Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 68

Tổng truy cập: 1362277

CHO TÔI XIN CHÚT NƯỚC UỐNG

CHO TÔI XIN CHÚT NƯỚC UỐNG

 

(Trích trong ‘Manna’ - Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Sau nửa ngày hành trình từ Giuđê về Galilê, Đức Giêsu nghỉ mệt bên một giếng nước ở vùng Samari. Ngài vừa đói vừa khát, giữa cái nắng ban trưa. Các môn đệ vào thành mua thức ăn. Còn lại một mình Đức Giêsu ngồi bên bờ giếng. Chính nơi đây đã diễn ra cuộc gặp gỡ giữa Ngài và người phụ nữ Samari vốn bị coi là ô nhơ.

Đức Giêsu bắt đầu gieo hạt để chuẩn bị cho mùa gặt mai sau của các môn đệ.

"Cho tôi chút nước uống."

Đức Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời nài xin. Ngài chẳng sợ thú nhận sự thiếu thốn của mình.

Xin nước uống là làm một cuộc cách mạng, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc Samari và Do thái vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ bốn thế kỷ.

Chẳng ai hiểu nổi một bậc thầy như Đức Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samari.

Đức Giêsu đã cúi mình phá bỏ những hàng rào để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình đẳng.

"Cho tôi chút nước uống."

Ngài là người xin nước trước khi là người cho...

Chúng ta cũng có nhiều điều phải xin nơi chính những người cần chúng ta giúp đỡ.

Đức Giêsu cho thấy Ngài có một thứ nước lạ lùng, uống vào không còn khát nữa. Người phụ nữ vội vã xin Ngài thứ nước kỳ diệu đó. Chị đâu ngờ chính mình đã bắt đầu được nếm rồi.

Nước đó chính là Lời của Đức Giêsu, Lời vén mở dần dần con người thâm sâu của Ngài.

Đức Giêsu cho thấy Ngài biết rõ gia cảnh của chị.

Cái biết của Ngài không nhằm soi mói, nhưng để cảm thông.

Cái biết của Ngài về những điều riêng tư thầm kín đã khiến chị coi Ngài là một ngôn sứ đáng tin.

Từ đó, chính chị gợi lên vấn đề tôn giáo, một vấn đề khiến chị rất bận tâm;

Chính chị nói lên niềm mong đợi của mình về Đấng Mêsia, Đấng sẽ đến dạy dỗ mọi sự (Ga 4,25); rồi cũng chính chị đã bỏ vò nước lại mà hân hoan chạy đi giới thiệu Đức Giêsu cho đồng bào.

Chị đã tìm thấy thứ nước tuyệt diệu nơi Đức Giêsu.

Ngài từ từ tỏ mình cho chị: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây."

Không thấy nói đến chuyện Đức Giêsu ăn hay uống.

"Lương thực của Thầy là thi hành ý Đấng đã sai Thầy."

Đức Giêsu chỉ đòi một điều, đó là nuôi dưỡng nhân loại.

Ngài chỉ khát một điều, đó là ban nguồn nước sự sống.

Chúng ta có dám chia sẻ cơn đói khát của Ngài không?

Gợi Ý Chia Sẻ

Khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng trên đây, bạn thấy đâu là những thái độ cần thiết mà người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần có?

Con người đói khát cơm gạo và nước uống tinh khiết. Theo ý bạn, giới trẻ hôm nay đói khát điều gì hơn cả (tình bạn, tình yêu, lòng tin, niềm hy vọng, ý nghĩa cho cuộc sống, sự trung thực...)? Kitô giáo có thể giúp gì cho giới trẻ?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa.

Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.

Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.

Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.

Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.

Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.

Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.

Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-tinh).

 

2.Nhịp cầu thiêng liêng

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Từ khi cầu Mỹ Thuận được đưa vào sử dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi nhau hơn. Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối liền dòng sông thiêng liêng giúp con người đi về gặp gỡ Thiên Chúa.

Hôm nay, khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh.

Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị, đó chỉ là một gã Do Thái bẩn thỉu. Còn tệ hơn thế, anh chàng Do Thái này nghèo mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống. Chị hợm mình, vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước, nơi ấy có sự sống. Vì nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có.

Người phụ nữ có giếng nước, có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình. Chị còn có đền thờ vững chắc xây dựng trên núi Garidim, trách nào chị chẳng hợm mình.

Nhưng Đức Giêsu đã phá tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng nước ấy không cho nước hằng sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì đền thờ chỉ là gạch đá vô hồn, không có Chúa ngự bên trong.

