Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 41

Tổng truy cập: 1356187

CHỌN LỰA CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU

CHỌN LỰA CỦA NGƯỜI KITÔ HỮU (*)-  Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXI có thể được gọi là “Tấn thảm kịch của sự chọn lựa”. Có những chọn lựa mang tính quyết định đối với cá nhân hay dân tộc.

Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b

Bài Đọc I nhắc lại việc ông Gio-suê đưa ra cho dân Ít-ra-en ngay khi họ định cư ở miền đất Ca-na-an một sự chọn lựa dứt khoát: phụng thờ các thần linh ngoại giáo hay phụng thờ Đức Chúa, Đấng đã cứu họ khỏi cảnh đời nô lệ, đã bảo vệ họ và dẫn đưa họ đến tận miền đất mà Ngài đã hứa ban cho tổ tiên của họ.

Ep 5: 21-32

Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, Thánh Phao-lô sánh ví tình yêu chung thủy giữa chồng và vợ trong hôn nhân Ki-tô giáo với sự kết hiệp bất khả phân ly của Đức Giê-su với Hội Thánh của Người.

Ga 6: 54a, 60-69

Tin Mừng trình bày một chọn lựa khác: tin vào Đức Giê-su và vào lời hứa ban thịt và máu của Người, hay từ chối tin vào Người và không chấp nhận mầu nhiệm này. Đây là thời điểm chọn lựa giữa lòng trung tín và thái độ khước từ.

BÀI ĐỌC I (Gs 24: 1-2a, 15-17, 18b)

Sách Giô-suê được đặt liền ngay sau bộ Ngũ Thư, sách này thuật lại những diễn biến của cuộc chinh phục, đoạn việc phân chia lãnh thổ giữa mười hai chi tộc Ít-ra-en và cuối cùng dân Chúa chọn định cư ở đất Ca-na-an (thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên).

1/.Đại hội Si-khem:

Ông Giô-suê, kế nghiệp ông Mô-sê, lãnh đạo dân Do thái. Ông là vị anh hùng chính của sách mang tên ông. Vào cuối đời, noi gương ông Mô-sê, ông Gio-suê muốn đưa ra những lời căn dặn tối hậu cho dân Do thái lần cuối, vì thế, ông quyết định triệu tập toàn thể các chi tộc Ít-ra-en ở Si-khem.

Địa danh, mà ông chọn, ở trung tâm Đất Hứa. Xét về phương diện địa lý, địa danh này rất thuận tiện (sau này được gọi là Sa-ma-ri). Ngoài ra, miền nầy chất chứa biết bao kỷ niệm tôn giáo rất có ý nghĩa: Si-khem là nơi tổ phụ Áp-ra-ham trú ngụ đầu tiên khi đặt chân lên đất Ca-na-an và là nơi vị tổ phụ dựng bàn thờ đầu tiên kính Chúa (x. St 12: 6-8). Đó cũng là nơi mà tổ phụ Gia-cóp đã tậu một thuở đất và đã chôn dưới gốc cây những tượng thần linh mà thân nhân của ông còn đem theo với mình, đây là dấu chỉ của việc từ bỏ phụng thờ các thần linh của họ (x. St 33: 18-20). Hành động này báo hiệu cách đặc biệt việc thờ phượng chỉ một mình Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Cũng một cách như vậy, ông Giô-suê đòi hỏi dân Ít-ra-en phải dứt khoát từ bỏ thờ lạy các thần linh và cam kết phụng thờ một mình Đức Chúa, Thiên Chúa của họ.

2/.Một sự chọn lựa dứt khoát:

Đoạn văn hôm nay trích từ bài diễn từ của ông Giô-suê được đặt vào trong khung cảnh phụng vụ: ông Giô-suê và tất cả các lãnh tụ dân Ít-ra-en “đứng trước nhan Thiên Chúa” (24: 1). Đây là biểu thức quen thuộc chỉ ra rằng có một đền thánh ở Si-khem (chắc chắn Hòm Giao Ước được đặt ở nơi thánh địa này).

Ông Giô-suê đưa ra cho toàn dân Ít-ra-en một chọn lựa triệt để: phụng thờ các vị thần linh của dân ngoại hay chỉ một mình Đức Chúa. Sức quyến rủ của việc phụng thờ các thần linh có thể bắt nguồn từ đa thần giáo của tổ tiên họ, hay từ dân bản địa mà họ cùng chung sống trên đất Ca-na-an. Dân Ít-ra-en phải chọn lựa một trong hai. Ông Giô-suê đòi hỏi họ long trọng lập lại lời cam kết. Lập luận cốt yếu mà ông đưa ra dựa trên sự trung tín của Đức Chúa, chính Ngài đã giải thoát họ ra khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, đã dẫn đưa họ đến tận Đất Hứa này, bất chấp mọi trở ngại đã giữ trọn lời hứa của Ngài với cha ông họ. Dân Ít-ra-en phải đáp trả sự trung tín của Thiên Chúa bằng cách tái cam kết phụng thờ chỉ một mình Ngài “vì Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (24: 7).

3/.Giao ước tại Si-khem:

Trên bình diện lịch sử, một cuộc triệu tập như vậy cho thấy là cần thiết để tái tổ chức toàn thể dân Chúa chọn thành một dân duy nhất, bởi lẽ dân Do thái vào Đất Hứa, đất mà các tổ phụ đã sống, và gặp lại những hậu duệ đã không cùng họ rời quê hương sang Ai-cập. Việc sáp nhập những hậu duệ nầy vào các chi tộc của cuộc Xuất Hành quả là cần thiết. Cuối cùng, cũng cần phải hiệp nhất các chi tộc trước khi họ phân tán ra khắp xứ sở Ca-na-an. Để được như vậy, chỉ có chung một niềm tin mới có thể gắn kết những yếu tố rời rạc của dân Thiên Chúa.

