Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 63

Tổng truy cập: 1363520

CHỜ ĐÓN CHÚA ĐẾN THĂM

CHỜ ĐÓN CHÚA ĐẾN THĂM

 

Có mt câu chuyn ng ngôn nhiu ý nghĩa, tôi mun k cũng anh ch em nhân dp chun b đón Chúa đến. Chuyn k rng: Vào bui chiu hôm y, bác th giy thc gic tht sm. Bác quyết định chun b căn phòng làm vic ca mình cho gn gh, để ch đón mt v khách qúy là chính Chúa Giêsu, vì trong gic mng ban đêm, Ngài đã hin ra báo cho bác biết, Ngài s ghé thăm ngay hôm nay.

Bác th đánh giy ngi ch, tâm hn tràn ngp hân hoan. Nhng tia nng ban mai di qua khung ca làm cho căn phòng m áp thêm. Cht nghe tiếng gõ ca nhè nh, lòng bác thêm hi hp, sung sướng vì được Chúa ghé thăm. Nhưng khi cánh ca m ra, người khách đối din li là ông đưa thư quen thuc, tay chân tím bm, mt mũi xám ngoách, vì tri cui đông lnh but. Không n để ông run ry ra đi, bác mi ông vô nhà pha trà tiếp khách. Sau khi được sưởi m tm thân, người đưa thư đứng dy cám ơn ri ra đi tiếp tc công vic.

Bác th giy tr li ch cũ ch đón Chúa đến. Nhìn qua khung ca hàng, bác thy mt em bé đang khóc xướt mướt trước ca nhà. Bác ra m ca gi nó li, hi nguyên do, nó mếu máo cho biết là nó lc mt m và không biết đường v. Bác th giy ly giy viết vài ch nguch ngoc đặt trên bàn, báo cho người khách qúy biết mình phi đi ra ngoài lo tìm nhà cho em bé. Nhưng tìm đường dn em v nhà không phi là chuyn nh. Mãi đến sm ti bác mi tìm được và khi tr v nhà thì ph đã lên đèn.

Va bước vào đã thy có người ngi đợi, nhưng đó không phi là Chúa Giêsu, mà là mt người đàn bà tiu ty, mt l vì có con m nng cn giúp đỡ. Bác th giy thy thế lin vi vàng đến nhà giúp đỡ em bé, đến na đêm mi v. Bác lăn vô giường ng chng kp thay qun áo.

Thế là mt ngày qua đi mà Chúa cũng chưa đến thăm bác na. Nhưng trong gic ng vùi vì mt mã, bác nghe thy tiếng Chúa nói: "Cám ơn con đã dn trà cho Ta ung, đã dn Ta v nhà, đã săn sóc an i Ta đau yếu. Cám ơn con đã tiếp đón Ta hôm nay".

Ý nghĩa câu chuyện quá rõ ràng. Cuộc chờ đón Chúa không phải là một vinh quang trần thế, không phải trong vui vẻ hài hòa, mà Chúa đến trong mọi hoạt cảnh, từ sáng đến trưa, từ trưa tới khuya. Chúa đến qua hiện thân của mọi người ta gặp hàng ngày.

Điều quan trọng là ta có sẵn sàng, có niềm nở, có vui tươi chấp nhận họ với cả sự hy sinh chính mình không. Nén bạc tác động của tình thương, của tình yêu, của tình bác ái chân thành và đầy ý nghĩa muốn như bác thợ giầy mới là tác động đón Chúa cách tích cực. Việc làm ấy mới đem lại lợi lộc gấp trăm.

Hàng năm chúng ta vẫn thích đón mừng Chúa Giáng Sinh, và hàng năm Ngài vẫn gõ của từng quán trọ, từng cửa lòng mỗi người. Nhưng chúng ta tiếp đón Chúa thế nào? Có đến nỗi Chúa phải sinh ra trong hang lạnh giá lòng chúng ta không? Và nếu còn như thế, Ngài cũng sẽ tiếp tục nói mãi trong giấc mộng của chúng ta. Hãy mở rộng tâm hồn đón Ngài. Hãy sửa soạn tâm hồn, sửa sang con tim cho ngay chính. Ngài cần tách trà ấm tình cho người lạnh nhạt với chúng ta. Ngài cần cánh tay nâng đỡ những người nhờ vả chúng ta. Ngài cần sự cảm thông tha thứ cho người có lỗi với chúng ta. Ngài cần chúng ta cho đi những gì mình muốn giữ lại. Bao nhiêu nghĩa cử ấy là bấy nhiêu lễ Giáng Sinh đẹp trong đời. Xin hãy suy nghĩ và thực hiện trong những ngày chờ đón Chúa đến.

“Hãy leo lên núi Chúa, tới nhà Thiên Chúa Giacóp”

Vâng, Chúa Kitô thật sự là một Con Người Lịch Sử, là Đấng Thiên Sai, Đấng đến để “cứu dân mình khỏi tội”, đúng như ý nghĩa tên Giêsu của Người đã được thiên thần nói đến khi báo mộng cho Thánh Giuse trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 1 câu 21, cũng đúng như sứ mệnh của Người đã được tư tế Giacaria thân phụ của Gioan tiên báo trong Phúc Âm Thánh Luca ở đoạn 1 câu 77. Bởi thế Dân Do Thái của Người nói riêng, hơn ai hết, đã trông đợi Người tới, như được tỏ hiện rõ ràng hơn hết qua việc họ tuốn đến với Gioan Tẩy Giả để xin lãnh nhận phép rửa của thánh nhân, như Phúc Âm theo Thánh Mathêu cho Chúa Nhật thứ hai và thứ ba Mùa Vọng thuật lại, vì họ tưởng Gioan này là Đấng Thiên Sai, như Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy ở đoạn 1 từ câu 19 đến 22. Tuy nhiên, cho tới nay, dân Do Thái vẫn trông đợi Đấng Thiên Sai của họ, vẫn sống trong một thời điểm như thời điểm Mùa Vọng Kitô hữu chúng ta hôm nay bước vào đây. Dân Do Thái sở dĩ tiếp tục mông đợi Đấng Thiên Sai của mình vì Con Người Lịch Sử Giêsu cách đây hơn 2000 năm không phải là Đấng Thiên Sai họ đợi trông. Đúng thế, theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, Con Người Lịch Sử Giêsu là Đấng Thiên Sai này không phải chỉ đến để “cứu dân mình khỏi tội”, mà còn cứu cả loài người khỏi tội lỗi và sự chết nữa, vì Người là Đấng Cứu Thế, chứ không phải chỉ là Đấng Cứu Tinh Dân Tộc Do Thái như một vị anh hùng thời thế vẫn xuất hiện trong giòng lịch sử của họ thôi. Đó là lý do vừa mở màn cho phụng niên để cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, hình ảnh nhân loại nói chung đã được Phụng Vụ Lời Chúa nhắc đến rồi, như bài đọc một của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng cho thấy: “Tất cả các dân nước sẽ tuốn về núi của nhà Chúa; nhiều người sẽ tới mà nói: ‘Hãy đến, nào chúng ta hãy leo lên núi Chúa, tới nhà Thiên Chúa Giacóp”, và bài đọc một của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng cũng cho thấy: “Vào ngày ấy, gốc Jesse mọc lên như một dấu hiệu cho các dân nước thấy, Các Dân Ngoại sẽ tìm kiếm, vì nơi Người cư ngụ sẽ được vinh quang”. Chính Con Người Lịch Sử Giêsu này là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis” đã làm sáng tỏ ý nghĩa của bốn tuần lễ Mùa Vọng, một thời đoạn tượng trưng cho 4 ngàn năm toàn thể nhân loại trông đợi Đấng Thiên Sai, Đấng ngay từ đầu lịch sử thế giới đã được Thiên Chúa Hóa Công hứa ban, như Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 3 câu 15 về giòng dõi người nữ đạp đầu rắn quỉ.

Tuy nhiên, nếu thực sự Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần đã đến rồi, cách đây hơn 2000 năm, thì Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng còn cần gì phải cử hành Mùa Vọng để chờ đón Người đến thế gian lần thứ nhất này nữa mà làm gì, còn cần gì phải như Dân Do Thái cho tới bay giờ vẫn đợi trông Đấng Thiên Sai của họ, vì nhân vật Giêsu Nazarét ở giữa họ cách đây hơn 2000 năm, một nhân vật đã hoàn toàn bị họ căm hờn phủ nhận, đến nỗi, họ thà nhận giặc làm vua còn hơn nhìn nhận nhân vật lộng ngôn phạm thượng này (xem Mt 26,65; Jn 19,7), như họ đã tuyên bố thẳng thắn với tổng trấn Philatô: “Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cêsa” (Jn 19,15)? Thật vậy, theo lịch trình phụng niên, Mầu Nhiệm Chúa Kitô Giáng Sinh và Mầu Nhiệm Chúa Kitô Phán Xét hoàn toàn khác nhau, ở chỗ, một mầu nhiệm mở màn cho phụng niên và một mầu nhiệm kết thúc phụng niên. Thế nhưng, theo bản chất và ý nghĩa của mình, nếu phụng vụ là việc long trọng cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, cử hành những gì do Vị Thiên Chúa Làm Người đã thực hiện trong lịch sử loài người, như nhập thể, tử giá và phục sinh, những Biến Cố Thần Linh không thể qua đi như mọi biến cố lịch sử trần gian khác, trái lại, chúng sẽ muôn đời tồn tại như chính vị Tác Giả Thần Linh của chúng, với Tác Hiệu Thần Linh phát sinh từ những Biến Cố Thiên Chúa thực hiện này, thì qua việc cử hành phụng vụ, Chúa Kitô quả thực hiện diện nơi phụng vụ và tác động qua phụng vụ một cách mầu nhiệm.

