thực đó chính là Thiên Chúa; cụ thể hơn, đó là được sống gần gũi, thân mật với Thiên Chúa (Câu chuyện sáng tạo và vườn địa đàng: St 1-2; chuyện tổ phụ Hênóc được đem đi: Kn 5,24; Êlia được cất đi: 2 Vua 2,11… để ở với Thiên Chúa trong một không gian đặc biệt; hạnh phúc cũng chính là được ở với Thiên Chúa ngay nơi thánh điện của trần gian (Tv 63); và nhất là khi thực thi thánh chỉ của Thiên Chúa (Tv 1), là bước đi và chọn lựa “sự khôn ngoan” như là hiện thân chính Chúa và ân điển của Ngài (Châm Ngôn 3, 13-18 và Giảng Viên 14,20-15,10)…Vì thế, có thể tóm kết quan niệm về phúc của Cựu ước qua câu nói của một hiền nhân trong sách Gióp: “Hãy sống thân tình với Thiên Chúa và xây dựng bình an, anh sẽ tìm lại được hạnh phúc” (G 22, 21).[4]
Từ truyền thống giáo huấn đó, các ngôn sứ không ngừng gióng lên sứ điệp canh tân và hoán cải mỗi khi dân Ít-ra-en đi lạc xa đường lối huấn lệnh của Thiên Chúa, tìm kiếm hạnh phúc ảo tưởng nơi những thực tại trần thế, nơi các thần tượng giả trá, nơi sự giàu có thế gian và quay lưng lại với Thiên Chúa. Có thể nói, sứ điệp canh tân và hoán cải của các ngôn sứ tập chú vào chính nội dung nầy: Thiên Chúa chính là gia nghiệp, là điểm tựa; và con người chỉ thực sự hạnh phúc khi nhận ra thân phận khó nghèo, nhỏ bé của mình để tựa nương và phó thác nơi Thiên Chúa, như lời của ngôn sứ Sôphônia trong Bài đọc 1 hôm nay:
Ta sẽ cho sót lại giữa ngươi một dân nghèo hèn và bé nhỏ;
chúng sẽ tìm nương ẩn nơi danh ĐỨC CHÚA.
Số dân Ít-ra-en còn sót lại
sẽ không làm chuyện tàn ác bất công,
cũng không ăn gian nói dối
và miệng lưỡi chúng sẽ không còn phỉnh gạt.
Nhưng chúng sẽ được chăn dắt và nghỉ ngơi
mà không còn bị ai làm cho khiếp sợ. (Xp 3,12-13)
Nối tiếp truyền thống của các sứ ngôn và đưa tới một bình diện cụ thể hơn, rõ nét hơn, Đức Kitô đến loan báo: “Phúc cho ai khó nghèo, vì Nước Trời là của họ”. Toàn bộ bài giảng “Tám Mối Phúc Thật” mà Tin Mừng Matthêô vừa nhắc lại cho chúng ta là “bản đúc kết” súc tích về con đường hạnh phúc đích thực Thiên Chúa đề nghị cho con người và cũng là “lời chúc thân thương của Thiên Chúa” dành cho những ai đang dấn thân trên con đường phúc thật ấy.
Để cảm nhận được những lời chúc phúc nầy, hay nói cách khác, để cảm nhận những ai thực sự là “kẻ nghèo có phúc”, chúng ta thử lắng nghe những dòng suy niệm của nhà chú giải Kinh Thánh Noel Quesson:
“Đức Giêsu là Đấng “Mêsia của người nghèo”. Chính Người đã sống khó nghèo; nhiều lần Người đã cho thấy Người thích hướng về phía nào”. Dĩ nhiên, Người đã hiệp thông trong thân xác và trong cảm thức con người với điều kiện khắc nghiệt của những ai thiếu thốn. Khi chia sẻ thân phận của họ từ lúc nằm trong máng cỏ cho đến lúc bị đóng đinh, “không có một viên đá để kê đầu!”, Người đã cảm thấy một trái tim huynh đệ đang đập vì họ. Là Đấng Mêsia của người nghèo bị Do Thái giáo của giới trí thức Giêrusalem khinh bỉ, Đức Giêsu đã đau khổ như những “người phận nhỏ” và “cùng với họ” bị những “người có của” lăng nhục, khinh khi. Ôi ! sự khinh miệt đáng sợ ấy thường là vô thức đối với sự nghèo khó từ phía những kẻ no nê và cười ngạo nghễ. Vậy Đức Giêsu hứa hẹn gì với những người nghèo ấy ?