Trong phút chốc, chị trở nên thật nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả. Nay chị thấy mình trắng tay. Trước kia chị tưởng mình giàu có. Nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo nàn. Bóc đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy một niềm tin nhen nhúm, một mạch suối trào dâng.

Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành lũy che chở cuộc đời, hoá ra chỉ là những tảng đá ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối dào dạt trào tuôn.

Những thứ mà trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ấm, hoá ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hoá bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn.

Thì ra, của cải, dục vọng, tôn giáo vụ hình thức là những tấm màn che mắt, không cho chị nhận ra Đấng Cứu Thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc đó, bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói rách: "Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư? ". Nhưng Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thứ nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống. Chị nhìn ra người đối diện "cao cả hơn tổ phụ Giacóp". Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống. Chị nhận ra Người là "một tiên tri". Một nhát nữa vung lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống. Chị nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và chị tin vào Người.

Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả múc nước, quên cả bình, chạy về làng báo tin vui.

Chị để quên chiếc bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi đền thờ trống rỗng.

Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc.

Lời Chúa là ngọn đèn soi đường. Nên chị bước đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới.

Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị đã găp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với những đường bay rất đẹp.

Về đại bàng, Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện rất sâu sắc. Một người nông dân vào rừng, lượm được một trứng đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở ra cùng lũ gà con. Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu. Nó cứ sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một con chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác gà trống: "con gì mà khủng khiếp quá nhỉ". "Đó là đại bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp. Chúng ta chỉ là gà". Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến chết.

Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng, những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.

Xin lời Chúa như lưỡi gươm tách bạch trắng đen, để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức hình thức. Xin lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ, để dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.

GỢI Ý CHIA SẺ

1) Đức Giêsu đã thành công trong việc đưa người phụ nữ Samaria về nhận biết chân lý. Ta có thể học hỏi được gì ở nơi Người để thành công trong việc truyền giáo?

2) Đang thoả mãn với vật chất, người phụ nữ Samaria chợt thấy thiếu thốn về mặt tâm linh. Đây là một cuộc hoán cải quan trọng, là một ơn Chúa ban. Bạn đã bao giờ được ơn sám hối để thấy khao khát đời sống tâm linh chưa?

3) Đã bao giờ bạn cảm thấy Đức Giêsu là nguồn suối trong lành, là nguồn mạch hạnh phúc của bạn?

 

3.Khát vọng chân lý

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

Con người mọi nơi mọi thời vẫn khao khát đi tìm Chân lý. Chân lý quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, như nước cần cho sự sống hằng ngày. Trong cuộc tìm kiếm này, có những khi người ta lầm lạc, chỉ nhìn thấy Chân lý qua những bóng hình mờ nhạt, thậm chí là ảo ảnh hão huyền.

Cuộc tìm kiếm Chân lý của nhân loại đã được phác họa trong thời xuất hành. Dân Do Thái trong hành trình sa mạc đói khát khổ sở suốt 40 năm. Hành trình này vừa giải thoát họ khỏi ách nô lệ, vừa dẫn đưa họ về miền đất mà Thiên Chúa đã hứa cho tổ tiên. Việc thiếu nước dẫn tới sự kiện dân nổi loạn chống lại ông Môisê. Nhờ quyền năng của Chúa, ông Môisê đã lấy cây gập đập vào tảng đá và nước từ đó chảy ra (Bài đọc I). Bài đọc Cựu ước trong thánh lễ hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: kiếm tìm Chân lý là một tiến trình lâu dài, đòi hỏi phải kiên nhẫn và vâng theo lệnh của Thiên Chúa.

Câu chuyện không chỉ nhắm tới nước cho dân khỏi khát, mà còn là giáo huấn về ân sủng sẽ được ban sau này qua Đức Giêsu Kitô, Đấng được tôn vinh là Đá. Chúa Giêsu đã đến trần gian để chỉ cho nhân loại con đường đạt tới Chân lý. Người đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.

Bài Tin Mừng là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria. Có rất nhiều chi tiết phong phú trong đoạn văn này. Đây là một cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một con người; giữa một người Do Thái và một người Samaria; giữa một vị Ngôn sứ và một người đang khao khát tìm Chân lý.