Bởi thế, bởi “Chúa Kitô quả thực hiện diện nơi phụng vụ và tác động qua phụng vụ một cách mầu nhiệm”, mà khi cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô trong Mùa Vọng là thời đoạn trông đợi Người đến lần thứ nhất, Giáo Hội chẳng những muốn hướng con cái mình về biến cố Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà còn muốn con cái mình, nhờ Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể, thực sự cảm nghiệm được việc Chúa Kitô đang hiện diện trong Giáo Hội cho tới tận thế, cho tới khi Người đến lần thứ hai. Như vậy, Kitô hữu chúng ta chỉ thực sự Sống Phụng Vụ nói chung và Sống Mùa Vọng nói riêng, khi chúng ta có được Cảm Nghiệm Thần Linh này, một cảm nghiệm về “Ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới chấp nhận đức tin”, như Thánh Phaolô nhắc nhở một cách sâu xa trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở bài đọc thứ hai hôm nay. Đó là lý do, trong cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng, Giáo Hội bao giờ cũng chọn bài Phúc Âm về lời Chúa Giêsu cảnh giác các môn đệ của Người, (chứ không phải cảnh giác chung dân Do Thái hay cảnh giác riêng nhóm Pharisiêu hoặc cảnh giác thành phần thượng tế và kỳ lão lãnh đạo trong dân), về việc “hãy tỉnh thức” chờ Chúa đến. Bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu Năm A hôm nay đã chứng thực điều này như sau: “Vậy các con hãy tỉnh thức! Các con không biết được ngày nào Chúa của các con đến”.

Đúng vậy, cho dù Chúa Kitô Cứu Thế đã đến với chung loài người và đang ở cùng Giáo Hội của Người cho tới tận thế, tức cho tới khi Người đến lần thứ hai, thế nhưng, nếu xét về con số, thì 4/5 nhân loại, tức đa số loài người vẫn chưa nhận biết Người, trong khi đó, chính thành phần mang danh Kitô hữu, thành phần 1/5 dân số nhân loại hiện nay đã chính thức chấp nhận Người qua Bí Tích Rửa Tội, cũng đã quay ra chối bỏ Người, một thái độ được bộc lộ tỏ tường nơi thế giới Kitô Giáo Âu Mỹ qua hiện tượng phá sản đức tin bằng văn hóa sự chết hiện nay. Như thế, đối với hầu hết nhân loại, kể cả thành phần ngoài lẫn trong Kitô Giáo, Chúa Kitô Cứu Thế đã trở thành vô nghĩa, không có giá trị gì cả, kể như không có, hay có chăng nữa, cùng lắm cũng chỉ là một nhân vật lịch sử thuần túy vậy thôi, giống hệt như các vị sáng lập những đạo giáo khác vậy. Chính vì để tránh khỏi tình trạng như Tiền Hô Gioan đã cảnh giác dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26: “Có một Đấng ở giữa các người mà các người không biết”, một tình trạng chẳng những xẩy ra cho Kitô hữu thời chúng ta, thời 2001 năm sau Chúa Kitô Giáng Sinh, mà còn xẩy ra ngay cho cả Kitô hữu ở vào thời Giáo Hội sơ khai, thời Chúa Kitô vừa mới về trời, Thánh Phaolô đã kêu gọi Giáo Đoàn Rôma rằng: “Anh em biết thời gian chúng ta đang sống đây. Đó là thời giờ anh em phải tỉnh giấc… Đêm qua rồi; ngày gần đến. Chúng ta hãy loại trừ những việc làm tối tăm và hãy mặc lấy khí giới ánh sáng”.

Vâng, đúng thế, chính “những việc làm tối tăm” của Kitô hữu đã khiến cho họ, dù ở bất cứ thời nào, không còn thấy được hay thấy rõ Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12) nữa, đúng như Người đã cho Nicôđêmô biết ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 19: “Aùnh sáng đã đến trong thế gian, song con người đã chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều là những việc gian ác”. Mà “những việc làm tối tăm” đây là gì, nếu không phải là những việc liên quan đến đam mê nhục dục, như Chúa Giêsu đã đề cập đến trong Phúc Âm hôm nay khi Người nhắc lại “thời Noe… người ta ăn uống, cưới vợ gả chồng… hoàn toàn không còn để ý gì nữa cho đến khi lụt xẩy đến mà hủy diệt họ”. Trong bài đọc hai hôm nay, Thánh Phaolô cũng khuyên Giáo Đoàn Rôma “anh em hãy loại trừ những việc làm tối tăm” là những việc liên quan đến đam mê nhục dục như sau: “Chúng ta hãy sống một cách đoan chính như giữa ban ngày; đừng chè chén say sưa, đừng dâm ô lăng loàn, đừng cãi lẫy hờn ghen. Trái lại, anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng chiều theo những ước muốn xác thịt”.

Vấn đề thực hành sống đạo: Để có được Cảm Nghiệm Thần Linh về thực tại Chúa Kitô là Lời đã nhập thể 2001 năm trước đây, cũng như về thực tại Người còn đang mầu nhiệm ở với Giáo Hội của Người cho đến tận thế, trước hết, chúng ta cần phải “tỉnh thức”, bằng cách “loại trừ những việc làm tối tăm”, như ý hướng của Thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng như của chính Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay huấn dụ. Phải chăng chính lúc chúng ta “loại trừ những việc làm tối tăm” là lúc chúng ta đang “leo lên núi Chúa”, đang lên cao hơn, đang từ từ được tự do thanh thoát hơn, “cho tới khiù được mặc lấy quyền lực từ trên cao” (Lk 24:49), một tầm mức và trạng thái đã được tiên tri Isaia bóng bẩy diễn tả như một “đỉnh núi cao nhất” trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Trong những ngày tới đây, ngọn núi của nhà Chúa sẽ được thiết lập như một đỉnh núi cao nhất, vượt trên các ngọn đồi… Chúng ta hãy leo lên núi Chúa, đến nhà Thiên Chúa của Giacóp”? Phải chăng chỉ khi nào chúng ta leo lên tới ngọn của “đỉnh núi cao nhất” này, tức lúc chúng ta được tràn đầy “quyền lực từ trên cao”, chúng ta mới đến được “nhà Thiên Chúa của Giacóp”, tức mới gặp được “Con Người Giêsu Kitô” (1Tim 2:5), Đấng “đã đến trong xác thịt” (1Jn 4:2), Đấng chính là “Vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:23)?

 

69.Dọn lòng đón Chúa – Lm Minh Vận

Mùa Vọng là mùa khơi dậy cho con cái Chúa một niềm vui đầy hy vọng và trông đợi Chúa đến. Sự trông đợi Chúa đây, không phải như các tổ phụ, các tiên tri và dân Do Thái xưa mong đợi Chúa Cứu Thế đến trần gian, vì Chúa Cứu Thế đã đến, Người sinh ra bởi Đức Trinh Nữ Maria tại Belem đã 2000 năm rồi.

Nhưng trong Mùa Vọng, Giáo Hội muốn nhắc nhớ và khuyên nhủ con cái, dọn tâm hồn trong sạch để xứng đáng đón rước Chúa đến với mỗi tâm hồn chúng ta, bằng ơn thánh, bằng tình yêu thương và an bình của Chúa. Đó là món quà đặc biệt nhất Chúa muốn ban tặng cho các con cái ngoan thảo của Chúa trong dịp mừng kỷ niệm Chúa Giáng Sinh sắp tới.

Vậy chúng ta cần phải chuẩn bị thế nào để tâm hồn chúng ta được xứng đáng đón tiếp Chúa đến với chúng ta?

I. HÃY TỈNH THỨC VÀ CHỜ ĐỢI

Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi đề cập đến lụt đại hồng thủy thời ông Noe, đang lúc người ta chỉ mải mê ăn chơi xa xỉ, thì bất ngờ đại hồng thủy đến, cuốn đi tất cả; Chúa đã khéo lợi dụng câu truyện này để khuyên nhủ chúng ta: "Vậy các con hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng, vì lúc các con không ngờ, Chúa các con sẽ đến"(Mt 24:44).

Cô Thanh là một cô gái rất ngoan đạo, được sinh ra và lớn lên trong một gia đình gia giáo, được truyền thụ một nền giáo dục đạo hạnh. Lúc nào cô cũng khát khao được gặp Chúa và siêng năng lợi dụng thánh hóa các công việc hằng ngày, nhất là công việc cô đang đảm trách là đứng bán hàng trong một cửa tiệm tạp hóa do cha mẹ cô trao phó. Một đêm kia, đang nằm ngủ, cô được mộng báo là hôm sau cô được Chúa Kitô tới thăm nơi cửa tiệm. Giấc chiêm bao sống động và vui sướng đến nỗi, cô Thanh tưởng rằng câu truyện đó là một thực tại sẽ xảy ra. Thế là ngay sáng hôm sau, khi vừa tới cửa tiệm, cô lo quét dọn, sắp đặt và trang hoàng lịch sự để đón tiếp Chúa tới thăm. Cô Thanh cuống lên giục người phụ tá phất trần, lau bụi, chưng hoa và cho biết hôm nay sẽ đón tiếp một vị Thượng Khách. Cô phụ tá tên là Huyền Vi rất vui vẻ và hăng say trong việc chuẩn bị, để đón tiếp vị Thượng Khách. Huyền Vi chỉ xin một ơn huệ là nhờ cô Thanh lái xe đưa về nhà lo thuốc thang cho bố, rồi sẽ trở lại cửa tiệm ngay chỉ trong vòng 30 phút thôi.

Cô Thanh chia buồn vì bố Huyền Vi bệnh, rất muốn giúp nhưng không thể làm được hôm nay, vì công chuyện quá khẩn cấp trong việc chuẩn bị. Lại nữa, lỡ ra lúc vắng mặt 30 phút vị Thượng Khách tới thì sao. Thế là cả hai đều chăm chú vào việc dọn dẹp chuẩn bị.

Mỗi lần cánh cửa tiệm mở, nghe thấy chuông báo hiệu có người vào là cô Thanh phóng ngay cặp mắt về hướng đó... Nhưng vô hiệu, vì không thấy bóng vị Thượng Khách, ngoại trừ những khách hàng quen thuộc thường lệ, đến trao đổi lời chào thăm và mua bán.

Vào quãng giữa trưa, một người hành khất từ ngoài đường bước vào, thân mình gầy còm hốc hác nấp dưới tấm áo rách tả tơi bẩn thỉu, đầu tóc rối bù tanh hôi. Người xấu số ngửa tay van lơn: "Nhờ ông đi qua, nhờ bà đi lại cho tôi chút cháo đổ vào bụng, đã mấy ngày không cơm..." Cô Thanh cầm mấy đồng cắc dí vào tay ông rồi vội vàng dẫn ra cửa, dường như không muốn kẻ hôi tanh nán lại, lỡ ra vị Thượng Khách bất ngờ tới thăm.

Chiều hôm đó cũng qua đi như mọi ngày. Cửa tiệm vẫn thế, kẻ ra người vào, kẻ đến người đi... trong số đó có một bà quả phụ tìm đến cửa hàng mong được sự giúp đỡ, vì con bà phạm pháp bị bắt giam. Bà ta bối rối lo sợ, chẳng biết kêu với ai. Nghe truyện thương tâm, cô Thanh rất cảm động hết lòng muốn giúp đỡ, nhưng chẳng dám rời cửa tiệm phút nào, vì sợ Chúa đến mà không được gặp.

Đã đến giờ đóng cửa, cô phụ tá ra về, khách hàng hết vãng lai. Đường phố đã chìm ngập trong cảnh hoàng hôn hiu quạnh, nhưng Chúa Giêsu vẫn chưa thấy đến thăm. Ngã lòng vì chờ đợi mỏi mệt, cô Thanh thất vọng ra về nghĩ bụng: "Thật điên rồ chạy theo giấc chiêm bao!"

II. CHÚA ẨN THÂN NƠI KẺ RỐT HẾT

Về tới nhà, sau khi nghỉ ngơi, ăn uống, thu dọn nhà cửa; tới giờ đọc kinh tối như thường lệ và suy niệm Lời Chúa. Tình cờ, cô Thanh mở sách Tin Mừng theo Thánh Matheu đoạn 25, cô đọc thấy những dòng sau đây: "Bấy giờ Vua phán với những kẻ đứng bên phải: "Hãy đến, hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy lãnh cơ nghiệp Nước Trời, đã dọn sẵn cho các ngươi từ khi tạo thành vũ trụ. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn, Ta khát các ngươi đã cho Ta uống, Ta đau yếu các ngươi đã an ủi, Ta ở tù các ngươi đã thăm viếng". Bấy giờ các kẻ lành thưa lại rằng: "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà nuôi dưỡng, khát mà cho uống, mình trần mà đã cho mặc? Có bao giờ thấy Chúa đau yếu hay ở tù mà chúng con đã đến thăm viếng Chúa đâu?" Vua đáp lại: "Những gì các ngươi đã làm cho anh chị em hèn mọn nhất của Ta là làm cho chính Ta"(Mt 25:34-40). Cô Thanh hồi tưởng lại những gì xảy ra trong ngày và nghĩ rằng giấc chiêm bao đã thành sự thật... Chúa Giêsu đã đến thăm cửa tiệm hôm ấy mà cô đã không ngờ. Chúa đã đến và Chúa lại đến hằng ngày, qua mỗi người anh chị em chúng ta. Nếu chúng ta biết nhận ra Chúa, nồng hậu tiếp đón Chúa, Chúa sẽ tỏ mình ra cho chúng ta qua mỗi người anh chị em, cho dù là những người hèn mọn nhất trên trần gian.

Kết Lun

Là con cái Chúa, chúng ta hãy lợi dụng Mùa Vọng như một thời cơ thuận tiện, để chuẩn bị tâm hồn xứng đáng đón tiếp Chúa ngự đến với mỗi người chúng ta; bằng cách thực thi Đức Bác Ái, biết nhận ra Chúa, đón tiếp Chúa nơi tha nhân, chia sẻ cơm bánh với những người đói khát, biết cảm thương an ủi những người sầu khổ, nâng đỡ những người yếu đuối, khích lệ những người thất vọng ngã lòng. Hơn nữa, Chúa còn muốn chúng ta hướng tâm hồn lên cao hơn, biết yêu thương cả những kẻ thù nghịch, làm ơn lành cho những kẻ ghen ghét mình, lại cầu nguyện cho những kẻ vu oan cáo vạ, bắt bớ, bách hại chúng ta nữa.

Chu toàn được những điều Chúa muốn trên đây, là chúng ta đã biết chuẩn bị tâm hồn sẵn sàng đón tiếp Chúa đến với chúng ta, bất cứ giờ phút nào. Chúa sẽ sung sướng ngự vào tâm hồn chúng ta như Chúa của sự bình an và nguồn hạnh phúc; ban cho chúng ta được tràn ngập niềm vui sướng Thiên Đàng ngay khi còn ở trần gian này.

 

70.Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

TNH THC ĐỂ KHI B BT CHT

Tin mừng Mt 24: 37- 44: Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dựa vào biến cố đại hồng thủy thời ông Noe để dậy chúng ta bài học phải tỉnh thức để sẵn sàng chờ đợi Chúa đến trong vinh quang.

CÂU HI GI Ý

1. Phần đầu của diễn từ này đã kể ra những dấu hiệu rõ ràng báo trước cuộc Quang lâm. Còn đoạn văn chúng ta đây, khởi đầu phần hai, nhấn mạnh điều gì? Có mâu thuẫn giữa hai phần không?

2. Mt là người duy nhất trong bốn tác giả Tin Mừng dùng chữ "Quang lâm" (Parousia) (24,3.27.37.39). Chữ này có nghĩa nào trong thế giới La-Hy?

3. Phải chăng các câu 40-41 nhằm trình bày cuộc Phán xét tận cùng như một thứ định mệnh mù quáng và ngẫu nhiên? Đâu là điểm chung giữa nhung hình ảnh rút ra từ cuộc sống hằng ngày?

4. Các câu 42- 44 có cho biết sự tỉnh thức hệ tại điều gì không? Các dụ ngôn tiếp theo đó (24, 45- 51; 25, 1- 13; 25, 14- 30) có lấy lại và soi sáng chủ đề tỉnh thức này không?

5. Trong dụ ngôn ở câu 43- 44, việc Con Người được so sánh với một tên trộm có đáng ngạc nhiên không? Phải chăng đấy là trọng tâm của dụ ngôn? Giáo Hội sơ khai đã mặc cho dụ ngôn này ý nghĩa nào?

***

1. Trong phần đầu của diễn từ Cánh chung (cc.1- 36), Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: Con Người chắc chắn sẽ đến và đến một cách rõ ràng. Mặc dù có những hạng thiên sai và ngôn sứ giả (cc.24- 26) mà các tín hữu phải đề phòng, người ta vẫn không thể lầm lẫn được. "Vì như sấm chớp lòe bên đông rạng bên tây thế nào, thì cuộc Quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy" (c.27). Dụ ngôn cây vả nằm trong chiều hướng, ý nghĩa đó (cc.32-34): đừng hoang mang trước làm gì vô ích, sẽ có những dấu hiệu chắc chắn báo động cho các ngươi.