Nước Thiên Chúa là của anh em… Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng… anh em sẽ được vui cười…”[5]
Và rồi, tiếp bước theo Chúa Giêsu nghèo khó để cũng trở thành “kẻ nghèo có phúc”, Tin Mừng dã kể cho chúng ta:
– Giàu có ổn định với bàn đếm tiền của nghề thuế vụ, Lêvi đã chọn một “kẻ nghèo có phúc” để trở thành một Matthêô Tông đồ, theo chàng thợ mộc Giêsu sống đời “màn trời chiếu đất” để dấn thân cho công cuộc rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
– Giàu có như ông ty trưởng Thuế vụ Gia-kê, nhưng ông vẫn là “kẻ nghèo có phúc”, vì ông đã dám tước bỏ cái địa vị cao sang để trèo lên cây sung mà nhìn Đức Kitô, rồi sau đó là cuộc đổi đời để yêu thương và chia sẻ.
– Bụi đời như cô gái làng chơi M.Mađalêna, nhưng lại là “kẻ nghèo có phúc” vì cô đã biết nhỏ những giọt nước mắt sám hối để xin ơn tha thứ và mau mắn làm người đưa tin Chúa sống lại.
– Phản bội như Phêrô 3 lần chối Chúa, nhưng cũng là “kẻ nghèo có phúc” vì ông đã khóc lóc trở về để biến cuộc đời thành một lời đáp tín trung: “Bỏ Thầy con biết đến với ai, vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời”.
– Trần trụi khốn nạn như tên trộm bên hữu Chúa vào chiều Thứ Sáu Khổ nạn, nhưng anh ta là “kẻ nghèo có phúc” khi biết ngước mắt về phía Chúa để thân thưa: “Xin nhớ đến tôi khi Ngài vào Nước Ngài hôm nay”, và tức khắc đã được đáp trả: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”…
Và chúng ta không quên dụ ngôn “Người Pharisiêu và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện”. Chúa Giêsu đã kết luận: “Người nầy ra về sẽ nên công chính, còn người kia thì không”. Người được nên công chính đó chính anh chàng thu thuế đứng cuối đền thờ đấm ngực ăn năn: “Lạy Chúa, xin xót thương con, vì con là kẻ có tội”. Quả thật anh chính là “kẻ nghèo có phúc” vì chấp nhận thân phận yếu hèn tội lỗi để phó thác cho lòng xót thương của Thiên Chúa bao dung…
Và nối tiếp “đường đi của Tin Mừng” đó, suốt 2000 năm nay đã có biết bao nhiêu “kẻ nghèo có phúc”, như Anê, Cê-ci-li-a, Au-gus-ti-nô, Mo-ni-ca, Tê-rê-xa hài đồng, Phan-xi-cô As-si-si…như cha thánh Maximilien Kolbe, như Mẹ Thánh Têrêxa thành Calcutta, như Á Thánh An-rê Phú Yên, Các Thánh Tử đạo Việt nam…và hằng ngày, khắp nơi hôm nay, có biết bao nhiêu người dám “đập bể bình dầu thơm quí giá cuộc đời”, dám “bán đi những thửa ruộng màu mỡ cuộc sống” để phục vụ Đức Kitô trong đời thánh hiến, trong chức linh mục, trong vai trò giáo lý viên, tông đồ giáo dân…Trước mặt người đời, trong bậc thang xã hội hoặc với sinh mệnh chính trị, có thể họ là những kẻ thấp cổ bé miệng, là những người bị trù dập bách hại, là những thức “rác rưởi bỏ đi”, nhưng, như lời Thánh Phaolô trong Bài Đọc II hôm nay: “Những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh…”.