Người phụ nữ Samaria là đại diện cho cả nhân loại đang tìm kiếm Chúa. Chị đã có năm đời chồng, và người đang chung sống hiện tại không phải là chồng chị. Chi tiết này muốn diễn tả, con người đi tìm kiếm Chúa, nhưng có những lúc lầm tưởng về Ngài. Họ tìm kiếm Ngài nơi lạc thú và nơi những ảo ảnh thế gian. Vì thế mà họ không cảm thấy no đầy, giống như một người phụ nữ đã năm đời chồng mà không thấy hạnh phúc. Chị vẫn tiếp tục đi tìm kiếm. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu, người phụ nữ dần dần hiểu ra Ngài là vị Ngôn sứ, là Đấng có thể đem cho bản thân chị sự bình an, niềm vui và ơn cứu độ. Có nhà chú giải Kinh Thánh nghiên cứu văn hóa và tín ngưỡng của xứ Samaria và cho biết người xứ này thờ 5 vị thần. Có thể tác giả Gioan muốn nói tới việc thờ các ngẫu thần không đem cho con người sự giải thoát và không lấp đầy những khát vọng siêu nhiên của họ. Đức Giêsu đến trần gian để giải phóng con người khỏi những ngẫu thần, hướng tâm hồn họ về Thiên Chúa là Đấng mọi người phải yêu mến và tôn thờ. Sự tôn thờ đích thực không còn phụ thuộc vào không gian, nơi chốn, tức là phải đến chỗ này chỗ nọ (cụ thể là ở Giêrusalem hay đồi Garizim), nhưng bất cứ ai, bất cứ nơi nào, khi họ thực hiện việc tôn thờ “trong tinh thần và Chân lý”, thì đó là việc tôn thờ đẹp lòng Chúa và lời cầu nguyện của họ sẽ được Ngài chấp nhận.

Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc đối thoại kiên nhẫn, dần dần từng bước. Chúa Giêsu đã chủ động phá tan mọi rào cản: đó là sự giao tiếp giữa người Do Thái và dân ngoại; Người nam và người nữ; Không gian là bờ giếng lãng mạn và thời gian là buổi trưa vắng vẻ. Điều này cho thấy, nếu muốn loan báo Chân lý, cần phải vượt qua mọi thành kiến, khiêm tốn chủ động đối thoại trong sự tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không một lời phê phán cuộc sống cá nhân của chị, cũng như cách thức thờ phượng trên núi Garizim của người Samaria.

Chúa Giêsu đã khởi đi từ nước thế gian tới nước hằng sống. Nước này là ân huệ Chúa ban nơi Đức Giêsu và là giáo huấn của Người. Giáo huấn đem lại cho con người niềm vui siêu nhiên và sự bình an trong tâm hồn. Nhờ nước hằng sống, con người không còn đi tìm kiếm một thần linh nào khác. Họ được gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng họ tôn thờ, không phải ở đây hay ở kia, nhưng trong tinh thần và chân lý. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nhờ Đức Kitô Chúa chúng ta, con người trở nên công chính và được bình an với Thiên Chúa” (Bài đọc II)

Cũng như dân Do Thái trong hành trình sa mạc cần có nước để tồn tại, trong cuộc lữ hành thiêng liêng, chúng ta cũng cần có nước nước hằng sống để lớn lên mỗi ngày. Mùa Chay giúp ta sống tinh thần sa mạc, phác họa 40 năm dân riêng trên đường về Đất hứa, 40 ngày Chúa Giêsu cầu nguyện trong hoang địa. Mùa Chay giúp ta định hướng cuộc đời, để tìm kiếm Chân lý, đón nhận dòng nước ân sủng Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu. Một cách cụ thể, chúng ta đón nhận nước hằng sống qua các bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và bí tích Thánh Thể. Nhờ hai bí tích này, chúng ta được đổi mới và được nuôi dưỡng bằng sức sống siêu nhiên.

Người phụ nữ Samaria sau khi gặp gỡ Chúa đã bỏ lại vò nước bên bờ giếng. Trước đó, mục đích của chị là đến giếng kín nước. Chị chạy vào thành, giới thiệu Chúa với những người trong thành. Chi tiết này gợi ý cho chúng ta, một khi sống tinh thần của Mùa Chay, chúng ta cũng có bổn phận đưa nhiều người khác đến với Chúa, giúp họ gặp gỡ Ngài và cùng với họ đón nhận nước trường sinh. Việc gặp gỡ Chúa phải dẫn chúng ta giao hòa với anh chị em xung quanh, mang cho họ niềm vui và an bình. Câu chuyện kết thúc với những hình ảnh tốt đẹp: những người dân trong thành Samaria (họ là những người dân ngoại!) đều tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ trần gian. Không còn nghi kỵ do mối thù truyền kiếp, không còn thành kiến mặc cảm về dòng dõi sắc tộc. Tất cả đều là con cái của Thiên Chúa. Câu chuyện mở ra một chân trời mới. Đó là viễn cảnh tương lai, hình ảnh của Nước Trời nơi trần gian.

 

4.Đức Giêsu là Đấng trung hòa - ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. ViKiNi)

Đức Giêsu mỏi mệt vì đi bộ dưới ánh nắng hè oi bức gần ba chục cây số, từ bờ sông Gióc đan tới giếng Gia cóp. Người còn mỏi mệt hơn dưới những hận thù của các dân, các nước, cụ thể là sự hận thù giữa dân Do thái và Samari: “Trước khi lập quốc, hai dân là một quốc gia, một tôn giáo, một dòng giống Giacóp. Họ chia rẽ nhau từ năm 935 lúc Salômôn tạ thế. Do thái tách thành một nước riêng, Samari thành một nước hận thù. Từ chia rẽ chính trị đến chia rẽ tôn giáo” (Văn Qui: CN. năm A tr. 60). Hai dân đã trở thành thù địch nhau ghê gớm.

Đức Giêsu đến Samari, ngồi trên bờ giếng Gia cóp, để qui tụ Do thái và Samari về xum họp với nhau dưới mái nhà Thiên Chúa là Cha chung của hai dân tộc. Người đã mở đầu cuộc đối thoại hòa giải bằng một cử chỉ thật khiêm tốn trước mặt một người phụ nữ nghèo hèn tội lỗi nhất, đại diện cho dân Samari: “Chị cho tôi xin chút nước uống!”, như một lời xin lỗi, một lời nài van tình người xóa bỏ hận thù để hòa giải, thương yêu và tương trợ nhau.

Đức Giêsu xin chút nước giải khát tạm thời, để ban cho chị mạch nước trường sinh. Người xin chút vất vả múc nước, Người ban cho chị nguồn vui hạnh phúc Tin mừng bất tận. Người xin chút tấm lòng cởi mở thưa đáp, Người cho chị tấm lòng bao dung tha thứ vô biên. Người xin chút niềm tin hẹp hòi địa phương của chị, Người ban nguồn chân lí cho muôn dân biết tôn thờ Thiên Chúa là Cha chung mọi người. Người xin một chỗ ngồi nhỏ bên bờ giếng, Người ban cho Samari nước Trời vinh quang. Họ đã vui mừng thưa: “Không phải vì lời chị kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Tinh trần gian.

Đức Giêsu đến trần gian như đến với Samari để qui tụ muôn dân xum họp nhau lại dưới mái nhà Thiên Chúa là Cha chung loài người. Người đã bắt đầu cuộc hòa giải ngay từ giây phút sinh ra nơi thấp hèn nhất là hang bò lừa để đem lại ơn bình an cần thiết nhất xuống cho nhân loại. Người đã kéo dài cuộc hòa giải suốt 30 năm cho tới bàn hận thù ghê gớm nhất trên đỉnh núi Sọ để xin ơn tha thứ cho mọi người: “Lạy Cha xin tha cho họ vì họ lầm chẳng biết”. Họ lầm chẳng biết Thiên Chúa, nên họ cũng lầm chẳng biết nhau. Đức Giêsu đã thương yêu họ để họ biết thương yêu nhau trong tình thương chí thiện, chí mỹ của Thiên Chúa.

Cuộc hành trình hòa giải của Đức Giêsu phải được con cái Người nối tiếp để phá đổ những bức tường hận thù ngăn cách loài người với Thiên Chúa và khai mở cho mọi dân tộc, mọi gia đình, mọi cá nhân một con đường mới, con đường khiêm tốn, đối thoại hiệp thông chan hòa ơn phúc bình an và thương mến nhau.

Lạy Chúa, cuộc hành trình gian khổ của Chúa đến Samari để thực hiện hiệp nhất giữa hai dân tộc hận thù, Chúa còn bỏ trời cao vinh sáng xuống trần gian thấp hèn đen tối, để nối kết loài người với Thiên Chúa. Xin cho con được phúc tiếp tục cuộc hành trình cao cả đó, cho con biết hiệp nhất với mọi người trong khiêm tốn, bình an và chân lý để tin mến tôn thờ Thiên Chúa trọn đời con. Amen.