Nhưng về phương diện phụng vụ, Giao Ước Si-khem chắc chắn là bản sao phụng vụ mà dân Ít-ra-en cử hành hằng năm để long trọng lập lại lời cam kết trung thành tuân giữ Giao Ước. Sách Đệ Nhị Luật xem ra làm chứng điều nầy, một bài thuyết giáo về Giao Ước theo sát sơ đồ bài diễn từ của ông Gio-suê; hay nói chính xác hơn, ông Mô-sê căn dặn dân Ít-ra-en hằng năm phải nhắc lại lời cam kết trung thành với Đức Chúa, Thiên Chúa của họ. Một ngàn năm sau, việc tưởng niệm như vậy cấu thành yếu tố cốt yếu của “lễ Ngũ Tuần”. Hằng năm, vào ngày đại lễ đó, người ta lập lại lời cam kết trung thành tuân giữ Giao Ước Xi-nai (thật lạ thường, vào ngày lập lại lời cam kết này, bài diễn từ của ông Giô-suê tại Si-khem không được nhắc đến).

Cuối cùng, chúng ta ghi nhận rằng vào năm 931 trước Công Nguyên sự thống nhất của dân Chúa chọn bị thách đố: mười chi tộc tự tách mình ra khỏi vương triều Đa-vít để thiết lập vương quốc Ít-ra-en, mà kinh đô là Sa-ma-ri; trong khi hai chi tộc còn lại vẫn trung thành với vương triều Đa-vít, được gọi vương quốc Giu-đa, mà kinh đô là Giê-ru-sa-lem. Sự phân ly đau đớn này là phản đề cuộc triệu tập vĩ đại ở Si-khem.

BÀI ĐỌC II (Ep 5: 21-32)

Chúng ta tiếp tục đọc phần thứ hai thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Ê-phê-xô, đây là phần luân lý và khuyến dụ.

Sau khi đã nói về đời sống mới của người Ki tô hữu qua phép Rửa, thánh Phao-lô đưa ra vài lời khuyên bảo tuần tự liên quan đến những mối liên hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, chủ và tớ. Đoạn trích hôm nay đề cập đến mối liên hệ giữa chồng và vợ.

Chúng ta cần phải nhận ra hai khía cạnh khác nhau trong bản văn nầy: khía cạnh lỗi thời và khía cạnh thường hằng bất biến. Về khía cạnh lỗi thời, việc khai triển của những phong tục tập quán đã khiến cho những lời khuyên bảo của thánh nhân không còn thích hợp nữa. Về khía cạnh thường hằng bất biến, lời dạy về sự hiệp nhất của Đức Ki-tô với Giáo Hội của Người được sánh ví với sự hiệp nhất bất khả phân ly của chồng với vợ trong hôn nhân Ki-tô giáo có giá trị thường hằng và mãi mãi mang tính hiện sinh.

1/.Khía cạnh lỗi thời:

Lời khuyên bảo của thánh Phao-lô: “vợ phải tùng phục chồng”, không còn đáp ứng tâm thức hiện nay của chúng ta. Quả thật, lời khuyên bảo này trong bối cảnh tôn giáo, văn hóa và xã hội của thánh nhân cần phải điều chỉnh lại cho phù hợp với “quyền bình đẳng nam nữ” trong thế giới hiện nay. Mặc dầu viết từ Rô-ma, thánh nhân vẫn quan niệm bổn phận của người vợ theo truyền thống Do thái. Chúng ta cũng nên ghi nhận rằng, về phương diện pháp lý, bổn phận người vợ phải phục tùng chồng trước đây ở Đông Phương rất phổ biến, ngay cả ở Việt Nam: “xuất giá tòng phu”, nay đã bị hủy bỏ từ lâu rồi. Do đó, chúng ta cũng phải khảo sát hậu cảnh tôn giáo của lời khuyên bảo nầy: Giáo Hội tùng phục Đức Ki-tô, chấp nhận Tin Mừng của Người và tuân giữ các huấn lệnh của Người như thế nào thì người vợ phải phục tùng chồng như vậy.

Còn đối với lời khuyên: “người chồng phải yêu vợ mình như yêu chính thân thể mình” không phải là xúc phạm đến người bạn đời của mình sao? Phải nói thực, linh đạo hôn nhân, sau một lịch sử lâu dài, đã vượt qua những quan niệm như vậy. Tình nghĩa vợ chồng sống theo tinh thần Ki-tô giáo là lời mời gọi thường hằng ra khỏi cái tôi của mình, quên đi bản thân mình mà yêu người bạn đời của mình như chính người ấy. Không phải thánh Phao-lô đã tiên cảm điều đó khi nói rằng người chồng phải bắt chước Đức Ki-tô, Người đã “yêu thương và hiến thân mình vì Hội Thánh” đó sao?

Vì thế, trước tiên phải vượt qua những quan niệm nầy mà cố gắng thấu hiểu tư tưởng của thánh nhân, chủ yếu thuộc loại suy. Sau đây chúng ta sẽ đề cập đến những khía cạnh bất biến, có giá trị thường hằng và mãi mãi mang tính hiện sinh trong bản văn này.

2/.Hội Thánh là Hiền Thê của Đức Ki-tô:

Thánh Phao-lô áp dụng cho Đức Ki-tô và Hội Thánh của Ngươi ngôn từ của các ngôn sứ, các ngài đã diễn tả tình yêu của Đức Chúa dành cho dân Ít-ra-en bằng những từ ngữ hôn ước. Khởi đi từ thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, ngôn sứ Hô-sê đã trình bày hình ảnh hôn ước giữa Thiên Chúa và Dân Ngài bằng những ngôn từ thật thống thiết; từ đó, hình ảnh nầy trở thành kinh điển. Chúng ta gặp lại hình ảnh nầy nhất là tại các ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, I-sai-a đệ nhị. Hình ảnh này xuất hiện một lần nữa và được thiêng liêng hóa trong sách Khôn Ngoan (thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên). Chính trong truyền thống Kinh Thánh nầy mà viễn cảnh của thánh Phao-lô được định vị.

Việc so sánh tình nghĩa vợ chồng phàm nhân với tình nghĩa của Đức Chúa với Dân Người thật là tuyệt vời, dù rằng không phải mọi yếu tố đều xứng hợp. Quả thật, sự so sánh vẫn kiếm khuyết ở nơi mức độ đồng hóa Đức Ki-tô với người chồng được tô điểm bằng sự hoàn thiện, cao cả, uy quyền, và Hội Thánh với người vợ xem ra hoàn toàn phụ thuộc, có nhiều khuyết điểm, cần được tinh tuyền và thánh thiện “để ra mắt Người”.