Thế nhưng, ngày hôm nay người ta hay dị ứng với chữ “nghèo”, mặc cảm với cái nghèo; và nói tới nghèo là cứ nghĩ ngay tới “miếng cơm manh áo, cái xe, cái nhà, con đi học, bệnh tật thuốc thang…”. Và cũng chính vì thế càng lúc con người càng trở nên nghèo nàn thực sự về phương diện tâm linh, khi cứ tất bật toan tính toàn chuyện làm ăn, “phá lẫm cũ xây lẫm mới”, để rồi khép kín trái tim và tâm hồn trước Thiên Chúa và anh em đồng loại.
Cơn đại dịch “Coronavirus” (Hay còn được gọi nôm na là “dịch cúm Vũ Hán) đang làm rung chuyển thế giới từ những ngày đầu năm Canh Tý, và là một cảnh báo thẳng thừng: vật chất, khoa học, kỷ thuật, kinh tế, chính trị…không bao giờ là là một bảo đảm cho hạnh phúc của nhân loại. Chỉ một con virus nhỏ thôi cũng đủ làm tiêu vong mọi thứ. Chính vì thế, chúng ta cần tìm kiếm một con đường khác, một bảo đảm khác cho hạnh phúc đích thực. Đó là con đường “Phúc thật của Tin Mừng”, một con đường “hẹp”, một con đường “chông chênh” và đôi khi trở thành “ngược dòng” đối với tâm thức của nhân loại muôn nơi muôn thuở.
Nhắc tới cơn “đại dịch Vũ Hán” hôm nay, chúng ta đừng quên một truyền thuyết của nhà Phật: “chiếc trâm của người thiếu phụ nghèo Lộc Nương”:
Thiếu phụ nghèo Lộc Nương chỉ có một chiếc trâm cài tóc bằng gỗ, đã thể hiện lòng thành, cúng cây trâm cho chùa Tế Vũ để đúc chuông trừ tà dịch. Sư đúc chuông lấy vàng bạc đúc còn chiếc trâm ném đi. Chuông đúc 3 lần không kêu lại có in lõm hình chiếc trâm trên thân. Sau nhớ lại, thành tâm sám hối, quyết tìm lại chiếc trâm, chuông tự động kêu vang và hình cây trâm vá lại chỗ lõm. Tà dịch được xua trừ.
Vâng, thế giới hôm nay, cuộc đời hiện tại luôn cần những “chiếc trâm của người thiếu phụ nghèo Lộc Nương”, luôn cần những kẻ như Phanxicô Assisi (1181-1226), không những là chứng nhân tiêu biểu của Đức Khó Nghèo Kitô giáo, của Tin Mừng Bát Phúc, mà còn là người đã trân trọng “đính hôn cuộc đời với cô Khó Nghèo”, một ý tưởng, một nhân đức, một quan niệm sống… được ngài nhân cách hoá như một ngôi vị: CÔ NGHÈO (LADY POVERTY)[6]
Tuy nhiên, con người thường quay lưng trước những đòi hỏi của Tin Mừng, như người thanh niên giàu có đã sụ mặt bỏ đi khi nghe Chúa Giê-su mời gọi: “Con hãy về bán hết mọi của cải, bố thí cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta”…, nên lời nguyện sau đây của đại thi hào Tagore vẫn còn cần thiết cho mỗi người chúng ta:
Chỉ mong Ngài lấy đi
Mong chẳng còn gì thuộc về con
Mong chẳng còn gì là của con
Để con được trắng tay
Con chỉ còn Ngài để giữ lấy
Con được chọn Chúa mãi là của con
Chỉ mong Ngài xoá đi
Mong chẳng còn gì để chiếm hữu
Mong chẳng còn gì ràng buộc con
Để con được ngước lên
Con tìm được Ngài là chân lý
Con được cùng Chúa đồng hành luôn
Chỉ mong Ngài cất đi
Mong chẳng còn gì để nắm giữ
Mong chẳng còn gì mà tự tôn
Để con chỉ biết yêu
Yêu một mình Ngài trọn đời con
Con nhìn nhận Chúa chính Nguồn Tình Yêu.