 

5.Bên bờ giếng Giacóp

Hôm đó, Chúa Giêsu rời bỏ xứ Giuđêa, bởi vì sự thành công của Người tại đây đã làm cho bọn biệt phái bực bội và tức tối. Đồng thời chính Người cũng không muốn đi vào cuộc tranh chấp mà họ đã rắp tâm gài bẫy cho Người. Bởi đó Người đi lên Galilêa, băng qua miền Samaria. Và cũng chính tại Samaria, đã xảy ra một cuộc gặp gỡ, khởi đầu của việc rao giảng cho dân ngoại trên toàn thế giới.

Mệt mỏi vì đường xa, Chúa Giêsu đã ngồi nghỉ ở bờ giếng Giacóp, gần núi Garisim. Đã từ 400 năm qua, vì kình địch với người Do Thái, dân Samaria đã biến ngọn núi này trở thành một ngọn núi thánh để cạnh tranh với Giêrusalem. Thế rồi một người phụ nữ đến kín nước và Chúa Giêsu đã bắt chuyện với nàng. Trong cuộc đối thoại ấy, Chúa Giêsu muốn mượn hình ảnh nước tự nhiên trong lòng giếng để tỏ lộ những chân lý siêu nhiên và trao ban cho chúng ta một thứ nước làm phát sinh sự sống vĩnh cửu, đó là tình thương và ơn sủng của Người, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, chính Người là thứ nước ban sự sống vĩnh cửu ấy.

Câu chuyện trên đây vốn được coi như một điển hình về khoa sư phạm tuyệt vời của Chúa đối với con người. Thực vậy, Chúa thâm nhập vào tâm trí chúng ta, để rồi sẽ làm nổ tung các giới hạn của nó, bắt nó mở rộng cửa đón nhận những chân lý cao cả hơn xuất phát từ Thiên Chúa, chứ không phải từ con người.

Trước hết, Chúa Giêsu gợi óc tò mò tìm hiểu những người phụ nữ. Muốn thế, Người đã đặt mình vào mức độ bình thường của đời sống hằng ngày. Từ hành động kín nước cua người phụ nữ, Người làm cho nàng thấy được rằng: không phải chỉ có thứ nước tự nhiên và những thực tại vật chất mới là quan trọng cho đời sống. Do đó, phản ứng đầu tiên của người phụ nữ đó là xin Thầy ban cho tôi thứ nước ấy.

Rồi Chúa đã làm cho nàng thắc mắc hoàn toàn khi thấy rằng Người nhìn thấy tận đáy lòng nàng: Chị hãy về gọi chồng chị lại đây. Lời đòi hỏi này đã đẩy người phụ nữ vào một hoàn cảnh nan giải, bởi đó nàng đã chuyển câu chuyện sang một hướng khác. Nàng hỏi Người về việc thờ phượng tại Giêrusalem, thì Chúa đã xác quyết phải thờ phượng trong tinh thần và trong chân lý. Nàng đề cập tới việc Đấng Cứu Thế sẽ đến giải thoát. Dựa vào đó Chúa Giêsu đã tự mạc khải mình ra: Đấng ấy chính là Ta, người đang nói với chị đây. Sau khi đã tin, người phụ nữ đã đi kể lại những điều đã xảy ra và kêu mọi người đến cùng Chúa.

Với chúng ta cũng thế, Chúa thường dùng những cái cụ thể để giới thiệu với chúng ta những thực tại siêu nhiên. Người hiện diện thật gần gũi trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có nhận biết Người hay không, có chấp nhận rằng không phải chỉ có của cải vật chất mới quan trọng, không phải chỉ có nước tự nhiên nuôi sống phần xác, mà hơn thế nữa, còn có một thứ nước siêu nhiên làm phát sinh sự sống vĩnh cửu.

 

6.Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành

Bài Tin mừng Chúa Nhật hôm nay là cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu với người đàn bà xứ Samaria được thánh sử Gioan tường thuật lại.

Câu chuyện xảy ra trong bối cảnh Đức Giêsu tới thành Sykar thuộc xứ Samaria. Sau một quảng đường mệt nhọc, Đức Giêsu dừng chân nghỉ tại giếng Gia-cóp. Có lẽ Ngài rất khát nước, vì đó là giờ thứ sáu. Nhưng làm sao để có nước uống, vì giếng thì sâu, Ngài lại không có dụng cụ để múc nước. May mắn thay, lúc đó có một người đàn bà xứ Samaria tới lấy nước. Đức Giêsu nói với người đàn bà: “Xin bà cho tôi uống nước” (Ga 4,7). Nghe vậy, người đàn bà Samaria ngạc nhiên, vì từ lâu người Do thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Thậm chí họ là kẻ thù của nhau. Chính vì thế, người đàn bà mới trả lời với Đức Giêsu rằng: “Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?” (Ga 4,9).

Thực ra, việc xin nước uống chỉ là cái cớ để Đức Giêsu bắt chuyện với người đàn bà. Mục đích của Đức Giêsu không phải là xin nước, nhưng Ngài muốn mạc khải cho bà biết những điều quan trọng về Ngài. Vì thế, sau khi nghe người đàn bà thắc mắc, Đức Giêsu mới bắt đầu vào nội dung chính của câu chuyện, Ngài nói với người đàn bà rằng: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống với, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10). Nghe những lời Đức Giêsu vừa nói, người đàn bà càng thắc mắc nhiều hơn. Đó cũng chính là sự chờ đợi của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài mạc khải tiếp: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”(Ga 4,4,14). Giờ thì không phải Đức Giêsu xin chị uống nước mà chính chị mới là người xin Đức Giêsu uống nước. Chị nói: “Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”(Ga 4,15). Như vậy, Đức Giêsu đã mạc khải cho chị biết, chính Ngài là Đấng Kitô. Cho nên không phải ai khác, mà chính Ngài là người ban cho chị Nước Hằng Sống. Rồi Ngài còn mạc khải cho chị về việc tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Ngài nói: “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn” (Ga 4, 23).

Câu chuyện Tin mừng đến đây cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã đáp ứng niềm khát vọng sâu xa của người đàn bà. Bà đã biết về Đức Giêsu và tin nhận Ngài là Đấng Mêsia. Còn chúng ta: Đâu là niềm khát vọng của chúng ta? Chúng ta đã thực hiện sứ mạng đem “Nước” cho những người khác như thế nào?

1. Đâu là niềm khát vọng của chúng ta?

Trước hết, mỗi chúng ta cũng có những khát vọng thuộc lãnh vực tự nhiên: Khát nước, khát cơm ăn áo mặc, khát tình cảm, khát chân lý, khát tự do, khát yêu thương, khát công bằng, khát hạnh phúc… Nhưng những khát vọng này của chúng ta không bao giờ được thỏa mãn một cách tuyệt đối. Vì: uống nước rồi vẫn khát, ăn rồi vẫn đói; tình cảm không bao giờ đong đầy. Ngoài ra, với tâm lý “được voi đòi tiên” của con người thì sự thỏa mãn càng không bao giờ đủ. Chính người đàn bà xứ Samaria hằng ngày vẫn đến giếng Giacóp lấy nước. Bà đã có 5 đời chồng rồi, nhưng hiện vẫn sống với người chồng thứ 6. Hơn nữa, con người vẫn mong muốn những cái tuyệt đối, mà ở trần gian này không có cái gì là tuyệt đối: Tình yêu, công lý, tự do, hạnh phúc…chỉ là tương đối mà thôi.

Thứ đến, mỗi chúng ta cũng có những khát vọng thuộc lãnh vực siêu nhiên như: Khát đức tin, khát Chúa, khát Nước hằng sống, khát hạnh phúc Thiên đàng…Sự khát khao thuộc lãnh vực siêu nhiên này chúng ta chỉ được thỏa mãn nơi Chúa. Vì, "Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Chính Đức Giêsu cũng đã nói với người đàn bà: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14).

Chính vì vậy, Mùa chay, Giáo hội kêu mời chúng ta khỏa lấp lòng khao khát sự sống siêu nhiên bằng việc gặp gỡ Đức Giêsu: qua Lời của Ngài, qua các Bí tích, nhất là Bí tích Giao hòa và Bí tích Thánh Thể. Chúng ta cũng có thể khỏa lấp lòng khao khát sự sống siêu nhiên bằng đời sống cầu nguyện và sự chia sẻ cơm áo cho tha nhân.

2. Chúng ta có sứ mạng đem “Nước Hằng Sống” cho những người khác?

Sau khi người đàn bà được Đức Giêsu “cho uống nước hằng sống,” bà đã chạy về thành và kêu gọi mọi người “Mau hãy đến xem, có một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?” (Ga 4,29). Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài. Nhiều người tin vào Đức Giêsu do lời chứng của người đàn bà. Họ mời Đức Giêsu ở lại với họ hai ngày. Sau đó, họ nói rằng: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế” (Ga 4,42).

Sứ vụ của người đàn bà cũng là sứ vụ của mỗi người chúng ta. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói cho các môn đệ biết về công việc của Ngài: "Lương Thực của Thầy là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của Ngài”(Ga 4,34). Công việc của Đức Giêsu là loan báo Tin mừng. Đó cũng là công việc của các Tông đồ và là công việc của mỗi người chúng ta. Công việc đó luôn có tính cấp bách. Chính Đức Giêsu đã cho biết: “Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ" (Ga 4,35-38).

Để loan báo Tin mừng có hiệu quả, chúng ta cần phải luôn chủ động, đi bước trước để đến với tha nhân. Đức Giêsu đã luôn làm như thế. Ngài đã đi bước trước qua việc bắt đầu câu chuyện bằng việc xin nước người phụ nữ. Rồi sau đó, Ngài đã mời gọi người phụ nữ uống Nước Hằng Sống. Ngài đi bước trước đến bàn thu thuế và mời gọi ông Lêvi đi theo Ngài. Ngài đi bước trước để đến với ông Giakêu khi ông đang ở trên cây sung để cho ông biết “hôm nay tôi đến trọ nơi nhà ông.” Ngài đi bước trước đến đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi để mời gọi họ bỏ quá khứ tội lỗi để trở về với Ngài…

Chúng ta cũng phải noi gương Đức Giêsu, đi bước trước đến với những người cần đến chúng ta. Đặc biệt là những người đang gặp khó khăn trong đời sống đức tin. Những người gặp khó khăn trong đời sống gia đình. Những người bỏ Chúa và Giáo hội lâu năm. Những người đang bất hòa với chúng ta. Thậm chí là những người đang hằn thù, ghen ghét chúng ta. Chúng ta cần đi bước trước để bắt chuyện với họ, giúp họ nhận ra con người thật của mình, cần đến Chúa để họ trở về với Chúa và Giáo hội.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết từ bỏ tội lỗi, trở về với Chúa. Xin cho chúng con luôn biết khỏa lấp những khát khao trong cuộc sống bằng chính Chúa. Từ đó, chúng con trở thành những sứ giả đem Chúa đến với anh chị em và đem anh chị em trở về với Chúa. Amen.

 

7.Đức Yêsu- Biểu tượng tình yêu

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)

Lời Chúa cho thấy Đức Yêsu là người trọn vẹn, Ngài chịu đói chịu khát như tất cả mọi người; tuy vậy, Ngài mặc khải Chúa Cha và Thánh Thần, Ngài là tình yêu Thiên Chúa đối với con người.

1. Đức Yêsu chia sẻ thân phận con người

Trên đường từ Yuđêa về Galilê, Đức Yêsu phải băng qua Samaria. Đoạn đường dài, trời nóng bức, đói và khát. Các môn đệ vào làng mua thức ăn, Đức Yêsu mệt mỏi ngồi phệt xuống cạnh giếng. Khát mà không có nước uống, vì không có gầu múc nước.

Chợt có một phụ nữ tới múc nước. Đức Yêsu đã ngỏ lời xin chị cho nước uống. Chị phụ nữ ngạc nhiên, vì luật không cho người Do Thái được tiếp xúc giao dịch với người ngoại, mà người ngoại đối với người Do Thái bao gồm cả người Samaria. Chắc hẳn không phải Đức Yêsu khát quá nên không giữ luật, nhưng vì một lý do khác mà chúng ta có thể nhận ra ngay trong đoạn Tin Mừng!

Kitô hữu thường nhìn Đức Yêsu như Thiên Chúa làm người, đôi khi quá chú trọng đến tính Thiên Chúa mà coi nhẹ tính người của Đức Yêsu. Thực sự, Đức Yêsu giống chúng ta mọi đàng (Dt.2, 17; 4, 15). Chỉ có một điều khác: chúng ta phạm tội, còn Ngài không. Là người, có lúc chúng ta đói, khát, mệt mỏi, thì Đức Yêsu cũng vậy. Ngài cũng đói, khát, mệt mỏi như chúng ta. Ngài đói đến nỗi có lúc muốn có một trái vả để ăn cho đỡ đói (Mt.21, 18-19). Ngài bị cám dỗ (Mt.4, 1-11), bị cám dỗ cả về lòng tin tưởng trông cậy nơi Thiên Chúa nữa (Mc.15, 34); có điều, tuy bị cám dỗ khủng khiếp, khi ở hoang địa và cả trên thập giá, Đức Yêsu vẫn chiến thắng (Lc.23, 46). Ngài vẫn yêu, cho dù không được yêu. Trên thập giá, Đức Yêsu đã hứa cho anh trộm được ở với Ngài ngay khi Ngài lên Nước của Ngài. Ngài cũng xin Cha tha cho những người thù ghét và giết Ngài. Dù giống chúng ta mọi đàng, nhưng Ngài không chỉ không sa ngã phạm tội, mà Ngài còn luôn yêu trong mọi hoàn cảnh, trong mọi nơi mọi lúc.

2. Thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật

Đã có thời gian, người ta tưởng rằng để thờ phượng Thiên Chúa, phải thờ phượng Ngài tại một nơi nào đó. Người Do Thái thì cho rằng phải thờ Chúa tại Yêrusalem, người Samaria thì bảo phải thờ phượng Thiên Chúa trên “núi này”. Những người đơn sơ như chị phụ nữ này, chẳng biết ai đúng ai sai, cứ làm như cha ông dạy. Và dĩ nhiên, cả người Do Thái lẫn người Samaria đều gặp được Thiên Chúa mà họ tìm kiếm, dù họ thờ phượng Ngài ở đền thờ Yêrusalem hay trên “núi này”.

Bây giờ, Đức Yêsu là Đấng Massiah, Ngài mặc khải cho con người biết phải thờ phượng Thiên Chúa ở đâu và như thế nào. Con người có thể thờ phượng Thiên Chúa ở bất cứ đâu, miễn là phải thờ phượng Ngài trong Thần Khí và sự thật. Nếu thờ phượng Thiên Chúa mà không từ bỏ lòng hận thù, không từ bỏ bất công với người nghèo, nếu vẫn nuôi lòng gian ác, thì cho dù thờ phượng Ngài ở đền thờ Yêrusalem, cũng không đẹp lòng Ngài và cũng không được Ngài chấp nhận.

Thiên Chúa là Thần Khí. Ngài là Cha tất cả mọi loài. Ngài yêu thương tất cả mọi người cho dù thuộc bất cứ dân tộc nào, sắc dân nào, vì tất cả đều là con dân Ngài. Hãy phó thác cuộc đời cho Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương. Thánh Thần Thiên Chúa vẫn luôn hoạt động trong lòng con người, để dẫn con người trở về với Thiên Chúa, để giúp con người sống cho đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi nơi mọi lúc.

3. Thánh Thần như mạch nước vọt lên trong lòng người

Trong Cựu Ước, Thần Khí mang lại sự sống. Chẳng hạn như trong thị kiến thung lũng đầy xương khô, Thần Khí mà Thiên Chúa thổi vào mang lại sự sống cho những bộ xương khô (Ed.37,1-14). Nước từ tảng đá vọt ra nuôi sống dân Do Thái trong hoang địa, cũng là biểu tượng Thánh Thần từ Thiên Chúa, thánh hoá và làm sống con người.

“Ai uống nước này hãy còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban sẽ không còn khát nữa, vì nước Ta ban sẽ trở thành mạch nước muôn đời”. Thánh Thần ngự nơi mỗi người, như mạch nước nơi lòng con người, làm dịu mát lòng người, làm con người khao khát Thiên Chúa, tẩy rửa tội lỗi, thánh hoá con người, mang lại sự sống cho con người. Với Đức Yêsu, Thánh Thần được mặc khải như Đấng Bầu Chữa, như Đấng dẫn con người vào tất cả sự thật, như Đấng làm chứng cho Đức Yêsu qua các tông đồ và các Kitô hữu, như Đấng thánh hoá.

Đức Yêsu là người mẫu cho Kitô hữu và cho tất cả con người, để con người theo gương Ngài sống trong trần gian trong hoàn cảnh cụ thể của mình. Cũng qua Đức Yêsu, Thánh Thần vĩnh viễn ở với con người, tác động và thánh hoá con người, làm con người thuộc về Thiên Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Thiên Chúa là Thiên Chúa tình yêu. Cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều yêu thương con người, và luôn tác động làm con người sống. Chúng ta được mời gọi để cộng tác với Thiên Chúa trong công trình cứu độ chính mình và tha nhân.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Đức Yêsu có là người gần gũi với bạn không? Bạn thấy Ngài gần bạn lúc nào nhất?

2. Bạn có thường ý thức Thánh Thần luôn ngự trong tâm hồn bạn không?

3. Người “tội lỗi” có thể là dịp để người khác gặp gỡ Thiên Chúa không? Tại sao? Chẳng hạn trường hợp chị phụ nữ.

 

home Mục lục Lưu trữ