Cũng vậy, trong Cựu Ước, Đức Chúa là vị hôn phu rất mực thủy chung, không bao giờ quên những thề non hẹn biển của mình; trong khi dân Do thái là vị hôn thê thường bội thề, bất trung với Thiên Chúa của mình, vi phạm các huấn lệnh của Ngài, chạy theo các ngẫu tượng.

Vì được so sánh như vậy, người chồng phải yêu thương vợ mình “như Đức Ki-tô nuôi nấng và chăm sóc Hội Thánh”. Lời mời gọi chan chứa tình nghĩa chồng vợ nầy tạo nên một dấu nhấn mới gây xôn xao ở giữa lòng văn hóa xã hội Do thái ở đó chỉ người chồng mới có quyền rẩy vợ và ở đó chỉ người phụ nữ ngoại tình bị trừng phạt (dù rằng tội đồng lõa cũng bị trừng trị: Lv 20: 10; Đnl 22: 22, tuy nhiên chúng ta ghi nhận rằng việc người chồng ngoại tình hiếm khi bị kết án).

3/.Hội Thánh là Thân Thể của Đức Ki-tô:

Đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô nầy khai triển một trực giác đã xuất hiện kể từ thư thứ hai gởi tín hữu Cô-rin-tô (2Cr 11: 2), đó là cách diễn tả đạo lý rõ ràng nhất của thánh Phao-lô về Hội Thánh là “Thân Thể Đức Ki tô”.

Đức Ki-tô đã thánh hóa và thanh tẩy Hội Thánh “bằng nước và lời hằng sống”, theo nguyên ngữ của bản văn Hy lạp: “bằng việc tắm rửa kèm theo lời”. Thánh Phao-lô sử dụng từ “tắm rửa” vì phép Thánh Tẩy được thực hiện bởi việc nhận chìm vào bể nước, nhưng cũng ám chỉ đến nghi thức tắm rửa của vị hôn thê theo tập tục Do thái cũng như Hy lạp. Còn việc kể ra “kèm theo lời” rõ ràng là biểu thức phép Thánh Tẩy. Dù xác định thoáng qua nhưng thật quý báu biết bao.

Có thể cũng có một sự quy chiếu đến phép Thánh Thể, khi thánh nhân gợi lên “người chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Quả vậy, không ai ghét thân xác mình bao giờ; trái lại, người ta nuôi dưỡng và săn sóc thân xác mình”. Đó là điều Đức Giê-su làm đối với Hội Thánh của Ngài khi Ngài nuôi dưỡng Hội Thánh bằng Thánh Thể của Ngài.

4/.Chiều kích cao cả của hôn nhân:

Sự kết hiệp của Đức Giê-su với Hội Thánh là dấu chỉ của sự hiệp nhất giữa đôi vợ chồng trần thế, đó là ý muốn của Đấng Tạo Hóa, vì “cả hai sẽ trở thành một xương một thịt”, như cách diễn tả của sách Sáng Thế mà thánh nhân nhắc lại. Như vậy, sự hiệp nhất chồng vợ được tháp nhập vào trong một thực tại thánh, thực tại nầy siêu thăng đời sống hôn nhân. Mầu nhiệm hôn nhân thật là cao cả vì là hình ảnh hôn ước giữa Đức Giê-su và Hội Thánh.

TIN MỪNG (Ga 6: 54a, 60-69)

Đây là một trong những trang Tin Mừng thống thiết nhất. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất diễn từ về Bánh Hằng Sống, trong đó Người đã loan báo ân ban Thánh Thể của Người bằng những từ ngữ hiện thực nhất, giờ đây Đức Giê-su đặt để các môn đệ của Người trước một sự lựa chọn: tin vào những lời công bố không thể nào tin được này hay từ chối mà ra đi. Ở đây, chúng ta gặp thấy hai phản ứng trái ngược nhau: phản ứng tiêu cực từ phía các môn đệ (6: 60-66) và phản ứng tích cực từ phía nhóm Mười Hai (6: 67-69).

1/-Phản ứng tiêu cực từ phía các môn đệ (6: 60-66):

Phần này cho thấy cuộc khủng hoảng đức tin vào Chúa Giê-su càng lúc càng trầm trọng theo một tiến trình khởi đi từ những xầm xì phản đối (6: 41), cho đến cuộc tranh luận sôi nổi (6: 52), nay đạt đến phản ứng bất mãn như đỉnh điểm: “Lời nầy chướng tai quá ! Ai mà nghe nổi?” (6: 60), và cuối cùng như một hệ luận tất yếu: “Nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa” (6: 66).

Vì thế, Đức Giê-su tìm cách cung cấp cho các môn đệ hai điểm hỗ trợ ngõ hầu họ có thể hiểu được. Về điểm hỗ trợ thứ nhất, Đức Giê-su nêu lên hai câu hỏi: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được ư? Vậy nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?” (6: 61-62). Trong câu hỏi thứ nhất, từ “chướng” theo nghĩa đầu tiên là một sự ngăn trở mà người ta vấp phải, một trở ngại cần phải vượt qua. Trong câu hỏi thứ hai, khi tự nhận vào mình tước hiệu “Con Người”, Đức Giê-su nhắc cho các môn đệ nhớ rằng Ngài không đơn thuần là một phàm nhân, nhưng có nguồn gốc thần linh, Đấng từ Chúa Cha mà đến và sẽ trở về với Chúa Cha. Trong diễn từ về Bánh Hằng Sống, Đức Giê-su đã nhiều lần nêu bật điều này (x. 6: 25, 27). Vì thế, điều kiện tiên quyết để hiểu được các lời của Đức Giê-su, là phải nhận ra chân tính của Ngài. Ở đây, Đức Giê-su muốn hướng tâm trí của họ về tương lai và ở bên kia cuộc tử nạn của Người, khi Người trở về nơi Người đã đến. Lúc đó ý nghĩa của những lời Người nói mới được sáng tỏ: “thịt” và “máu” mà Người ban tặng chính là Thân Thể của Đấng Phục Sinh, là nguồn sống thần linh trao ban vô tận cho loài người, như vậy loài người mới có sự sống trường sinh trong chính mình.