-------------
[1] Giáp Cốt Văn: Một kiểu ký tự chữ Hán cổ trên mai rùa (Giáp) và xương thú (Cốt). Nguồn: thuphapdungpham.com
[2] Nguồn: thuphapdungpham.com
[3] Nguồn: mynghehaiminh.vn
[4] Xem thêm 2 bài viết của hai tác giả sau:
– Lê Phú Hải OMI: Quan niệm hạnh phúc theo Kinh Thánh Cựu Ước. Nguồn: hoaxuongrong.org
– Lm. Thái Nguyên: Hạnh phúc trong cuộc đời. Nguồn: simonhoadalat.com
[5] Noel Quesson: Chúa Nhật VI Thường niên C. Nguồn: Trang mạng giáo phận Phú Cường: giaophanphucuong.org
[6] Trang bách Khoa Toàn Thư mở Wikipedia: “Người ta kể lại rằng khi cố từ chối những trò giải trí và những buổi hội hè đình đám với bạn bè, những người này trêu chọc Francis và hỏi có phải cậu sắp kết hôn không, câu trả lời là “phải, với một cô dâu đẹp hơn bất cứ người phụ nữ nào mà các cậu từng gặp” – Francis ngụ ý “sự nghèo khó” (lady poverty), một thuật từ mà ông thường sử dụng sau này.”
7.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành
Là con người, ai trong chúng ta cũng mong muốn được hạnh phúc, nhưng quan niệm về hạnh phúc thì khác nhau: Có người cho rằng hạnh phúc là có nhiều tiền bạc của cải; có người cho rằng hạnh phúc là có vợ đẹp con khôn; có người cho rằng hạnh phúc là có quyền cao chức trọng; có người cho rằng hạnh phúc là được sống lâu…
Chính vì quan niệm như thế, cho nên có những người đang dùng những mánh khóe lừa gạt để kiếm cho được nhiều tiền, bất chấp luân thường đạo lý, lẽ công bằng. Họ đang tích trữ kho tàng vật chất để sống hưởng thụ mà quên đi tình bác ái với anh chị em đồng loại; có những người đang tự hào về sắc đẹp của mình, thậm chí dùng sắc đẹp để thỏa mãn dục vọng, phỉnh gạt người khác nên đã gieo biết bao đau khổ cho tha nhân; có những người đang cố gắng dùng quyền lực để cai trị, để kiếm chác nên đã làm khổ dân nước…
Tôi có một người bạn, thi trường Đại Chủng viện 3 lần đều rớt, nên anh tìm đến dòng tu. Ở được một năm thấy không hợp, anh ta trở về cưới vợ. Sau một thời gian gặp lại, anh ta kể cho tôi nghe về vợ con, nhà cửa, nghề nghiệp và mọi thứ. Anh ta rất bằng lòng với cuộc sống của mình. Tôi nhận thấy anh ta rất hạnh phúc. Nhưng sau đó, tôi lại nghe tin vợ anh ta dính líu vào vụ làm ăn gian lận sao đó, nợ nần chồng chất. Người ta thay nhau đến đòi nợ. Nhà cửa, tài sản, đất đai của gia đình anh ta không cánh mà bay. Cuối cùng, vợ anh ta bỏ trốn. Anh ta trở thành cái bia để cho người ta xỉ vả, chửi bới.
Hóa ra, những thứ hạnh phúc ở đời này quá mong manh: vợ đẹp con khôn, chức quyền danh vọng, của cải… có thể nay còn mai mất. Vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rằng: “Đặt niềm tin nơi ta, hay nơi của cải, tiền bạc, quyền lực, rất có thể chúng sẽ mang đến cho ta “một cảm giác sung sướng nhất thời, một ảo tưởng hạnh phúc” và cuối cùng, “chúng sẽ chiếm hữu ta, khiến ta luôn muốn có nhiều hơn, không bao giờ được thoả mãn.” Pic de la Mirandole cũng đã nói: “Tìm hạnh phúc nơi tạo vật là một điên khùng. Hạnh phúc thật chỉ có thể gặp thấy trong Thiên Chúa.”