Với các câu 37-41, ta đi sang một ý tưởng khác, không phải là hệ luận của ý tưởng trước đó. Nếu Con Người sẽ phải đến cách rõ ràng, ai nấy đều nhận ra được, thì Người cũng đến một cách đột ngột bất ngờ. Việc đối chiếu với câu chuyện lụt đại hồng thủy thời Noe nhấn mạnh tới nguy cơ của tình thế ấy.

Để nói về việc Con Người trở lại, thánh Matthêô, duy nhất trong bốn tác giả, đã dùng từ ngữ "Quang lâm" (Parousia) (24,3.27.37.39). Nguyên khởi, chữ này có nghĩa là "đến, hiện diện". Trong thế giới La-Hy (Hy lạp-la mã), người ta dùng nó để chỉ việc hoàng đế long trọng ngự đến hay chính thức thăm viếng một thành nào. Trong Kitô giáo sơ khai, từ ngữ sớm được sử dụng để nói về cuộc trở lại vinh quang của Chúa Kitô vào ngày cánh chung (x. 1Tx 2, 19; 4, 15; 2 Tx 2, 1. 8. 9; 1 Cr 15, 23). Trong ngày ấy, phải tỏ ra không gì đáng trách (1 Tx 3, 16; 5, 23), vì như bản văn cho thấy, phán xét đi liền với Quang lâm.

Chúa Giêsu, khi kể các dụ ngôn, thường ưa dùng những ám dụ lấy từ Cựu ước, dễ hiểu đối với thính giả cây nho: hình ảnh Israel; người cha, vị quan tòa, ông chủ đất, người chủ hộ: hình ảnh Thiên Chúa, mùa gặt: hình ảnh cuộc Thẩm xét v.v...). ở đây Người tạo ra một ám dụ mới: cuộc Quang lâm của Con Người vào lúc tận cùng giống như một trận đại hồng thủy thứ hai. Hình ảnh được chọn cho thấy khá rõ ý tưởng diễn tả: cánh chung sẽ là một tai ương thình lình đổ xuống đầu mọi người. Thay vì mâu thuẫn với ý tưởng trước nói về biến cố được nhiều dấu hiệu tiên báo, các câu 37-41 trình bày một viễn tượng khác: thái độ của con người. Thiên hạ thời Noe không ngờ được chuyện gì cả và vẫn cứ ăn uống, cưới vợ lấy chồng. Sự vô tri này thật là nguy hiểm: họ đã chết vì đã không nhận ra dấu hiệu nào. Ngày tận cùng cũng vậy. Tai ương treo trên đầu mọi người và sẽ rơi lúc nào không hay. Trong ngày đó, toan tính gì thì đã quá muộn: phải mở mắt ngay từ lúc này đây!

2. Cuộc Phán xét chẳng những bất ngờ mà còn tức khắc. Người ta sẽ không còn giờ, còn cách nào chuẩn bị. Và khi mà thiên hạ tưởng là chẳng có gì khác biệt, thì lúc ấy lại có một cuộc lựa lọc: lúc ấy ta sẽ biết ai là trinh nữ khôn ngoan và dại khờ, ai là tôi tớ tín thành và bất trung (25, 1 -30). Để diễn tả ý tưởng đó, bản văn dùng những hình ảnh lấy trong đời sống thường ngày: hai người làm ngoài đồng, hai bà đang xay bột.

Chắc hẳn đây là một nhóm thí dụ làm thành một ngạn ngữ bình dân mà Chúa Giêsu trích ra cho môn đồ. Thật thế, một bản văn Do thái còn giữ lại bằng tiếng copte, Khải huyền của Xôphônia (1, 8- 16) có kể ra 3 thị kiến mà chẳng giải thích, như thể độc giả đã quá quen thuộc cảnh tượng; ba thị kiến này tương ứng lạ lùng với Mt và Lc: "Lúc bấy giờ tôi thấy hai người đang sóng bước trên cùng một lộ trình: tôi nhìn họ nói chuyện với nhau. Và tôi cũng thấy hai người đàn bà đang xay bột và tôi nhìn họ trong lúc họ cùng nhau trò chuyện. Và tôi cũng thấy hai người trên giường trong lúc họ đang nằm nghỉ " (x. P.Lacan, Joumal Asiatique, 1966, tr. 169- 177). Ba lần lặp đi lặp lại này, thường thấy trong văn chương hy bá, cho ta liên tưởng tới một châm ngôn thông dụng mà các Tin Mừng cũng như cuốn sách Khải huyền Do thái nói đây đều tham chiếu.

Dầu sao, những thí dụ bình dân kia thật rõ ràng. Kẻ này người nọ đều lao động, đều cùng làm một công việc (hoặc cùng nghỉ ngơi, theo Luca), chẳng có gì khác nhau. Về phương diện này, cảnh hai người đàn bà đang xay bột thật đặc biệt sống động. Cối họ dùng là một thứ cối xay bằng tay nhỏ như ta còn thấy ngày nay bên Đông phương. Nó gồm hai khói đá tròn lắp chồng lên nhau; khối dưới nằm yên, và có một trục đứng; khối trên xoay động và có lỗ trũng ở giữa. Để xay, hai bà ngồi hai bên cối, cùng nắm một cái cán thẳng đứng và xoay tròn khối đá bên trên. Họ phải hòa hợp động tác với nhau và làm theo một nhịp điệu. Luca có nhấn mạnh đến tính cách tập thể của công việc này: "Hai bà cùng nhau xay bột". Nhìn họ làm việc ta chẳng thấy có gì khác giữa hai người. Thế nhưng, "một sẽ được đem đi, và một sẽ bị để lại ".

Vì vào giờ ấy sẽ có sự phân biệt rẽ đôi giữa loài người bề ngoài xem ra giống nhau. Chỉ lúc đó mới thật sự xuất hiện sự xung khắc ghê gớm giữa họ: người này được cứu, người kia hư mất. Và dù không ai biết, người này đã ở trong ánh sáng và kẻ kia đã ngập trong tăm tối rồi. Đến lúc ấy mới chuẩn bị, mới ăn năn, mới xin can thiệp thì đã quá muộn.

3. Đứng trước giây phút chung cục cấp bách và thình lình như nước lụt đó, người tín hữu phải luôn tỉnh thức. Các câu 42 và 44 không cho ta biết phải tỉnh thức như thế nào mà chỉ nói: môn đồ Chúa hãy san sàng luôn vì đã được báo động. "Hãy tỉnh thức": mệnh lệnh đó kết thúc đoạn so sánh với lụt đại hồng thủy (c.42) và mở đầu một khai triển mới. Thật vậy, chủ đề tỉnh thức được lấy lại và minh giải qua những dụ ngôn cho thấy các hậu kết thực tiễn của việc chờ mong Chúa Kitô trở lại. Tỉnh thức chẳng phải là một thái độ nội tâm mơ hồ hay một nhân đức tiêu cực, cũng không có vẻ gì là một sự chờ đợi nôn nóng hay rối loạn cả. Đó là lòng trung thành với nhiệm vụ đã được giao phó (dụ ngôn người quản gia), là việc chuẩn bị đón Chúa Kitô trở lại (dụ ngôn mười trinh nữ), là yêu sách chu toàn trách nhiệm của mình (dụ ngôn các nén bạc), là bổn phận giúp đỡ các anh em hèn mọn nhất của Chúa Kitô.

4. Ý nghĩa dụ ngôn tên trộm (c.43) tự nó không khó hiểu. Cái tế nhị và khó khăn là vấn đề áp dụng dụ ngôn đó lúc ban đầu ở Đông phương, nơi trộm cắp hoành hành ban đêm, người ta thường rất sợ những cuộc thăm viếng như vậy lắm. Lề luật đã tiên liệu trường hợp gia chủ giết tên trộm nếu bắt gặp hắn đang đêm (Xh 22,2). Do đó, thay vì truy tầm nguồn gốc chủ đề tên trộm này trong những ám chỉ xa xôi, mơ hồ của Cựu ước (Gr 49, 4; G 24, 14), có lẽ nên nghĩ đến một vụ trộm vừa mới xảy ra tại địa phương - như động từ ở thì quá khứ muốn bảo (tất ông đã tỉnh thức và đã không để nhà bị đào ngạch). Chúa Giêsu dùng sự kiện đó để một lần nữa báo động cho các thính giả biết cơn khủng hoảng gần kề: hãy đề phòng để khỏi bị bắt chợt như gia chủ kia. Ông ấy đã không thể đoán trước; nhưng các ngươi, các ngươi chẳng được quyền nói: "Nếu tôi đã hay mọi chuyện". Vì đù không rõ ngày giờ, các ngươi vẫn biết tai biến sẽ tới bởi Ta đã báo cho hay. Như vậy ý nghĩa nguyên thủy của dụ ngôn này chắc hẳn trùng với ý nghĩa của dụ ngôn Noe.

Sự kiện trên giải thích một điểm có lẽ đã làm ta bỡ ngỡ là lối so sánh cuộc viếng thăm của tên đạo chích với cuộc trở lại của Con Người. Trọng tâm dụ ngôn không nằm trên lối so sánh đó, nhưng trên tính cách bất ngờ của biến cố. Một chuyện xảy ra không ai lường trước được. Vì vậy phải chờ đợi, cho dù chẳng biết thời cơ. Đàng khác, cần lưu ý rằng, đối với Kitô hữu, ngày trở lại của Chủ là một ngày vui chứ chẳng phải là một ngày tai biến.

Hình như ở đây truyền thống sơ khai đã mặc cho dụ ngôn này ý nghĩa ám dụ (và Kitô học). Ta thấy có dấu vết của việc chuyển từ dụ ngôn sang ám dụ khi so sánh Mc 13, 35:,"Các ngươi không biết lúc nào chủ nhà trở về " với Mt 24,42: "Các ngươi không biết ngày nào Chủ các ngươi đến." Ở đây cộng đoàn Kitô hữu đã áp dụng cho mình một dụ ngôn có ý nghĩa tổng quát hơn nhiều. Trong tình thế họ đang sống, trước sự trì hoãn của ngày Quang lâm, cộng đoàn đã hơi xê dịch trọng tâm dụ ngôn khi lấy tên trộm làm hình ảnh Con Người. Chúa Giêsu đã nhấn mạnh sự đột ngột của ngày Chung thẩm. Còn Kitô hữu sơ khai lại nghĩ tới Đấng sẽ đến phán xét vào ngày cánh chung. Chủ sẽ đến, đó là điều họ đoan chắc, nhưng Người sẽ đến thình lình. Thành ra phải không ngừng thức tỉnh.

Ta biết hình ảnh tên trộm ấy được Tân ước nhắc lại nhiều lần. Chắc chắn nó phát xuất từ dụ ngôn này, bởi vì các bản văn Do thái giáo nói về ngày cánh chung không hề dùng đến nó. Thế mà trong 1 Tx 5, 2- 4 cũng như 2 Pr 3, 10, chính Ngày của Chúa theo nghĩa Cựu ước (x.Am 5,18), tức là ngày sau cùng, (được so sánh với một tên trộm Ngày ấy bắt chợt mọi người, tín hữu cũng như lương dân; chỉ có những ai săn sàng mới không bị chộp thình lình. Như vậy, dụ ngôn đã được hiểu theo ý nghĩa Chúa Giêsu muốn. Tuy nhiên, trong Khải huyền (3, 3; 16, 15), Chúa Kitô đến như một kẻ trộm, và Người chỉ báo động cho Kitô hữu thôi. Chúng ta gặp lại ở đó ý nghĩa mà Giáo Hội sơ khai đã tìm thấy trong dụ ngôn.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

"Thiên hạ cứ ăn uống": Lụt đại hồng thủy xảy đến vì nhân loại đã hoàn toàn sa đọa. Nhưng ở đây Mt không chủ ý nhắc đến sự đồi trụy có tính cách truyền kỳ của thời Noe; ông chỉ muốn nói đến đời sống bình thường của con người. Điều bản văn muốn nhấn mạnh là: một đời sống hoàn toàn tự nhiên như thế, không trái gì với luật Thiên Chúa, chẳng đồi trụy chút nào, vẫn không hề làm cho người ta tưởng nhớ đến ngày phán xét. Vậy mà, chính trong những điều kiện như thế, cuộc chung thẩm sẽ bất ngờ xảy ra.

"Một sẽ được đem đi, và một sẽ bị để lại ”: Được đem đi có nghĩa là được đem về Nước Trời, và bị để lại có nghĩa là bị hư mất mãi mãi.

KẾT LUẬN

Lời Chúa Giêsu khẳng quyết ta không thể biết đâu là ngày giờ tận cùng như muốn bảo chúng ta đừng tính toán, giả định thời gian Người đến. Mối hy vọng Người trở lại đừng biến thành một sự chờ mong nôn nóng, song như là niềm xác tín rằng: Đấng đã và đang đến sống giữa các thân thuộc Người, sẽ ban cho cuộc đời con người và vũ trụ một ý nghĩa đích thực, để Thiên Chúa trở nên mọi sự trong mọi người (1 Cr 15, 24- 28).

Nhưng được giải tỏa khỏi thắc mắc "khi nào và làm sao", Kitô hữu lại càng phải sống như thể ngày đó gần kề. Trong ý nghĩa này, bản văn không mời gọi ta luôn ngước mắt về trời cho bằng hãy quan tâm đến những bổn phận thường nhật mà Chủ bảo phải làm. Ngày giờ tận cùng càng bí ẩn bao nhiêu, thì sự tỉnh thức càng khẩn thiết bấy nhiêu. Lời kêu gọi của các Tin Mừng: "Hãy sẵn sàng? Hãy tỉnh thức" phải vang dội trong tâm khảm những ai đang đón chờ ngày hội ngộ lớn lao đó, không như một mối ám ảnh về ơn rỗi riêng tư, nhưng như một đòi hỏi trung thành với nhiệm vụ Chủ đã trao phó.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Bên ngoài, không có gì phân biệt hai nông dân đang làm việc ngoài đồng và hai bà đang xay bột. Nhưng trước mặt Thiên Chúa, có một cái phân biệt họ, đó là thái độ nội tâm. Một người thuộc về số những kẻ không ngờ được chuyện gì, người kia thuộc về số biết rõ. Người thì chỉ lưu ý đến cuộc sống, dự định của mình, kẻ kia. quan tâm đến Thiên Chúa và ngày Ngài trở lại. Một chỉ nghĩ đến công việc riêng tư còn người kia làm việc trước mặt Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng hiện diện trước mặt họ y như công việc họ đang làm. Người thì ngủ, kẻ lại tỉnh thức. Lời này chiếu dãi ánh sáng trên cuộc sống hằng ngày của ta. Cái quan trọng không phải là việc làm nhưng!à cách làm.

2. Lời khuyên tỉnh thức chờ mong Chúa Giêsu đến không chỉ nhắm vào thời sau cùng, nhưng còn nhắm tới việc Người đến trong đời mỗi người chúng ta: giờ chúng ta chết. Không ai hay được giờ ngày mình chết, chẳng ai biết cách tính toán, dự phòng. Giờ chết có thể đến thình lình, bất ngờ, đang lúc làm việc ngủ nghỉ, hay giải trí. Việc chuẩn bị chết cũng là việc chuẩn bị ngày Quang lâm. Nếu thật sự quan tâm đến tính cách bất ngờ và bí ẩn của giờ đó, nếu sẵn sàng luôn luôn, ta sẽ có một thái độ thực sự Kitô giáo để đón chờ Chúa đến.

3. Chúng ta, người tín hữu, đang sống trong một thế giới mà đối với nó, niềm xác tín việc Chúa Kitô trở lại với bao hậu quả kèm theo chẳng có một ý nghĩa gì. Thế giới quanh ta không chống cũng chẳng bênh việc trở lại đó; họ không hay biết điều ấy; họ cho là ảo tưởng, hão huyền. Niềm xác tín của chúng ta bị xem là dị thường, kỳ lạ; đức tin chúng ta vẫn luôn bị đồng hóa vào một thứ mê tín lỗi thời. Thế gian có lẽ chấp nhận sự hiện hữu của Giáo Hội như một tôn giáo tổ chức chặt chẽ, khả dĩ phục vụ được nhân loại trong vài vấn đề nhất thời hơi quá sức con người; thế gian thừa nhận Giáo Hội xét như Giáo hội giống với nó và đồng hóa với nó, nhưng ý nghĩa sâu xa của Giáo Hội là nhắc nhở và chuẩn bị ta chờ đón Chúa đến thì thế gian không bao giờ hiểu được. Thành ra thật là vô ích khi người tín hữu đi tìm trong thế gian và trong não trạng hiện thời những lý do để tin vào Chúa Giêsu và tin vào ngày Người trở lại; thế gian luôn bất lực, ngay cả trong nhung mộng ước, dự định điên rồ nhất và cuồng loạn nhất của nó. Vì thế, Chúa đã nhấn mạnh: "Hãy tỉnh thức, hãy sẵn sàng". Người biết rõ rằng đời sống thường nhật với bao nhiệm vụ gia đình và xã hội, cũng như não trạng đang sinh động nhân loại quanh ta, không thể giúp gì cho ta trong chuyện ấy; hơn nữa, ta thường xuyên bị lôi kéo vào sự vô ý thức chung, vào sự mê ngủ thiêng liêng toàn diện. Đôi khi ta đau khổ, lắm lần ta bỡ ngỡ vì tình trạng đó; song đừng viện cớ ấy mà thoái thác và làm phai nhạt trong ta niềm xác tín ngày Chúa trở lại.

4. Suốt Mùa Vọng này, Chúa sẽ tỏ mình cho mỗi người chúng ta. Đấy là điều chắc chắn: Chúa sẽ thông ban chính mình cho kẻ tìm Người qua sự bằng an nội tâm sâu xa hơn, một đức ái thực sự hơn, một sức can đảm mạnh mẽ để đương đầu với trách nhiệm hơn. Ta hãy chú ý và tỉnh thức để bắt gặp giờ của Người; giờ ấy sẽ làm cho ta nếm được tình yêu đích thật của Người và củng cố niềm tin của chúng ta vào việc Người đến lần sau hết.

 

71.Không một ai biết giờ

(Chú giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)

1.- Ng cnh

Khối diễn từ cuối cùng gồm trọn chương 23 Mt, “Những lời nguyền rủa người Pharisêu”, trước đây vẫn được coi như tách biệt, và phân đoạn Mt 24,1–25,46, “Diễn từ cánh chung”: Cả khối từ câu 23,1 đến câu 25,46 làm thành bài diễn từ duy nhất có chức năng nhắc nhở những người trong nhà sống một đời sống trung thực với những hành vi, công bình, nhân ái, dưới ánh sáng của cuộc chiến thắng cánh chung của Thiên Chúa và cuộc phán xét đang đến. Bài Tin Mừng Mt 24,37-44 nằm trong khối diễn từ cuối cùng này.

Phụng vụ cho đọc từ c. 37, nhưng có lẽ nên đọc bản văn ngay từ câu 36, vì: 1) Tư tưởng của câu 36 này được trình bày trong cc. 37-44; 2) Hai từ ngữ “ngày và giờ” trong c. 36 được nhắc lại trong cc. 42 và 44 làm thành một lối hành văn “đóng khung”, khiến cả phân đoạn 24,36-44 thành một đơn vị thống nhất. Các nhà chú giải thường cắt phân đoạn ở c. 36 thay vì ở c. 37 như trong bản văn Phụng vụ.

2.- B cc

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Bài học thời Nôê (24,37-39), với công thức “cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy” ở c. 37 và c. 39 đóng khung đoạn văn thành một đơn vị; đơn vị này xoáy vào trọng tâm là “ngày Quang Lâm của Con Người”;

2) Cuộc phân rẽ vào ngày Quang Lâm (24, 40-41): Hai câu này vừa là kết luận cho đoạn 37-39, vừa là tiền đề (và cũng là kết luận) cho lời kêu gọi và dụ ngôn ở cc. 42-44;

3) Bài học về canh thức và sẵn sàng (24,42-44), với dụ ngôn “Kẻ trộm đêm khuya”, được đóng khung thành một đơn vị bằng hai công thức tương tự “ngày Chúa của anh em đến” (c. 42) và “giờ Con Người sẽ đến” (c. 44); đơn vị này xoáy vào hai từ cụ thể được tác giả Mt dùng để gọi ngày Quang Lâm, “ngày và giờ”.

3.- Vài đim chú gii

- thi ông Nôê (37): Kinh Thánh kể việc Nôê đóng tàu trong sách Sáng thế (6,11-13).

- quang lâm (37.39) (HL: parousía, nghĩa đen là “sự hiện diện”): Trong Mt 24,29-31, Đức Giêsu cho biết rằng Người sẽ trở lại “uy nghi” (= với quyền lực), “ vinh hiển” (= với vinh quang), “ngự giá mây trời” (= trên mây trời). Các hình ảnh đó cho hiểu Người sẽ trở lại trong tư cách Đấng chiến thắng. Đây là một cuộc khải hoàn.

- mt người được đem đi, mt người b b li (40.41): Hai động từ của bản văn Hy-lạp ở thái bị động paralambanetai và aphietai nên phải hiểu chủ ngữ là Thiên Chúa. Dựa theo truyền thống, có thể hiểu: sự kiện các thiên thần “tập hợp những kẻ được [Con Người] tuyển chọn” (c. 31; x. Mc 13,27) cho thấy paralambanetai có nghĩa là “được cứu thoát”, nên phải dịch là “được đem đi”, aphietai, có nghĩa là “bị kết án”, nên phải dịch là “bị bỏ lại”.

- canh thc (42) (HL: grêgoreô): có nghĩa là “không ngủ”. Đây là thái độ Đức Giêsu yêu cầu phải có nơi những người đang trông chờ Người đến (x. Mt 25,13; Mc 13,33-37; Lc 12,35-40). Sự canh thức, ở trong tình trạng “báo động”, giả thiết phải có một niềm hy vọng vững chắc và đòi hỏi tâm trí luôn sẵn sàng (đây cũng là “sự tiết độ”: 1 Tx 5,6-8; 1 Pr 5,8).

- không biết ngày nào (42): Đức Giêsu vừa khẳng định mạnh mẽ rằng Người sẽ lại đến, vừa nhấn mạnh rằng không ai biết được ngày giờ đó (24,36.42.44). Không ai biết và cũng không ai có thể tính toán để tìm ra ngày giờ ấy cả.

- k trm (43): Kinh Thánh dùng hình ảnh tên trộm để nói tới tính bất ngờ của ngày Chúa đến (x. 1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15).

- vào canh nào (43): Một đêm thường được chia thành bốn canh (HL: phylakê): chiều (từ khi mặt trời lặn đến 9g tối), nửa đêm (từ 9g tối đến 12g đêm), khi gà gáy (từ 12g đêm đến 3g sáng) và sáng (từ 3g sáng đến bình minh, khoảng 6g sáng).

- khoét vách (43): Nhà dân Do Thái thời Đức Giêsu thường được làm bằng đất với cành cây khô, nên kẻ trộm có thể lọt vào nhà bằng cách khoét thủng vách tường đất.

4.- Ý nghĩa ca bn văn

Bài Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay, nếu không được hiểu đúng, sẽ gây khó khăn cho chúng ta.

Trước tiên, can phải xem Đức Giêsu đang nói về chuyện gì. Tại sao Người đưa vào trong câu chuyện: ông Nôê, hai người đàn ông đang làm việc trên cánh đồng, hai người đàn bà đang xay bột, và một tên trộm? Câu trả lời nằm ở đầu chương 24: ở đây Đức Giêsu đang nói về những dân cư Giêrusalem không muốn hoán cải. Các môn đệ sửng sốt vì những lời Thầy nói, đã hỏi Người hai điều: khi nào chuyện ấy xảy ra và có dấu hiệu báo trước chăng (cc. 2-3). Thay vì trả lời họ, Đức Giêsu dạy họ những điều đến hôm nay vẫn còn giá trị: chúng ta phải luôn luôn canh thức. Rồi Người đưa ra ba ví dụ.

* Bài hc thi Nôê (37-39)

Vào thời Nôê, có hai hạng người: những người chỉ biết hưởng thụ cho bản thân và những người tỉnh thức biết lắng nghe các lời lưu ý.

Những người hoàn toàn để mình bị cuốn hút vào trong cuộc sống trần thế, với những sinh hoạt cụ thể và những phương diện bề ngoài ai cũng thấy được (ăn uống, cưới vợ lấy chồng), thì chỉ biết vui hưởng đời này, không muốn quan tâm đến bất cứ điều gì khác nữa. Vả lại, nạn hồng thủy chỉ được loan báo, chứ chưa xảy ra. Cũng thế, cuộc Quang Lâm của Chúa Giêsu cũng chỉ mới được loan báo, chứ chưa xảy ra. Tính cụ thể của các sự việc trần thế và kinh nghiệm hiện tại dường như thực hữu hơn là bản thân Đức Chúa như Người đã loan báo. Do đó, người ta bị hút vào hiện tại và hoàn toàn không màng đến Người, không nghĩ đến trách nhiệm của mình đối với Người. Dù sao, biến cố quan trọng ấy cũng đã được loan báo, nên chúng ta phải chịu trách nhiệm về tình trạng bản thân khi Người đến. Cần phải luôn canh thức và sẵn sàng.

Bài học là: Vào thời Nôê, nhiều người đã bị chết; vậy những kẻ không chấp nhận Đức Giêsu hoặc tuân theo lời Người, cũng sẽ chết khi thành thánh bị tàn phá. Còn những ai đón nhận sứ điệp của Người, sẽ được cứu độ và sẽ trở thành những người đầu tiên thuộc đoàn dân Người.

* Cuc phân r vào ngày Quang Lâm (40-41)

Với ví dụ thứ hai rút ra từ cuộc sống thường ngày, Đức Giêsu cho thấy rằng mọi người bình đẳng trong các sinh hoạt trần thế, và không một hoàn cảnh bên ngoài nào bảo đảm cho người ta có một tư cách xứng đáng cả. Về bề ngoài, không có nét nào phân biệt giữa hai người đàn ông đang làm ruộng, hoặc hai người đàn bà đang kéo cối xay. Tuy nhiên, khi Đức Giêsu quang lâm, sẽ xảy ra một cuộc phân rẽ tận căn: những ai đã sẵn sàng với Người thì được đón vào sống hiệp thông với Người, còn những người khác thì bị loại trừ. Số phận vĩnh viễn của mỗi người tùy thuộc cách thức mỗi người sống với Người trong thời gian này. Từ chỗ thấy rằng mọi người đều có phần công việc và lao khổ, hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ và niềm vui, sống và chết, người ta dễ rơi vào ảo tưởng là sự vâng phục hoặc bất phục tùng đối với Thiên Chúa, sự ngay thẳng hay gian tà không hề quan trọng gì cả, là mọi sự đều như nhau, chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì mọi sự sẽ kết thúc giống nhau cho mọi người! Đức Giêsu điều chỉnh lối suy tư sai lạc này.

Bài học là: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (c. 42).

* Bài hc v canh thc và sn sàng (42-44)

Đến đây, Đức Giêsu cho ví dụ thứ ba. Nếu chúng ta biết ngày giờ Chúa đến, hẳn là chúng ta sẽ chuẩn bị và chờ đợi. Nhưng Đức Giêsu dùng dụ ngôn kẻ trộm đêm khuya để báo cho chúng ta rằng Người sẽ đến thật bất ngờ, chúng ta không thể tiên liệu. Do đó, chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng, từng giờ từng phút: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (c. 44).

Tất cả những lời kêu gọi tỉnh thức này có ý nghĩa gì đối với chúng ta hôm nay? Phải chăng Thiên Chúa thật sự đến như một kẻ trộm, và gọi người ta đến mà xét xử vào lúc họ ít sẵn sàng nhất? Thật khó mà đặt lòng tin vào một vị Thiên Chúa như thế! Nếu đây là cách giải thích đúng các lời nói của Đức Giêsu, hẳn là chúng ta sẽ không có một sứ điệp cứu độ, mà chỉ có một lời đe dọa ác độc. Thật ra điều Người muốn nói với chúng ta hoàn toàn khác hẳn.

Trong mỗi khoảnh khắc, chúng ta phải sống một cuộc sống phù hợp với ý muốn của Người và có thể lãnh trách nhiệm trước mặt Người. Chính vì Người không cho thấy tất cả ý định của Người mà chúng ta phải hiểu rằng chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Người. Sự kiện lúc này Người còn đang ẩn mình và rất “ở yên” không được khiến chúng ta bị lừa. Như thế, điều Đức Giêsu muốn nói với chúng ta hôm nay là Người luôn luôn muốn cứu chúng ta, làm cho chúng ta hạnh phúc, nhưng chúng ta phải luôn ý thức về sự hiện diện của Người.

+ Kết lun

Theo kinh nghiệm thông thường, người ta cho rằng chính loài người và các sức mạnh thiên nhiên qui định dòng lưu chuyển của từng số phận con người và toàn thể lịch sử nhân loại. Quan niệm này khiến người ta nghĩ rằng sự việc vẫn cứ tiếp tục như thế, trừ phi là xảy ra mộttai họa trên toàn thể vũ trụ. Nhưng Đức Giêsu lại đến loan báo rằng Nước Trời đã gần kề, có nghĩa là Thiên Chúa dứt khoát quyết định bung mở quyền chúa tể của Ngài ra (x. 4,17). Điều này sẽ được thể hiện khi Con Người đến với quyền lực và vinh quang Thiên Chúa (24,30). Khi Người tỏ mình ra vĩnh viễn cho hết mọi người với quyền lực thần linh của Người trước toàn thể thế giới, mỗi người sẽ xuất hiện ra trước mặt Người trong chiều hướng và giá trị đã đạt được. Với biến cố Đức Giêsu đến vĩnh viễn, mỗi người cũng sẽ đạt tới ánh sáng trong bản chất thâm sâu của mình. Mỗi người bị liên kết sâu xa với ngày Đức Giêsu trở lại, do đó phải sống trọn cuộc đời trong chiều hướng này. Và bởi vì không một ai biết chính xác ngày giờ Người trở lại (24,36.42.44), mỗi người cần luôn luôn sống trong tư thế sẵn sàng đón Người khi Người lại đến.

5.- Gi ý suy nim

1. Đức Giêsu khẳng định là không một ai có thể biết được ngày giờ Người trở lại trần gian và tính toán để tìm ra ngày giờ ấy. Do đó, điều hết sức hệ trọng là luôn sẵn sàng cho biến cố ấy, tức là lưu ý đến tính bất xác, tính bất khả tri và bất khả tiên liệu của ngày giờ đó, hầu tránh được lối sống mù quáng. Chúng ta vẫn đang hy vọng Người trở lại. Nhưng đây không phải là một nỗi niềm chờ mong khắc khoải, mà là một xác tín rằng Người cũng là Đấng đã đến và đang đến sống giữa chúng ta: chính Người đang và sẽ đưa lại ý nghĩa chân thật cho cuộc đời và vũ trụ chúng ta.

2. Vì đã được Đức Giêsu dạy là không thể tìm ra đáp án cho các câu hỏi “khi nào và cách nào”, người Kitô hữu chỉ càng chăm chú sống y như thể ngày đó đang đến rồi. Tuy nhiên, canh thức và sẵn sàng không có nghĩa là cứ đưa mắt nhìn về trời! Lời Chúa mời gọi chúng ta quan tâm đến những nhiệm vụ hằng ngày chúng ta đã và sẽ đảm nhận. Sống và làm việc đúng như Người đã giáo huấn chúng ta, đó là cách thức tốt nhất để đón Người vào ngày Người trở lại. Sự canh thức càng có tính thúc bách khi chúng ta không biết giờ cùng tận. Tiếng hô của bài Tin Mừng: “Anh em hãy sẵn sàng! Hãy canh thức!” phải vang lên trong tim của những người đang chờ mong cuộc gặp gỡ vĩ đại.

3. Nhìn bề ngoài, không có dấu chỉ nào giúp phân biệt người đang sống đúng thánh ý Thiên Chúa và người không sống như thế, khi mà ai nấy đều đang sống chìm vào giữa những thực tại trần gian. Do đó, chúng ta không được nhìn vào người khác để lượng định bản thân và nhất là để mình rơi vào mộtthứ yên tâm giả tạo. Tốt nhất là hãy nhớ lại các giáo huấn Đức Giêsu đã ban cho chúng ta, rà soát xem chúng ta đã đưa ra thực hành như thế nào. Bài Giảng trên núi trong TM Mt chính là một cẩm nang giúp người Kitô hữu sống canh thức và sẵn sàng.

4. Chúng ta nhớ rằng chúng ta luôn luôn lệ thuộc vào Đức Giêsu và chúng ta luôn chịu trách nhiệm trước mặt Người. Đức Giêsu đến vào Ngày Quang Lâm không còn phải là trong tư cách Đấng Cứu thế, nhưng trong tư cách vị Thẩm Phán tối cao. Do đó, ngày Người đến sẽ là ngày giờ của sự thật, bởi vì sẽ là ngày giờ để trả lời (“trả lẽ”) với Người về những nhiệm vụ chúng ta phải chu toàn và là ngày giờ chúng ta được vén mở (= mạc khải) cho hiểu biết mọi sự.

 

72.Chú giải của Noel Quesson

Một năm phụng vụ mới bắt đầu. Năm nay (A), chúng ta sẽ đọc mỗi Chúa nhật một đoạn Tin Mừng theo Thánh Matthêu. (Năm B là năm Tin Mừng Maccô, và năm C là năm Tin Mừng Luca).

Quả thế, thời ông Noê thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.

Đó là Mùa Vng.

Ta biết từ này bắt nguồn từ tiếng La-tinh adventum, nghĩa là sự đến, đã đến đấy là từ đầu tiên của sách Tin Mừng này. Một ai đó. Đức Giêsu không giới thiệu mình cho chúng ta như một người của quá khứ, nhưng như một người của tương lai. Người nói về việc người đến, về việc người quang lâm như một biến cố tương lai.

Lễ Giáng sinh sắp đến, đối với chúng ta không phả là một cách làm giả bộ, như chúng ta vui sướng chờ một người đã đến và chúng ta nhớ nhung gợi lại một câu chuyện lạ lùng xưa.

Đức Giêsu đã nói với chúng ta Người sắp đến; thời ông Noê thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.

Này đây Chúa đến! Ta hãy để cho Chúa đi qua!

Mỗi buổi sáng Thiên Chúa đều mới mẻ.

Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, cho mãi đến ngày ông No-ê vào tàu.

Những đầu óc nông cạn có lẽ sẽ nói: tại sao lại phải tìm quá xa và đi ngược mãi lên đến thời hồng thủy và Tàu No-ê. Người ta phải làm chi đây? Này! Đức Giêsu, chính Người đang nghĩ ta đang ở "vào thời No-ê". Và Người mô tả về điều người ta lo lắng. Đó chính là bức tranh của xã hội ta đương. đại: làm việc, ăn uống, dựng vợ, gả chồng. Tất cả những chuyện đó, chẳng có gì tự nhiên hơn!

Trong sách Sáng Thế (16,5-13), cơn hồng thủy được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của con người thời đó; "Đức Chúa thấy rằng con người quá gian ác trên mặt đất, và lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày". Truyền thống thượng tế khi kéo dài và bi kịch hóa mạc khải Kinh Thánh, đã nghiêm khắc mô tả "sự sa đọa nhục dục của những người đương thời No-ê kéo theo hỗn loạn sang lãnh vực phong tục... và cuối cùng đi tới hủy hoại về đạo lý và xã hội đến nỗi loài người tự hủy diệt chính mình mà không còn hy vọng sống xót…” (chú giải về sách Sáng Thế của Rachi).

Đức Giêsu, trái lại, tuyệt đối không hề nói gì về nạn vô luân. Người không trách móc những người đương thời No-ê, đó chỉ là những đàn ông và đàn bà đang hít thở niềm vui của cuộc sống! Người không trách họ về sự sa đọa của họ. Cuối cùng thì họ chẳng làm chuyện chi xấu xa cả: họ chú tâm đến những nhu cầu hoàn toàn bình thường của cuộc sống, chẳng có một hậu ý gì.

Thế thì họ quấy quá ở chỗ nào? Đức Giêsu có thể trách móc họ điều gì nào?

H không hay biết gì, cho đến khi nn hng thy ti cun đi hết thy.

Họ không bị khiển trách vì phóng đãng mà cũng chẳng phải vì tội lỗi. Chính vì họ “không biết sớ hãi gì cả!” không lo đến chuyện chính yếu... không có một nhận thức đúng đắn về thực tại…

Họ có vẻ tin là họ bất tử! Mắt họ bị bịt không thấy thân phận con người của mình. Họ phải chịu cái chết "nuốt trôi” để rồi, trong phút chốc, họ khám phá thấy rằng họ không phải là “những thần linh” và nếu muốn sống thì họ cần đến Chúa!

Chúng ta luôn luôn ở vào "những ngày thời No-ê!".

Loài người hôm nay, cũng thế, họ như bị đánh thuốc mê. Tiến bộ vật chất chính nó có xu hướng ru ngủ chúng ta. Người ta tin thế gian này vững vàng, chỗ người ta đã quen sống, cho đến ngày đến lúc chợt tỉnh ngộ, thì còn tàn bạo hơn cả trước kia người ta đã vô ý thức quá về mối nguy hiểm. Có một cảnh tượng hiện đại của cận đại hồng thủy; đấy là cuộc lạm phát tiền tệ quốc tế nhận chìm hết mọi nền kinh tế, đấy làm sự tăng giá đột ngột như một cơn són triều của dầu khí và những nguyên liệu thiết yếu nhất, đấy là một căn bệnh không tiên đoán được, đấy là một ta nạn … Và tất cả mọi thứ an toàn của chúng ta đều bị cuốn trôi hết!

Ngày Con Người quang lâm cũng s như vy.

Lần thứ hai, Đức Giêsu dùng đến từ "quang lâm" “parousia" trong tiếng Hy Lạp. Thực sự, từ này có nghĩa là sự "hiện diện", "đã đến": Có mặt ở đấy! Xưa người ta dùng từ ấy, trong thế giới Hy-La để chỉ "những cuộc đi thăm chính thức của các hoàng đế".

Chúng ta có xu hướng hơi thái quá đem áp dụng nghĩa “parousia" cho Ngày Tận Cùng Các Thời Đại, khi nghĩ rằng ta có những cơ may là không trông thấy ngày tận thế. Đúng là cách ta đánh giá sai lầm về các sự vật mà Đức Giêsu muốn chúng ta cảnh giác: Thực sự, Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Người đến "thăm chính thức” chúng ta trong lúc ta bận rộn những chuyện thường ngày nhất, tại nơi ta làm việc tại nhà ta, ở nới ta ăn uống, trong các quan hệ giữa đàn ông và đàn bà của ta. Lúc lào ta cũng phải sẵn sàng cho Đức Giêsu "ngự đến", "đến cuối cùng", ' có mặt ở đó".

Bấy giờ hai người đàn ông đang làm nương, thì một người được đem đi! một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại...

Đó là cuộc sống hằng ngày.

Chính trong những lúc bận rộn rất thường ngày của chúng ta mà Đức Giêsu đến, giữa lúc người nông dân đang làm, người nội trợ đang làm... và ta có thể thêm, nơi văn phòng, ngoại phố, lúc ta đang lái ôtô.

Vy anh em hãy canh thc, bi vì anh em không biết ngày nào Chúa ca anh em đến.

Đức Giêsu khuyên chúng ta phải "tỉnh thức": Hãy canh thức! Hãy chuẩn bị cho tương lai chúng ta. Bởi lẽ Chúa "đến", Chúa "có mặt" mọi ngày.

Đức Giêsu "đến” tạo ra một cách thế riêng của người ở chỗ mà người ta không thấy có gì khác nhau, bởi lẽ không có gì phân biệt giữa hai người này đang cùng làm ruộng, hai người đàn bà cùng kéo cối xay này. Chỉ có chính Chúa mới thấy cái khác nhau: Một người thì sắn sàng, người kia thì không! Bấy giờ một người được ở với Chúa, ở trong ánh sáng còn người kia không được ở với Chúa, phải ở trong tối tăm. Hiển nhiên là không có vấn đề độc đoán.

Toàn bộ Kinh Thánh nhắc lại rằng Thiên Chúa "cứu độ". Và nếu ta hiểu rõ đoạn nói về nạn hồng thủy, thì phải thấy ở đó có một “hành vi cứu thoát”: Khi con người bấy giờ đang đi tới đại họa, thì mọi chuyện đi theo chiều hướng ngược lại khi Thiên Chúa can thiệp, để làm cho một nhân loại mới xuất hiện. No-ê, chính là người được Thiên Chúa “cứu độ”.

Nhưng, hãy chú ý, tàu đã sắn sàng, hôm nay, cho nạn hồng thủy của bạn. Đức Kitô Đấng Cứu Độ, đã vào trong biển nước chết chóc, lôi kéo thêm người vào Giáo Hội, trên thuyền của Người, tất cả những ai theo Người. Và khi vào thời No-ê theo nguyên văn Kinh Thánh, loài người đầu tiên thực sự đã biến mất trọn vẹn, thì Đức Giêsu, nói đến 50% những người được cứu độ... một trên hai.. năm trinh nữ khôn ngoan, khác với năm trinh nữ dại khờ (Mt 25,12). Và hiển nhiên chúng ta biết rằng đó không phải là những phần trăm theo toán học.

Không hề muốn nói đến một bầu không khí sợ hãi, Đức Giêsu lôi những người “đang đứng", những người "canh thức", những người "đang rình". Cái "liều lĩnh" trong cuộc sống kinh tế, xã hội, gia đình, mời gọi ta thấy trước, lo chuẩn bị tỉ mỉ. Ong chủ doanh nghiệp đang "thiêm thiếp ngủ” sẽ kết án chính cái doanh nghiệp của mình. Chàng trai trẻ không lo chuẩn bị tái lai của mình, thì chính mình sẽ chịu trách nhiệm làm hỏng cuộc đời mình, giống hệt như nhau. Người đàn ông hay đàn bà không bao giờ nghĩ đến Chúa sẽ làm hỏng cuộc "viếng thăm" của Người.

Vy anh em hãy canh thc, bi vì anh em không biết ngày nào Chúa ca anh em đến. Anh em hay biết điu này: nếu ch nhà biết vào canh k trm s đến, hn ông đã thc...

Đừng làm cho cuộc đời mình cứ ngủ! Hãy tỉnh thức!

Sinh vật nào thức tỉnh, con vật đang săn mồi, cuối cùng chính là thứ "được sống". Tỉnh thức không hề có nghĩa là "tích lũy cho nhiều hệ thống an ninh", "chắn rào chung quanh nhà để tránh cướp": Không! Tỉnh thức, chính là “sắn sàng" để đối phó, chính là "được vận động liên tục” để hành động:.. Tỉnh thức, chính là trái nghịch với "để buông trôi", lo lắng, bất cần.

Không nên nói "giá mà tôi đã biết trước" vì đã quá muộn rồi, bởi lẽ chúng ta đã được cảnh báo trước rồi.

Nếu ch: nhà biết vào canh nào k trm s đến... Hn ông đã thc không để nó khoét vách nhà mình đâu.

Trong tâm trí chúng ta, hiển nhiên hình ảnh của “người kẻ trộm" gắn liền với sợ hãi. Chắc chắn ta có thể đọc một bài khác về hình ảnh này. Thế thì theo Đức Giêsu, kẻ trộm đến làm gì? Nó "khoét vách nhà" anh" ta đến mở cái gì đang bị đóng lại, bỗng nhiên ta khám phá một ý nghĩa tượng trưng kỳ diệu; qua những lời lẽ chân thực củ dụ ngôn: Chúa luôn luôn:đến "để mở" thế gian cứ đóng không cho Người vào. Khi Người đến cửa nhà chúng ta, Chúa sẽ vào nhà ai tỉnh thức để mở cho người! Nhưng ai để cho mình phải bất ngờ …coi chừng! Cửa không phải lúc nào cũng mở luôn luôn đâu.

Chúng ta có lỡ không để chúng ta ngỏ vào thế giới của Thiên Chúa không?

Cho nên anh em cũng vy, anh em hãy sn sàng, vì chính gi phút anh em không ng, thì Con Người s đến.

Người Kitô hữu sẽ được giải thoát khỏi cái ngày..luôn luôn sắn sàng. Vâng! Con Người đến bất cứ lúc nào trong đời. Người đến thường xuyên, đơn giản đến độ có vẻ như luôn luôn không ngờ đến.

Ta có tin vào điều mạc khải này của Chúa không?

 

home Mục lục Lưu trữ