Về điểm hỗ trợ thứ hai, Đức Giê-su đề cập trước tiên điểm mấu chốt gây nên sự kỳ chướng nơi họ về thân thể của Ngài là của ăn thức uống đích thật bằng cách bảo đảm với họ rằng: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì” (6: 63a). Ở lời phát biểu này có một sự đối lập giữa thần khí và xác thịt: “Cái gì bởi xác thịt mà sinh ra, thì là xác thịt; còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là thần khí” (3: 6). Nếu xác thịt được hiểu là một phàm nhân, kể cả nhân tính của Ngài đi nữa, người ta chẳng có gì để mong đợi được phúc trường sinh, vì xác thịt này rồi sẽ hư hoại và tiến dần đến cái chết. Nhưng xác thịt Đức Giê-su ban là xác thịt của Đấng Phục Sinh đầy tràn Thần Khí, tức là đầy tràn quyền năng ban sự sống thần linh mà không bao giờ cạn.

Từ đó, Đức Giê-su kết luận: “Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống” (6: 63b). Kiểu nói: “là thần khí và là sự sống” là “phép thế đôi”, theo đó từ thứ hai: sự sống, bổ nghĩa cho từ thứ nhất: thần khí, nghĩa là: “thần khí làm cho sống”. Qua kiểu nói đặc trưng này, Đức Giê-su muốn nói rằng chúng ta khó chấp nhận mầu nhiệm này nếu chúng ta suy nghĩ quá phàm trần, nói cách khác, quá nghiêng chiều các giác quan của chúng ta, nhìn mọi sự việc quá trần tục. Chỉ ai lắng nghe lời của Ngài và chấp nhận lời ấy là Mặc Khải của Thiên Chúa, tức là “Thần Khí làm cho sống”, thì sẵn sàng chấp nhận bí tích Thánh Thể là tặng phẩm thần linh với những diễn tiến theo trình tự như sau: bước thứ nhất, để có thể ban thịt và máu của Ngài, Đức Giê-su đã trở thành một phàm nhân; bước thứ hai, để có thể nuôi dưỡng sự sống đời của chúng ta, thịt và máu Ngài ban tặng không là thịt và máu của Đức Giê-su tại thế, nhưng là thịt và máu đầy tràn thần khí của Đấng Phục Sinh; và bước thứ ba, để chúng ta có thể ăn và uống được, thịt và máu của Ngài được ban “dưới hình bánh” và “dưới hình rượu”.

“Thần Khí làm cho sống” được Đức Giê-su nói ở đây, chính Ngài sẽ làm rõ ra trong diễn từ cáo biết khi Ngài mặc khải Đấng Bảo Trợ, “Đấng đó sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (14: 26), “Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (16: 13). Trái lại, “xác thịt”, tức phàm nhân, chỉ đóng khung trong ánh sáng hữu hạn của riêng mình, không thể hiểu những quà tặng thần linh trong những lời của Đức Giê-su.

Dù Chúa Giê-su cố gắng giải thích mấy đi nữa, thì cũng vẫn có nhiều môn đệ không tin (6: 64), “từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi theo Người nữa” (6: 66). Chúa Giê-su giải thích sự kiện này khi cho biết “không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy” (6: 65). Những môn đệ này đã khép kín lòng mình trước những ân huệ của Thiên Chúa; họ không chấp nhận bất cứ điều gì vượt quá chân trời rất hữu hạn của mình. Mầu nhiệm Thánh Thể thật sự kêu mời một hành vi đức tin đặc biệt.

2/-Phản ứng tích cực của nhóm Mười Hai (6: 67-69):

Sau khi nhiều môn đệ bỏ Ngài mà ra đi, Chúa Giê-su yêu cầu nhóm Mười Hai, những người thân cận nhất của Ngài, phải có thái độ dứt khoát trong việc chọn lựa của họ khi nêu lên câu hỏi căn bản: “Cả anh anh em nữa, cũng muốn bỏ đi hay sao?” (6: 67). Chúa Giê-su đặt ra câu hỏi và để cho các ông tự do quyết định, nhưng Ngài không rút lại bất cứ điều gì Ngài đã nói.

Nhân danh nhóm Mười Hai, thánh Phê-rô liều lĩnh mở rộng lòng mình đón nhận Lời Mặc Khải ban sự sống đời đời: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (6: 68). Đó cũng lời công bố sau này của thánh nhân trước Thượng Hội Đồng Do thái: “Ngoài Người ra không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4: 12). Tiếp đó, thánh nhân tuyên xưng niềm tin vào Thầy mình: “Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (6: 69).

Một vấn đề được đặt ra là có một sự khác biệt nào giữa lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ở đây: “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” với lời tuyên xưng của thánh nhân ở Mt 16: 16: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” không? Các chuyên viên Kinh Thánh đồng ý rằng cả hai lời tuyên xưng nầy có cùng một nội dung đức tin. Lý do mà Tin Mừng thứ tư chọn biểu thức: “Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” là để phù hợp với văn mạch hơn. Trong Cựu Ước, ngôn sứ cũng được gọi là  “đấng thánh của Thiên Chúa” (2V 4: 9; tc Mc 1: 24), vì các ngài được Thiên Chúa “thánh hiến”, nghĩa là được đặt riêng ra (17: 17-19) để lo công việc chuyển giao lời Thiên Chúa, lời ban sự sống đời đời (Gr 1: 5; Ga 10: 35-36; 17: 17-19). Trong Tân Ước, Đức Giê-su, Con Một của Chúa Cha, được Chúa Cha sai đến để mặc khải Chúa Cha, vì thế Ngài đích thực là Đấng Thánh của Thiên Chúa.

Cuối cùng chúng ta nhận xét rằng trong lời tuyên xưng vào Thầy, thánh Phê-rô đặt “tin” trước, rồi mới đến “nhận biết”. Chỉ trong ánh sáng của đức tin, người tín hữu mới có thể nhận biết những chân lý vượt quá khả năng hiểu biết của phàm nhân. Những lời mặc khải Thánh Thể đã đặt ra một sự chọn lựa dứt khoát giữa tin hay không tin. Thánh Thể vẫn sẽ là “mầu nhiệm đức tin” đối với các tín hữu của mọi thời đại.

(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN- B

CHỌN LỰA ĐI THEO CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

I/.Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Ở đời có nhiều cuộc tan rồi hợp và hợp rồi tan: đến với nhau, sống với nhau, rồi bỏ nhau. Nhiều tín hữu cũng đối xử với Chúa như thế: theo Ngài rồi bỏ Ngài. Có lẽ chúng ta đây cũng nhiều lần bị cám dỗ bỏ Chúa.

Hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ lại cuộc hành trình đi theo Chúa, và chúng ta tha thiết xin Chúa đừng để chúng ta bỏ Chúa bao giờ, bởi vì, như lời Thánh Phêrô tuyên xưng: “Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống”

II/.Gợi ý sám hối

Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa để chạy theo lạc thú thế gian.

Nhiều lần chúng con đã bỏ Chúa vì không muốn vác Thánh giá Chúa trao.

Nhiều lần chúng con có ý muốn bỏ Chúa để tự do sống theo ý riêng của chúng con.

III. Lời Chúa

1/.Bài đọc I (Gs 24,1-2a.15-17.18b)

Khi Môsê qua đời, Giôsuê tiếp tục sứ mạng dẫn dân Do thái về Ðất Hứa. Sau khi đã hoàn toàn chinh phục Ðất Hứa và chia phần cho các chi tộc, Giôsuê triệu tập tất cả 12 chi tộc tại Sikhem. Ông nhắc lại tất cả những điều mà Thiên Chúa đã làm cho họ, và kêu gọi họ hãy chọn lựa dứt khoát: Từ nay nếu họ chọn Chúa thì phải hoàn toàn trung thành với Ngài, từ bỏ mọi tà thần khác.

2/.Ðáp ca (Tv 33)

Những lời ca tụng lòng nhân lành Chúa rất hợp với tâm tình của dân Israel sau khi họ đã được Thiên Chúa giải thoát khỏi bao nỗi gian nguy để cuối cùng được sống trong Ðất Hứa.

3/.Tin Mừng (Ga 6,54a.60-69)

Kết quả của bài giảng về Thánh Thể:

Nhiều người cho là chói tai, bỏ đi, trong số đó có cả các môn đệ: “Từ hôm đó, có nhiều môn đệ rút lui không theo Ngài nữa”.

Ðức Giêsu hỏi Nhóm 12. Phêrô thay mặt nhóm tuyên xưng “Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”

4/.Bài đọc II (Êp 5,21-32) (Chủ đề phụ)

Giáo huấn của Thánh Phaolô về đạo vợ chồng: (1) Vợ phải phục tùng chồng như Hội Thánh tùng phục Ðức Kitô; (2) Chồng phải yêu thương vợ như Ðức Kitô yêu thương Hội Thánh và như người ta yêu thương thân xác mình.

IV.Gợi ý giảng

* 1. Sống là chọn lựa

Trong bài Tin mừng hôm nay, có một câu nói của Thánh Phêrô đã trở thành bất hủ. Phêrô đã thưa với Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, Bỏ Thầy thì con biết theo ai, vì Thầy có Lời ban sự sống”. Phêrô đã nói lên câu đó trong một tình thế dằng co: khi ấy người ta đi theo Ðức Giêsu rất đông vì Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no nê, họ đi theo Chúa để mong lại được cho ăn no như thế mãi. Nhưng rồi Ðức Giêsu đột ngột chuyển hướng: Ngài hứa ban cho họ một thứ bánh khác, đó là Thịt và Máu Ngài. Làm cho dân chúng như bị hổng chân: họ đang mong được ăn bánh phần xác, thì Ðức Giêsu lại hứa cho họ thứ bánh tinh thần. Thành ra nhiều người chán, bỏ Chúa mà đi, họ đã ra đi gần hết. Bấy giờ Chúa mới hỏi nhóm môn đệ thân cận của mình “Còn các con, các con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không?” Lập tức, Phêrô đã nói lên câu nói bất hủ trên. Ông nhất quyết không bỏ Thầy, ông hứa sẽ mãi mãi theo Thầy. Nghĩa là Phêrô đã làm một sự lựa chọn.

Cuộc đời là một chuỗi những sự lựa chọn. Có lẽ chỉ trừ việc sinh ra và cái chết là người ta không lựa chọn được (không ai tự do lựa chọn xem có muốn được sinh ra hay không; cũng không ai được tự do lựa chọn xem có muốn chết hay không, và chết kiểu nào, lúc nào), còn tất cả mọi việc khác thì người ta phải lựa chọn. Và chính những sự lựa chọn này sẽ định hướng và đánh giá cuộc đời của mình. Nghĩa là nếu chọn đúng, chọn khéo thì đời mình sẽ tốt, sẽ hạnh phúc; còn nếu chọn ẩu, chọn sai thì cuộc đời sẽ xấu, sẽ bất hạnh.

Ðời sống là như thế, sống là phải lựa chọn luôn. Chúa cũng muốn chúng ta luôn lựa chọn. Các bài đọc khác trong Thánh Lễ hôm nay cũng nói đến vấn đề lựa chọn: Bài trích sách Giôsuê thuật chuyện ông Giôsuê bảo dân phải lựa chọn một là thờ Chúa hai là thờ các thần tượng khác, chứ không được làm tôi hai chủ, không được bắt cá hai tay. Còn trong thư gởi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô khuyên các đôi vợ chồng một khi đã chọn nhau làm bạn đời thì phải suốt đời trung thành với sự lựa chọn đó, nghĩa là phải thuỷ chung, phải tùng phục nhau, và phải hoà thuận với nhau.

Còn nếu nói theo từ ngữ phật giáo, thì chúng ta cũng phải luôn luôn lựa chọn một bên là tham sân si, và một bên là lý tưởng đạo đức của mình. Mỗi ngày chúng ta phải đứng trước biết bao sự lựa chọn như thế:

Một người đến đề nghị cho chúng ta một kiểu làm ăn gian lận, tiền sẽ có nhiều nhưng lại trái đức công bình: ta phải chọn hoặc là lòng tham hay là đức công bình.

Rồi một người hàng xóm làm một điều gì đó không vừa ý ta, ta phải lựa chọn hoặc là buông theo tính nóng của mình để chửi rủa người ta (Phật giáo gọi là cái Sân), hay là nhịn nhục tha thứ.

Và rất nhiều khi ta đứng trước những cơn cám dỗ, buông mình theo nó là buông theo cái Si, hay là phải biết tự chủ kềm chế mình.

Ai chọn lựa tham sân si là chọn sai, cuộc đời sẽ trở thành xấu. Còn ai chọn công bình, bác ái, tự chủ tức là chọn lấy cái tốt, chọn con đường Chúa đã vạch ra.

Nếu ta chọn Chúa thì sẽ ra sao? và nếu ta bỏ Chúa thì sẽ ra sao? Linh mục nhạc sĩ Thành tâm đã suy diễn câu nói bất hủ của Thánh Phêrô thành một bài thánh ca rất ý nghĩa như sau: “Bỏ Ngài con biết theo ai?

Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cánh chim bơ vơ trong khung trời lộng gió

“Bỏ Ngài con biết theo ai, đời lộng gió cánh chim ngàn khơi”.

Bỏ Ngài thì đời con sẽ như một con thuyền lao đao trên biển cả mênh mông.

“Bỏ Ngài con biết theo ai thuyền buông lái biết trôi về đâu?”

Bỏ Ngài thì đời con sẽ mờ mịt trước tương lai mơ hồ.

“Bỏ Ngài con biết theo ai, trên đời kia tương lai khuất mờ.

Và bỏ Ngài thì đời con sẽ như một cuộc hành trình cô đơn, buồn bã.

“Bước đi không Ngài, đời con buồn tênh”.

Còn nếu chọn Ngài, thì cuộc đời của chúng ta tuy cũng vẫn là một cuộc hành trình, cũng vẫn như cánh chim bay trong khung trời lộng gió, cũng như con thuyền giữa biển cả mênh mông, nhưng trong cuộc hành trình ấy, đã có Chúa đồng hành, cánh chim đã biết hướng mà bay, con thuyền đã có người lèo lái và như thế sẽ bảo đảm đi tới bến đò bình an.

Trên đây là một vài gợi ý về những sự lựa chọn trong cuộc đời.

Nhưng điều quan trọng là chính chúng ta phải biết lựa chọn như thế nào trước những hoàn cảnh riêng của cuộc đời mình. Cầu mong cho mỗi người chúng ta biết lựa chọn đúng và lựa chọn tốt.

* 2. Bỏ Thầy con biết theo ai?

Trong cuốn Eucharistic Miracles của Carroll Cruz có viết một tích truyện về Bí tích Thánh Thể như sau:

Năm 700, tại tu viện Thánh Lougino ở Lanciano bên Italia, có một linh mục tên là Basilio hoài nghi về mầu nhiệm Chúa hiện diện trong hình bánh rượu. Chúa đã làm phép lạ cả thể còn được lưu niệm cho đến ngày nay, như một minh chứng vĩ đại về Phép Thánh Thể, được gọi là phép lạ Lanciano.

Vừa khi linh mục ấy truyền phép, bánh đã trở nên thịt và rượu đã trở nên máu. Thịt Máu Chúa đó còn được cô đọng đến ngày nay. Năm 1713 bửu Huyết Chúa đã được lưu giữ trong Hào Quang quí giá gọi là Hào Quang phép lạ Thánh Thể Lanciano. Năm 1971, cuộc khảo cứu khoa học đã cho biết Thịt đó là một thớ thịt từ trái tim, và Máu đỏ là máu của con người, thuộc nhóm máu AB (vết máu trên chiếc khăn liệm Turin cũng thuộc nhóm máu AB).

Ngày nay, Thịt và Máu Chúa hiện đang được lưu giữ trong nhà thờ thánh Phanxicô, là trung tâm hành hương nổi tiếng của cả thế giới.

Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy các môn đệ cũng rơi vào kinh nghiệm khủng hoảng đức tin ấy. Khi Ðức Giêsu tuyên bố, Người sẽ hiến chính thịt máu mình cho họ ăn, thì lập tức nhiều môn đệ đã phản ứng lại: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được” (Ga.6,60). Thánh Gioan còn ghi lại: “Từ bấy giờ có nhiều môn đệ rút lui, không còn theo Người nữa” (Ga.6,66). Họ đã theo Người một thời gian, đã tin và đã trở thành môn đệ. Nhưng họ không thể đi tới cùng.

Tận hiến cho Ðức Kitô không phải là sự lựa chọn một lần, đó là thách thức từng ngày. Trở nên một tín hữu Kitô không là bảo đảm sẽ trung tín đến cùng. Bước theo Ðức Giêsu là bước vào một cuộc mạo hiểm: mạo hiểm của tình yêu, mạo hiểm của lòng tin. Ðã có những môn đệ không tin và bỏ đi. Ngay trong nhóm ở lại, cũng có kẻ không theo được tới cùng.

Tạo sao nhóm thứ nhất bỏ đi, còn nhóm thứ hai lại trung kiên đến cùng? Tại sao nhóm thứ nhất thất bại, còn nhóm thứ hai lại thành công? Có thể nói “để khỏi bỏ cuộc, người ta cần phải bỏ mình”. Ðể theo Ðức Giêsu, cần phải chú tâm đến Người hơn là bận tâm về chính mình. Thánh Phêrô đã làm được điều đó khi Ngài nói: “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai?”. (Ga.6,68)

Ðứng trước lời tuyên bố của Ðức Giêsu xem ra có vẻ “chói tai” thì Phêrô đại diện Nhóm Mười Hai vẫn không tỏ ra nao núng, vì ngài chỉ nhìn thẳng vào Ðức Giêsu.

Ðứng trước cuộc thử thách, ngài vẫn một niềm tin tưởng, vì ngài chỉ chú tâm vào Chúa: “Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa” (Ga.6,69).

Trái lại, nhóm thứ nhất sở dĩ bỏ cuộc, vì họ chỉ loay hoay bận tâm với những ý nghĩ của mình: “Sao ông này lại có thể lấy thịt mình cho chúng ta ăn?” (Ga.6,52).

Hôm nay vẫn có những câu Lời Chúa bất ngờ làm ta choáng váng, vẫn có những giây phút thử thách làm ta chao đảo, vẫn có những cơn cám dỗ làm ta bỏ cuộc. Hãy đưa mắt nhìn vào Chúa, hãy xác tín lại niềm tin vào Người như Thánh Phêrô đã làm:

*******

Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời. Chúng con tin… Người là Ðấng Thánh của Thiên Chúa. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

* 3. Ðức tin “nghĩa địa”

Một món đồ còn mới thì được gọi là đồ “gin”, còn một món đồ đã có người xài trước rồi bán lại thì được gọi là đồ nghĩa địa (tiếng anh gọi là second-hand). Có một người kia một hôm bị rơi vào một tâm trạng vô cùng chán chường vì chợt nhận ra rằng đức tin của anh chỉ là một đức tin “nghĩa địa”.

Anh vừa sinh ra thì đã được rửa tội. Lớn lên một chút anh đến nhà thờ học giáo lý và lần lượt được Rước lễ, Thêm sức và các bí tích khác. Hàng tuần anh đến nhà thờ tham dự Thánh lễ và nghe giảng. Ở nhà anh được cha mẹ và ông bà dạy dỗ cặn kẽ về cách sống đạo. Từ trước tới nay anh vẫn an tâm trong đức tin êm đềm như thế. Nhưng hôm đó anh chợt nhận ra rằng tất cả nội dung đức tin ấy đều là của người khác. Anh nghĩ rằng đức tin của anh giống như chiếc áo cũ mà người anh mặc chật nên chuyển lại cho người em. Một thứ đồ second-hand.

Anh nghĩ rằng bây giờ mình đã trưởng thành, mình phải suy nghĩ về đức tin để có những xác tín của riêng mình; mình cần có những cơ hội thử thách để có những chọn lựa của riêng mình.

Cơn khủng hoảng đức tin của người thanh niên trên hẳn là ray rứt lắm, nhưng thực rất cần thiết. Sinh ra trong đức tin thì chưa đủ, cần phải sinh lại trong đức tin nữa. Có một đức tin “nghĩa địa” cũng chưa đủ, mà cần có đức tin do chính mình xác tín. Chỉ có một đức tin do chính mình xác tín mới có thể giúp ta chọn cho mình một lập trường khi đứng trước những tình thế phải chọn lựa. Như thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay đã mạnh dạn chọn Ðức Giêsu đang khi nhiều người khác bỏ Chúa mà đi: “Lạy Thầy, bỏ thầy thì con biết theo ai, vì chỉ có Thầy mới có những lời hằng sống” (Viết theo Flor McCarthy)

* 4. Chúng con cũng bỏ Thầy mà đi chăng?

Cách đây không lâu vào ngày 6 tháng 3, 1997, một vụ ly dị ở thành phố Bửu Tân (Brockton), bang Mã Sơn Xét (Massachusettes) của Hoa Kỳ gây nên một cảnh tượng hết sức đau lòng. Hai vợ chồng ông Ðặng Danh Mừng (Dana Raymond) và bà Giang thị Dương (Jeanne Ardizoni) đưa nhau ra toà để ly dị, mà cả hai đều không chịu nuôi hai con của họ, khiến cuối cùng toà phải xử cho hai đứa con vào viện mồ côi! Khi toà phán quyết, người ta nghe tiếng khóc nức nở của hai đứa bé tội nghiệp. Thế mà hai bố mẹ vẫn dửng dưng! Cảnh sát được lệnh toà “bắt” hai đứa bé lên xe chở tới viện mồ côi. Chúng vùng vẫy kêu “Cha”, kêu “Mẹ”, nhưng cha và mẹ đều không buồn ngó ngàng tới hai đứa con của mình!

Bài Tin Mừng hôm nay cũng để lộ ra một cảnh thương tâm theo bề sâu, mặc dầu bề ngoài xem ra chỉ là chuyện trò bỏ thầy vì giáo thuyết thầy dạy không lọt được vào tai trò.

Rabbi Giêsu đâu phải như các bậc thầy khác trong đạo Do Thái. Tác giả Tin Mừng thứ bốn, kể như người môn đệ thân thiết nhất của Ðức Giêsu, trong lời tựa đã giới thiệu Người là Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa “và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1) Nhờ Ngôi Lời mà vạn vật được tạo thành và “không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (c.3). Và “Ngôi Lời ấy đã trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” (c.14).

Khi Người xuất hiện ở sông Giođan thì chính ông Gioan Tẩy Giả làm chứng về Người rằng “Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Nhưng chính Ðấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: “Ngươi thấy thần khí xuống ngự trên ai, thì người đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần.” (cc.32-33).

Người đã đến nhà mình mà người nhà chẳng chịu đón nhận!

Chính ông Gioan Tẩy Giả là người giới thiệu hai trong số môn đệ của ông đến nhận Ðức Giêsu làm thầy (c.37). Nhưng với Ðức Giêsu, ai đó trở nên môn đệ của Người phải được chính Người gọi (xem Mc 1,16-20). Giữa đám đông môn đệ, Người đã chọn và thiết lập nên Nhóm Mười Hai, để họ ở lại với Người và để Người sai họ đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (xem Mc 3,13-15). Nhưng họ vẫn luôn có tự do nhận hoặc khước từ Ðức Giêsu. Ðiều đó được nói lên ngay ở lời tựa của Tin Mừng Gioan: “Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa.” (Ga 1,10-12).

Niềm tin nơi các môn đệ cũng giống như sức khoẻ, cần được bồi dưỡng và triển nở. Tại tiệc cưới Cana, khi Ðức Giêsu hoá nước lã thành rượu ngon, các môn đệ đã tin vào Người (2,11). Nhưng tại Giêrusalem, khi nghe Ðức Giêsu tuyên bố với người Do Thái: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”, các môn đệ không hiểu lời đó. Khi Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại, các ông mới nhớ lại lời đó và mới tin vào Kinh Thánh và lời Ðức Giêsu đã nói (20-32). Cả lời tuyên bố của Ðức Giêsu với ông Nicôđêmô rằng “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (3,14-15), lời tuyên bố ấy vẫn còn là điều bí nhiệm đối với các môn đệ.