Thật vậy, chỉ có Chúa và những gì thuộc về Chúa mới là hạnh phúc vĩnh cửu. Thánh nữ Têrêxa Avilla đã nói: “Tất cả sẽ qua đi, chỉ mình Chúa mới tồn tại muôn đời.” Thánh Augustinô sau một thời gian đi tìm khoái lạc, hạnh phúc ở đời này, cuối cùng cũng đã thú nhận rằng: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, linh hồn còn vẫn còn khắc khoải lo âu cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa.”
Nhưng để có hạnh phúc vĩnh cửu nơi Chúa, chúng ta phải thực hành những gì Chúa dạy, phải đi con đường Chúa đã đi. Con đường đó, các Thánh cũng đã từng đi qua. Đó không phải là con đường rộng rãi thênh thang, con đường của êm ái mà là con đường của hy sinh, từ bỏ, con đường của thập giá. Con đường đó là con đường của Tám Mối Phúc Thật mà chúng ta vừa nghe qua đoạn Tin mừng hôm nay (x. Mt 5,1-12a): Đó là biết sống tinh thần nghèo khó, biết sử dụng tốt những của cải Chúa ban, biết sẻ chia cho những người đói khát, nghèo nàn; đó là biết sống hiền lành, cư xử nhẹ nhàng, mềm dẻo với những người xung quanh; đó là biết khóc lóc, sầu buồn, hối hận vì những lỗi lầm mình đã gây nên, giống như thánh Phêrô đã ăn năn khóc lóc mỗi khi gà gáy vì nhớ đến tội chối Chúa của mình; đó là biết khao khát điều công chính, mong muốn mình trở nên tốt hơn, hoàn thiện hơn; đó là biết thương xót người, nhất là những người cô thế cô thân, những người sống bên lề của xã hội, giống như gương của Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta: “Hạnh phúc có nghĩa là yêu như Chúa đã yêu, giúp đỡ như Người đã giúp đỡ, hy sinh như Người đã hy sinh, phục vụ như Người đã phục vụ…”; đó là biết sống trong sạch trong tư tưởng, lời nói, việc làm; đó là biết xây dựng sự hòa bình, hòa thuận, không gây gỗ, chia rẽ, bất hòa với ai. Nếu lỡ bất hòa với ai thì biết làm hòa trước khi mặt trời lặn hoặc trước khi lên dâng của lễ trên bàn thờ; đó là biết bênh vực cho công lý và sự thật dầu có phải chịu đựng sự bách hại vì lẽ công chính: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” (Lời kinh hòa bình của Thánh Phanxicô Assisi).
Vậy, chúng ta đang đi tìm thứ hạnh phúc nào? Hạnh phúc nơi Chúa hay hạnh phúc nơi của cải, tiền bạc, quyền lực? Xin cho chúng ta không đặt tin tưởng nơi của cải, tiền bạc, quyền lực và những thứ ở đời này nhưng hãy tìm kiếm hạnh phúc nơi Chúa, hạnh phúc của Tám mối phúc thật, đó là hạnh phúc của Nước Thiên Đàng.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm hạnh phúc thật đó là hạnh phúc nơi Chúa, hạnh phúc trên Thiên Đàng. Amen.
8.Hạnh phúc
Có thể một lần nào đó, chúng ta đã buột miệng khen là hạnh phúc những kẻ di chuyển trong những chiếc xe bóng loáng, những kẻ ở trong những ngôi biệt thự nguy nga, những người quyền cao chức trọng. Và quả là bất hạnh cho những người nghèo khổ, thiếu thốn mọi sự, những người cô thế bị trù dập.
Thế nhưng những lời tuyên bố của Chúa Giêsu hôm nay, hẳn phải làm chúng ta sửng sốt. Bởi vì những người được Người chúc phúc lại là những người nghèo khổ hiền lành, đau buồn, đói khát và bị bách hại. Phải chăng Chúa Giêsu chỉ là một kẻ mị dân hay là một người lập dị?
Thánh Phaolô trong bài đọc II đã suy nghĩ về thái độ của Chúa Giêsu và đã thốt lên: Những gì người đời cho là điên dại, hèn yếu lại chính là những gì Thiên Chúa dùng để thực hiện chương trình cứu rỗi của Ngài. Xa xưa trong quá khứ, tiên tri Sophonia đã loan báo về sự chở che của Thiên Chúa đối với người hiền lành và khiêm tốn. Những lời chúc phúc của Chúa Giêsu không thể được coi như những lời chúc phúc bình thường theo kiểu chúng ta cầu chúc cho nhau thoát khỏi cơn hoạn nạn. Lời cầu chúc có thể là thành tâm nhưng lại bất lực trong việc biến đổi hoàn cảnh của kẻ khác. Những lời chúc phúc của Chúa Giêsu là những lời tuyên bố, những lời hứa thực hiện, tỏ bày sự chọn lựa của Thiên Chúa, như lời tiên tri Isaia: Thiên Chúa đã xức dầu cho tôi và sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó.
Nghèo khó phải chăng là một thứ công nghiệp đáng được khen thưởng? Không phải vậy, có thể trong ngôn ngữ tôn giáo, chúng ta đã nói nhiều đến thưởng phạt, nhưng Chúa Giêsu lại muốn cho người ta hiểu rằng Thiên Chúa chọn người nghèo khổ vì chính hoàn cảnh thua thiệt đó đối với Chúa lại là hoàn cảnh thuận lợi để Ngài thi thố lòng yêu thương quảng đại của Ngài.
Điều Thiên Chúa muốn nhắm tới chính là mối liên hệ tình nghĩa giữa Ngài và con người. Ngài muốn cho chúng ta nhận ra rằng chính Ngài là nền tảng hạnh phúc đích thực và bền chắc của con người. Chúa Giêsu không phải chỉ dạy chúng ta một lối sống luân lý để rồi Thiên Chúa sẽ dựa vào việc người ta có sống hay không sống theo mẫu mực luân lý ấy mà thưởng hay phạt. Chúa Giêsu là Đấng trước hết thực hiện chương trình cứu chuộc, công trình giải phóng, đem lại hạnh phúc đích thực cho con người, và con người được mời gọi sống xứng đáng ơn huệ đã được ban cho.
Chúng ta hãy thực thi tinh thần của Chúa để nhờ đó chúng ta xứng đáng lãnh nhận niềm hạnh phúc Chúa đã hứa ban.
9.Khó nghèo.
Phật Thích Ca đã xác quyết trong bài thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng câu: Vạn sự vô thường, vạn sự khổ. Nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ đau. Sinh, bệnh, lão, tử. Con người sinh ra để rồi ốm yếu, già lão và cuối cùng là chết chóc. Rõ thật đời là bể khổ mà mỗi người là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện trên đất Palestin, đã tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: Phúc cho ai có tâm hồn khó nghèo, vì Nước Trời là của họ.
Một người bị mang tiếng là bi quan yếm thế, còn người kia thì lại bị coi là không tưởng, lạc quan thái quá. Một bên coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn. Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ cũng như sức lực để nghiên cứu, suy tư và bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của Chúa Giêsu. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh về hai bài giảng đó. Tuy nhiên, chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng có tính cách tiên tri ấy. Vì thật ra, cả Đức Phật lẫn Chúa Giêsu, đều không chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình.
Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới chân nhu, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Chúa Giêsu là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất và sự sống trong cái chết. Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Ngài không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Chúa Giêsu cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, thánh Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm hồn" vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con người. Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ cũng như trong thời ở khách sạn năm sao, vẫn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy và ngược đời: nhiều người có đủ điều kiện để hạnh phúc mà thực tế lại đau khổ khôn lường. Còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.
Thực ra, ai cũng biết rằng nghèo không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở tại cái Tâm. Bởi thế các bậc thánh nhân, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Đó chính là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận đau hkổ, yêu thích sự chính trực, thương xót anh em đồng loại, trong sạch và xây dựng hoà bình.
Thực vậy, những đức tính trên đây là những đức tính người nghèo của Thiên Chúa, theo truyền thống Kinh Thánh. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa, biết sống cho Ngài và cho anh em đồng loại. Lấy Chúa làm gia nghiệp và luôn sống trong tình liên đới với anh em. Thực thi điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.
Nói theo tư tưởng Đông phương, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hoà điệu giữa lòng mình với lòng trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống cho hợp lòng người và lấy lòng trăm họ làm lòng mình.