Riêng với Tin Mừng Máccô, các môn đệ khi được loan báo về cuộc thương khó và phục sinh lần thứ hai, các ông không những không hiểu lời đó mà còn sợ không dám hỏi lại Người (xem Mc 9,30-32). Hơn nữa, các ông còn hành xử một cách hoàn toàn không xứng hợp chút nào với cuộc thương khó vừa được loan báo là dọc đường các ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả! (Mc 9,34).

Ðức Giêsu vẫn muốn các môn đệ được tự do nói lên chọn lựa của mình.

Xuyên qua Tin Mừng Gioan chương 6, ta liên tiếp thấy diễn ra cảnh thương tâm là Ngôi Lời làm người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người!

Vậy trước hết ta có đông đảo dân chúng một bên và các môn đệ một bên. Dân chúng mặc dầu được ăn bánh no nê nhờ phép lạ hoá bánh ra nhiều, đã từ khước việc nhìn nhận Ðức Giêsu làm mục tử nhân hậu đến chăm sóc họ. Người biết họ sắp đến bắt Người đem đi và tôn lên làm vua, nên Người lánh mặt đi lên núi một mình (c.15). Còn các môn đệ ở lại trên thuyền như Nhóm Mười Hai được Người thiết lập, thì Người đã đi trên mặt nước mà đến với các ông: ngay lúc ấy Người còn cho thuyền các ông lập tức cập bến Caphácnaum, nơi các ông định đến (c.21).

Kế đến, vào ngày hôm sau, đám đông dân chúng lại tìm đến với Ðức Giêsu tại Caphácnaum. Ðức Giêsu bỏ qua sự cố ngày hôm trước là họ đã muốn bắt Người để tôn làm vua, Người khơi dậy nơi họ ý muốn làm công việc Thiên Chúa muốn họ làm, là tin vào Ðấng Thiên Chúa sai đến (c.29), tức là đón nhận Người mang đến cho họ bánh của Ðức Khôn Ngoan là Lời Chúa. Vậy Người nói với họ: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (c.35). Ðó là lúc người Do Thái xầm xì phản đối vì họ không chấp nhận Người là bánh từ trời xuống, mà chỉ kể Người là ông Giêsu, con ông Giuse mà thôi (cc.41-42).

Căng thẳng lên tới tột đỉnh với lời Ðức Giêsu tuyên bố “Bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây để cho thế gian được sống” (c.51). Thịt nói đây là “sarx” trong Hy ngữ, cũng được dùng trong câu “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14). Tức là trọn con người cụ thể của Ðức Giêsu được ban cho thế gian để thế gian được sống. Nhưng khi giảng dạy trong hội đường, Caphácnaum, Ðức Giêsu lại còn nói: “Nếu các ông không ăn thịt Con Người các ông không có sự sống nơi mình. Ai ăn thịt tôi và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy” (cc.53-56)

Chưa nói gì đến dân chúng, ngay giữa các môn đệ của Ðức Giêsu đã xảy ra một phân rẽ giữa kẻ không tin và người tin. Một bên nhiều môn đệ phản ứng: “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (c.60). Nhưng Ðức Giêsu vẫn kiên nhẫn khơi dậy nơi họ niềm tin mà họ cần đặt nơi Người là Ðấng từ Thiên Chúa mà đến: “Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (cc.62-63). Ðáp lại là cả một bi kịch. Nhiều môn đệ đã rút lui, không còn đi với Người nữa.

Còn bên kia là Nhóm Mười Hai, tức Nhóm chính Ðức Giêsu đã thiết lập để họ ở lại với Người. Với họ nữa, Ðức Giêsu vẫn muốn họ được tự do nói lên chọn lựa của mình. Cho nên Người đã nêu thẳng vấn đề là: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” Ông Simon Phêrô liền đáp: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa” (cc.67-69). Nhưng cả giữa nhóm thân cận nhất này của Ðức Giêsu, vẫn không vắng bóng kẻ nộp Chúa, để nhắc nhở loài người phải biết luôn thức tỉnh, “vì ma quỉ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1P 5,8) (Lm Augustine sj, Vietcatholic 2001)

V./Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, sau khi Ðức Giêsu mặc khải Người là Bánh ban sự sống muôn đời, Người đòi hỏi mỗi người phải có thái độ dứt khoát, tin hay không tin. Chúng ta cùng càu xin với lòng tin tưởng:

1/.Hội thánh hôm nay gặp nhiều khó khăn và thách đố / Xin Chúa cho mọi thành phần trong Hội thánh luôn tin tưởng và nghe theo Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

2/.Thế giới hôm nay đang phải chọn lựa giữa chiến tranh và hòa bình, giữa vật chất và tinh thần, giữa hận thù và yêu thương / xin Chúa cho mọi nhà cầm quyền biết chọn lựa đường lối nào đem lại tự do và hạnh phúc thật cho mọi người.

3/.Nhiều người đã dứt khoát từ bỏ Chúa / nhiều người còn dửng dưng không cần quan tâm đến Chúa / Xin Chúa cho họ được ánh sáng dẫn đường đẻ tìm về với Chúa là lẽ sống của mọi người.

4/.Nhiều anh chị em trong họ đạo chúng ta đã biết Chúa mà còn thờ tiền bạc và ham mê đời sống vật chất đời này. / Xin Chúa cho họ được thức tỉnh và trở về với Chúa là Ðấng ban sự sống hạnh phúc muôn đời.

Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, bỏ Chúa thì chúng con biết theo ai bây giờ, vì chỉ một mình Chúa có lời ban phúc trường sinh; xin cho chúng con luôn vững tin nơi Chúa để giúp mọi người khác cũng tin theo Chúa. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI./Trong Thánh lễ

– Trước lúc rước lễ: Ðức Giêsu đã dạy “Ai ăn thịt Ta và uống Máu Ta thì sẽ được sống muôn đời”. Chúng ta hãy dọn mình cho xứng đáng để rước lấy Mình Thánh Chúa.

VII. Giải tán

Sau khi đã được nuôi dưỡng bằng chính Mình Thánh Chúa và Lời hằng sống của Ngài, chúng ta hãy trung thành theo Chúa suốt đời.

home Mục lục Lưu trữ