Trong tám mối phúc thật, Chúa Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.
10.Nẻo về hạnh phúc – Lm. Ignatiô Trần Ngà
(Trích từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Thi đàn Trung Quốc từ cổ chí kim nổi lên một tên tuổi lớn, đó là nhà thơ Lý Bạch, thời Thịnh Đường (701 - 762). Ông tự xem mình như tiên ông bị lưu đày xuống thế. Ông ưa sống kiếp lãng du, say mê vẻ đẹp đất trời, vẻ đẹp sông núi, trăng sao...
Theo truyền tụng nhân gian, vào một đêm trăng tỏ, Lý Bạch buông thuyền xuôi theo giòng sông Thái Trạch lấp lánh ánh trăng đêm. Ông đàn hát ngâm vịnh và uống rượu thưởng thức trăng.
Càng về khuya, men rượu nồng bốc lên càng làm ngây ngất lòng thi sĩ. Sông nước, cảnh vật lúc ấy càng huyền ảo nên thơ. Thi nhân cảm thấy mình như đang lạc vào bồng lai tiên cảnh. Mảnh trăng diệu huyền in hình dưới làn nước lung linh như đang gọi mời ông tao ngộ.
Trong hơi men chếnh choáng, ông nhoài mình qua mạn thuyền, cúi thật sâu xuống nước để ôm lấy vầng trăng mà ông say đắm lâu nay.
Than ôi! Ông đã bỏ hình bắt bóng và giòng sông oan nghiệt đã kết liễu đời ông.
Trên cao, vầng trăng thật như đang mỉm cười chế giễu ông.
Câu chuyện của nhà thơ họ Lý cũng là câu chuyện thời sự của thế kỷ chúng ta. Nhân loại hôm nay đang kêu gào hạnh phúc, đang khao khát kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng họ đâu biết rằng Thiên Chúa là Cội Nguồn của hạnh phúc.
Một vầng trăng thật in thành hàng tỷ bóng trăng trên các ao hồ khe suối.
Một Cội Nguồn Hạnh Phúc (là Thiên Chúa) toả xuống vô vàn mảnh vụn hạnh phúc trong các sự vật phù du ở đời.
Thay vì tìm về Cội Nguồn hạnh phúc là Thiên Chúa, người ta dại dột đâm đầu vào những chiếc bóng của hạnh phúc nơi những tạo vật chóng tàn.
Quả thế, người ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất... rồi người ta đâm đầu vào đó như những những con thiêu thân lao vào lửa, như Lý Bạch nhào xuống nước tìm trăng.
Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc, Thiên Chúa là nguồn mạch của hoan lạc và an bình, Thiên Chúa là Tình Yêu.
Tất cả những ai đang khao khát tình yêu, an bình, hạnh phúc là đang khao khát Chúa.
Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình bắt bóng. Người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời.
Thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt. Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian... nhưng Anh đã thất vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải. Mãi đến năm ba mươi tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của hạnh phúc, chẳng khác chi bóng trăng in hình đáy nước và chỉ có Thiên Chúa mới là 'Vầng Trăng' thật, là Hạnh Phúc thật mà thôi. Bấy giờ, với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Augustino thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài nên hồn con thổn thức khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong Ngài".
Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao. Chính Thiên Chúa đã đặt vào cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không gì trên đời nầy có thể khoả lấp được và để lòng khao khát đó luôn thôi thúc chúng ta kiếm tìm, kiếm tìm không mệt mỏi cho đến khi gặp được Ngài là Hạnh Phúc đích thật.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta quen gọi là tám mối phúc thật. Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa, là Nước Trời, là Đất hứa:
* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì ta có là của Chúa ban...
* Cư xử hiền lành, biết nhường biết nhịn và mềm mỏng với mọi người...
* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau cho người khác...
* Khao khát trở nên người công chính,
* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái với mọi người...
* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa điều tà, điều gian ác, điều bất công...
* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau...
* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công chính thanh liêm...
Nẻo về Hạnh Phúc đã rộng mở.
Bí quyết vào Nước Trời đã được giải bày.
Vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có đủ khôn ngoan và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với chúng ta hay không.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam