Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 54

Tổng truy cập: 1356545

CHỦ CHĂN VÀ ĐOÀN CHIÊN

CHỦ CHĂN VÀ ĐOÀN CHIÊN

 

Chúa Giêsu muốn nói gì qua hình ảnh chủ chăn và đoàn chiên? Tôi xin thưa đó là sự gắn bó mật thiết.

Thưc vậy, giữa chủ chiên và đoàn chiên có một sự gắn bó mật thiết với nhau thế nào, thì giữa Chúa Giêsu và những người được Chúa Cha trao cho Ngài cũng có một sự gắn bó mật thiết với nhau như vậy, bởi vì họ thuộc về Ngài và Ngài biết tên họ. Điều này cũng có nghĩa là Ngài biết tường tận từng người một với những ưu điểm và khuyết điểm, với những suy tư và tính toán, với những âu lo và khát vọng. Giữa Ngài và những người tin vào Ngai đã tạo nên được một sự cảm thông chân thành. Họ nhận ra tiếng Ngài và bước đi theo Ngài. Điều ấy không thể xảy ra cho những kẻ xa lạ.

Tất cả những sự kiện kể trên đều là những biểu hiện của tình yêu thương. Chúng ta không thể hồ nghi về những lời khẳng định của Chúa Giêsu, bởi lẽ Ngài đã chết để bảo vệ đoàn chiên của Ngài như một người mục tử tốt lành và nhân hậu. Ngài phán: Không ai yêu hơn người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu. Hay như thánh Phêrô đã viết trong: Chính Ngài đã gánh lấy tội lỗi chúng ta nơi thân xác của Ngài trên cây thập giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính. Nhờ vết thương của Ngài, anh em đa được chữa lành. Xưa kia anh em như những con chiên lạc, thì giờ đây anh em đã trở về cùng vị mục tử, Đấng canh giữ linh hồn anh em.

Thế nhưng điều quan trọng hơn đó là mỗi người chúng ta phải làm gì và phải sống như thế nào, để được xứng đáng là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa? Khi người chủ chăn đứng ngoài cửa và vên tiếng gọi, lập tức những con chiên nhận biết tiếng họ, chúng liền tụ lại quanh người ấy và bước đi theo sự hương dẫn của người ấy. Và người ấy sẽ dẫn đoàn chiên của mình tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát.

Với chúng ta cũng thế, là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta phải biết nhận ra tiếng Chúa mời gọi. Nhưng nhận ra tiếng Chúa mời gọi mà thôi chưa đủ, điều quan trọng hơn, đó là chúng ta còn phải tụ lại bên Ngài và bước đi dưới sự hướng dẫn của Ngài bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy, bằng cách tuân giữ nhưng giới luật của Ngài.

Bởi vì chỉ bước đi theo sự hướng dẫn của Ngài, chúng ta mới có thể đạt tới miền đất hứa là quê hương Nước Trời mà thôi.

 

15.Mục tử tốt lành

(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)

Dưới thời bạo Chúa Nêrô bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao tín hữu đã chết dưới tay ông vua điên loạn, bạo tàn.

Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:

- Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?

- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.

- Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lđoàn chiên, và để chịu đóng đinh thập giá như Thầy.

"Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên" (Ga.10,11). Đức Giêsu ví mình như một mục tử tốt lành khác với người chăn thuê, vì người đã dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Cái chết của Người không bất ngờ, cũng không đầu hàng bạo lực, nhưng là một cái chết tự hiến. Đức Giêsu chết để nói nên lời yêu thương. Một tình yêu tột đỉnh, yêu cho đến cùng. Thánh Gioan viết: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga.15,13).

Chính tình yêu đã tạo nên mối dây gắn bó giữa chủ chiên và từng con chiên, khiến Người nói: "Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta" (Ga.10,14-15). Đó là sự hiểu biết nhau sâu xa, sự trân quí giữa mục tử và đoàn chiên.

Đức Giêsu là mục tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ là phụ tá giúp chăn dắt đoàn chiên của Người. Mọi mục tử phải noi gương Người, dám chết cho đoàn chiên được sống. Phêrô là người mục tử đầu tiên. Phêrô có thể trốn bắt bớ, tù tội, chết chóc. Nhưng chính khi đổ máu, Phêrô đã giữ vững đoàn chiên. Cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục hơn bất cứ lời rao giảng nao: "Thầy làm vững đức tin của con. Rồi đến lượt con, con sẽ làm vững đức tin của anh em con". Các mục tử tiếp bước Phêrô vui lòng nằm xuống để nên nhân chứng, và củng cố niềm tin cho các anh em.

Dụ ngôn người "Mục tử tot lành" cho thấy tình yêu sâu sắc của Thiên Chúa:

- Người yêu thương mỗi người một cách cá biệt, không yêu cách chung chung.

- Người yêu thương vô điều kiện, ngay cả khi chúng ta lầm đường lạc lối.

- Người yêu thương bằng tình yêu vui mừng, chứ không la rầy khiển trách khi tìm thấy chiên lạc.

Ngày nay, Đức Giêsu vẫn cần những vị mục tử tốt lành lo cho đoàn chiên trên thế giới. Người rất cần các bạn trẻ hiến thân cho sứ mạng mục tử này. Người mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng trái tim yêu thương, để thấy những cơn đói Lời Chúa, đói tình thương, đói của ăn, đói ý nghĩa cuộc sống. Người kêu gọi chúng ta hãy tha thiết xin Cha cho nhiều mục tử tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi hơn, và thánh đức hơn. Những mục tử sẵn lòng âm thầm chết từng ngày cho đoàn chiên.

***

Lạy Chúa, xin gởi đến cho chúng con những mục tử có trái tim của Chúa: luôn say mê Thiên Chúa và yêu thương con người, có tình bạn thân thiết với Chúa, dám hy sinh cho đoàn chiên, dẫn đưa chúng con về với Cha là nguồn hạnh phúc thật của chúng con. Amen.

 

16.Tôi biết chiên của Tôi - ViKiNi

(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)

Câu nói có vẻ tầm thường, nhưng thật lạ lùng.

Nếu một ông thủ tướng trong sạch, biết rõ từng bộ trưởng, từng tỉnh trưởng, từng giám đốc, bí thư, thì không một ai dám tham nhũng, hối lộ.

Nếu cha mẹ tốt lành, biết rõ từng đứa con, sẽ dễ dàng dạy con ngoan chăm con giỏi, và không có con nào dám qua mặt làm điều hỗn láo.

Nếu người trên nhân hậu biết rõ người dưới, chắc chắn sẽ dễ cảm thương cho số phận khổ sở kẻ dưới và sẽ hết mình giúp đỡ họ.

Vậy làm sao có thể biết rõ được?

Muốn biết rõ người phải xuyên suốt bốn giai đoạn sau:

Thứ nhất, biết những hành động bên ngoài, từ lời nói, cử chỉ đến việc làm.

Thứ hai, biết những hanh động bên trong, là những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, ước muốn và ý định.

Thứ ba, biết quá khứ, hiện tại, tương lai xẩy ra sao.

Thứ bốn, biết số phận, vận mệnh may rủi sống chết thế nào?

Thường người ta, dù người tai giỏi, thông thái hay gần gũi như cha mẹ sống với con cái, cũng chỉ biết được người khác qua những hành động bên ngoài. Những nhà tâm lý giáo dục biết được tâm tính con người thường dùng phương pháp quan sát ba yếu tố: cảm xúc (Emotivité: E), hoạt động (Activité: A) và xem phản ứng sơ khởi hay sâu lắng (retentivité primaire ou secondaire) để xếp xem người đó thuộc loại tính tình nào trong tám loại tính tình.

Thực ra, con người chỉ có thể biết nhau ở giai đoạn thứ nhất, tới giai đoạn thứ hai chỉ là đoán mò, nên mới có câu: “Sông sâu còn có người dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”.

Khi Chúa Giêsu nói với ta: “Tôi biết chiên của Tôi” thì Người biết hết mọi sự: từ hành động bên ngoài đến bên trong ta, từ quá khứ hiện tại đến số phận đời đời của ta, Người thấu suốt cả cuộc đời ta.

Người biết rõ Nathanael ở đâu, đang làm gì.

Người biết rõ Pharisiêu nghĩ gì, biết rõ âm mưu của Giuđa và các thượng tế. Người biết rõ quá khứ của người đàn bà xa lạ đến kín nước giếng Giacóp có bảy đời chồng và kẻ đang sống với bà không phải là chồng bà. Người biết rõ tương lai của các môn đệ sẽ bị bắt bơ, tù đầy, xét xử và bị giết đi vì làm chứng về Người, và Người khuyên các ông đừng sợ vì họ chỉ giết được xác mà không giết được hồn. Người biết rõ phần thưởng Chúa Cha ban cho các ông bội hậu trên trời.

Người biết rõ số phận của thành Giêrusalem sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào và Người khóc thương họ.

Chính vì biết rõ thân phận con người như thế mà Người cảm thương ta vô cùng.

Khi ta nhìn một người quằn quại trên vũng máu vì tai nạn hay một người rên xiết trên giường bệnh, ta không cầm được nước mắt. Ta chỉ biết được chút bên ngoài chốc lát thôi, ta còn biết mủi lòng, huống chi là Thiên Chúa biết quá rõ số phận ta từ đời đời, Thiên Chúa còn phải thương yêu ta đến thế nào! Người đã thấy thân phận ta như “con chiên ở giữa sói rừng, sói liền bắt và làm tan tác đoàn chiên”. Vì thế, không lạ gì Thiên Chúa Cha đã phải hy sinh Con Một yêu dấu của Ngài, xuong thế làm người, sống lăn lộn cứu chữa con người cho đến chết và bị chết đóng đinh trên thập giá. Hôm nay chúng ta thấy: tại sao Người nói: Tôi biết chiên Tôi và Tôi hy sinh mạng sống Tôi cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một người mục tử”.

Trong bài đọc một, thánh Phêrô đã chứng tỏ cho thượng hội đồng thấy: “Chính nhờ danh Đức Giêsu Kitô, người Nagiarét, Đấng mà quý vị đã đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa đã cho Người chỗi dậy, từ cõi chết, đã cứu chữa người tàn tật này được lành mạnh”.

Trước tình yêu của Đấng chăn chiên nhân lành như thế, thánh Gioan kêu gọi chúng ta: “Anh em hãy xem Thiên Chúa yêu ta dường nào để ta được gọi làm con Thiên Chúa. Và được nên giống như Người”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết cố gắng nên giống Người Mục Tử nhân lành, biết nhận trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, thánh hóa đoàn chiên, chúng con mới được giống Người trong vinh quang.

 

17.Chúa Nhật 4 Phục Sinh

(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)

Đức Giêsu tự xưng mình là mục tử nhân lành. Ngài biết từng con chiên, yêu thương chăm sóc và sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đàn chiên.

Thật vậy, Đức Giêsu biết hết tất cả mọi người chúng ta. Ngài biết từng người trong chúng ta. Ngài biết người nào khỏe mạnh, người nào ốm đau, người nào tàn tật. Ngài như người mục tử đi tìm con chiên bị mất; con nào đi lạc, Ngài sẽ đưa về; con nào bị thương, Ngài sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ngài sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ngài sẽ canh chừng (x. Ed 34,16). Ngài yêu thương chăm sóc từng người trong chúng ta một cách tận tình (Is 40,11). Ngài luôn tạo điều kiện tốt đẹp cho mọi người như người muc tử chăn dắt đàn chiên trong đồng cỏ tốt tươi, màu mỡ (x. Ed 34,14). Cụ thể, Ngài nuôi chúng ta bằng Lời của Ngài, bằng các Bí tích nhất là Bí tích Thánh Thể. Đặc biệt, Ngài đã hy sinh tính mạng của mình vì hạnh phúc của mỗi người chúng ta. Đó là tình yêu cao quý hơn mọi tình yêu. Đúng như lời Ngài khẳng định: “không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”. Vì thế, những ai được sống dưới sự chăn dắt của vị mục tử Giêsu, thì luôn được vững dạ an tâm, không sợ nguy khốn (Tv 23,4), không sợ thiếu thốn gì (Tv 23,1).

Để mang lại nhiều lợi ích hơn nữa cho con người, Đức Giêsu còn tuyển chọn một số người cộng tác trực tiếp vào sứ mạng mục tử của Ngài. Vì thế, trước khi về trời, Ngài đã chọn các Tông đồ và đặt Thánh Phêrô thay mặt Ngài tiếp tục vai trò đó. Vai trò mục tử đó được tiếp tục nơi các Tông đồ đoàn, các Đức Giáo Hoàng kế vị thánh Phêrô, các Đức Giám mục, các linh mục cho đến tận thế. Nhưng số lượng giám mục, linh mục trong Giáo hội chưa bao giờ có thể đáp ứng đủ với nhu cầu của đoàn chiên. Cho nên, Đức Giêsu đã từng nói: “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin Chúa sai thợ gặt đi gặt lúa về.” (Lc 10,2). Vâng lời Đức Giêsu, suốt 2000 năm qua, Giáo hội luôn luôn quan tâm đến việc đào tạo các linh mục. Thông thường tại các Giáo phận hoặc liên Giáo phận đều có Đại chủng viện, nơi đào tạo các linh mục tương lai. Ngoài các đại chủng viện còn có các đào tạo các ứng sinh linh mục của các dòng tu. Giáo hội không những mời gọi giới trẻ dấn thân trong đời sống tu trì, làm linh mục. Giáo hội còn mời gọi các thành phần trợ giúp vật chất cũng như tinh thần cho các chủng viện, cho công cuộc đào tạo linh mục. Cụ thể, Giáo hội dùng Chúa nhật IV Mùa Phục Sinh hằng năm để nhắc nhở mọi thành phần dân Chúa cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Đây là một sáng kiến đặc biệt của Giáo hội. Vậy, chúng ta phải làm gì để góp phần vào việc đào tạo linh mục? Chúng ta phải làm gì để giúp đỡ các giám mục, linh mục đang trực tiếp coi sóc chúng ta?

Thứ nhất, chúng ta cần phải làm gì để góp phần vào việc đào tạo linh mục:

- Vai trò của các bậc cha mẹ: Cần phải quan tâm giáo dục con cái về đời sống đức tin, nhân bản và tri thức; giúp con cái hiểu biết hơn về ơn gọi linh mục và tu sĩ; khi thấy con cái có ý hướng dâng mình cho Chúa trong ơn gọi linh mục và tu sĩ thì cần phải giúp đỡ và hướng dẫn con cái thực hiện ý hướng tốt lành đó.

- Vai trò của các thầy cô giáo lý viên: Không chỉ truyền đạt về kiến thức giáo lý mà còn giúp các em về mọi mặt để các em có thể trở thành những người trưởng thành quân bình về tri thức, nhân bản và đạo đức.

- Vai trò của cha xứ: Không chỉ hướng dẫn và giúp đỡ các em trong việc phân định ơn gọi mà còn giúp các em có đủ điều kiện để thực hiện ơn gọi của mình. Đặc biệt, đời sống độc thân dâng hiến của cha xứ luôn trở nên mẫu mực cho các em noi theo.

- Vai trò của mọi thành phần trong Giáo hội: Cần giúp đỡ các ứng sinh linh mục tương lai bằng lời cầu nguyện, bằng gương sáng, bằng sự động viên khích lệ, bằng sự giúp đỡ về mặt vật chất...

Hầu hết các linh mục trưởng thành như hôm nay, ngoài ơn Chúa, sự nổ lực của bản thân thì đều có sự cộng tác trực tiếp hay gián tiếp của gia đình, thân nhân, ân nhân và các thành phần trong giáo xứ và Giáo hội.

Thứ hai, chúng ta cần cầu nguyện và cộng tác với các giám mục, linh mục:

Chúng ta không chỉ có trách nhiệm đối với các ứng sinh linh mục mà còn có trách nhiệm đối với chính các giám mục, các linh mục nhất là giám mục và các các linh mục đang trực tiếp phục vụ chúng ta. Chúng ta giúp đỡ bằng lời cầu nguyện, sự nâng đỡ, cộng tác với các ngài để các ngài chu toàn bổn phận mà Chúa và Giáo hội trao phó. Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử bởi vì trong thực tế, tuy có nhiều mục tử giống mục tử Giêsu, nhưng vẫn có những mục tử giả, mục tử xấu, mục tử không tha thiết gì đến đàn chiên, “khi thấy sói đến liền bỏ chiên mà chạy: sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn”; vẫn có những mục tử sống vô trách nhiệm với đàn chiên: chẳng quan tâm khi chiên đi mất, không đi tìm khi chiên thất lạc, không chạy chữa khi chiên bị thương…(x. Dc 11,16a); vẫn có những mục tử bóc lột đàn chiên để hưởng thụ chứ không chịu chăn dắt đàn chiên: “Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại không lo chăn dắt” (Ed 34,3); vẫn có những mục tử độc ác, thống trị đàn chiên một cách tàn bạo và hà khắc (x. Ed 34,3); vẫn có những mục tử mà sự hiện diện của họ chỉ làm cho đàn chiên tan tác (x. Gr 23,2).

Trong bài huấn dụ có sự hiện diện của các linh mục và giáo dân, Đức Cha Anphôngsô, Giám mục Phụ tá Giáo phận Hưng Hóa mời gọi giáo dân cầu nguyện và cộng tác với các linh mục như sau:

- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Linh mục cần lời cầu nguyện lắm, vì sứ vụ và trách nhiệm của linh mục rất nặng nề. Nhiều khi anh chị em xin linh mục cầu nguyện cho mình, mà quên cầu nguyện cho linh mục.

- Hãy tôn kính linh mục vì là người thay mặt Chúa hướng dẫn giáo dân. Nhưng hãy tôn kính cách đúng mực, bình dị, thân tình, chứ đừng thần thánh hóa, khép nép, sợ hãi, tâng bốc. Linh mục là người của Chúa và của mọi người, chứ không phải của riêng ai.

- Hãy nâng đỡ tinh thần cho linh mục. Linh mục cũng cần sự nâng đỡ, nhất là trong những lúc gánh nặng của sứ vụ đè trên đôi vai và trong tâm hồn. Tôi xin anh chị em quan tâm nâng đỡ tinh thần, chứ không phải vật chất, cho các linh mục. Chỉ chú trọng nâng đỡ vật chất sẽ có thể làm thoái hóa linh mục.

- Hãy cộng tác cách chân thành, tích cực và hữu hiệu, để linh mục chu toàn sứ vụ của mình. Linh mục chẳng thể làm được gì nếu không có giáo dân đồng tâm hiệp lực.

Lạy Chúa Giêsu mục tử nhân lành, xin ban cho Giáo hội có thêm nhiều mục tử như lòng Chúa mong muốn. Amen.

 

18.Chúa Nhật 4 Phục Sinh

Anh chị em thân mến.

Người Việt Nam chúng ta thường thì ai cũng biết đến cau chuyện cổ tích: Cái Đực rựa. Câu chuyện nói lên đời sống của hai anh em được người cha rất thương yêu.

Chính vì thế ông đã chuẩn bị tất cả, không để cho con của mình phải thiếu thốn điều gì. Khi ông nhắm mắt lìa đời, ông đã để lại một tài sản xứng đáng cho hai người con của mình. Không chđể lại mà thôi, ông còn dạy bảo nhắc nhở: Anh em phải yêu thương lo lắng cho nhau. Nhưng rồi, những điều lo lắng, những điều chỉ dạy và lời trối sau cùng của người cha kính yêu, không được thực hiện chu đáo.

Người anh cả khôn ngoan hơn, lại thêm tính tham lam, nên cuối cùng, người em hiền tđơn sơ chỉ còn nhận được Cái đực rựa. Người em phải rời khỏi nhà cùng với gia tai mình được chia, gia tài mà người cha đã để lại, giđây anh chỉ nhận được có thế. Anh đã bị chính người thân thuộc nhất của mình tước đoạt tất cả. Anh cũng không có quyền ở trong nhà cha của mình, vì chính người con của cha mình, người anh ruột của mình, người thân nhất của mình, lại là người loại trừ anh ra khỏi cuộc sống. Đoạn kết câu chuyện, mọi người chúng ta đều biết: Ở hiền gặp lành.

Qua câu chuyện, tôi suy nghĩ: người cha rất thương yêu con của mình, nên ông đã dạy dỗ, chuẩn bị tất cả. Đáng lẽ những người con của ông đều được sung sướng. Nhưng cũng vì con ông không biết thương nhau, nên có những người phải cơ cực. Mặc dù ông đã làm tròn bổn phận cua mình, nhưng ông không khỏi phiền lòng khi nhìn thấy những đứa con của mình đối xử với nhau như thế. "Chiên của Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi." Chúa Giêsu là chủ đàn chiên của Ngài. Ngài là Người Cha nhân hậu, Ngài đã chuẩn bị tất cả những gì cần thiết cho đàn chiên của Ngài được hạnh phúc, được sung sướng. Chính vì thương yêu đàn chiên nhỏ bé, còn bơ vơ chưa thể tự mình đạt tới hạnh phúc được, nên Ngài dám hy sinh mạng sống mình để bảo vệ đàn chiên. Ngài biết từng con chiên, lo lắng cho từng con một. Ngài chỉ có mong ước duy nhất là làm sao các chiên của Ngài đều nghe tiếng để bước đi theo Ngài.

Chúng ta là con cái Thiên Chúa, chúng ta thuộc về đàn chiên của Chúa Kitô. Mỗi người trong chúng ta được Ngài yêu thương, chăm sóc, giữ gìn, và mỗi người cũng được bảo vệ bằng chính mạng sống của Ngài. Những con chiên trong đàn có được một Người chủ chăn tuyệt vời, thế mà cũng vẫn còn có nhiều con chiên ăn không đủ no, nó cũng không thể nào chống chọi lại nỗi với những cơn giá rét luôn ập xuống trên mình. Đôi khi còn tệ hại hơn nữa, nó phải đành chấp nhận nỗi cô đơn mà tách khỏi đàn để đối mặt với bao nhiêu nguy hiểm đang chờ đón.

Nó đói không phải vì trong đàn chiên thiếu thức ăn, trái lại, thức ăn vẫn đầy đủ và phần của nó vẫn còn đó. Nó lạnh, nó cô đơn, nó gặp nguy hiểm, không phải vì chủ không quan tâm. Nhưng nó phải chịu tất cả những điều bất hạnh đó, vì nó không tìm được sự cảm thông của những con chiên đồng loại. Nó cũng không tìm thấy được một sự quảng đại, nó cũng chẵng nhan được những cử chỉ yêu thương chân thành, mà nó chỉ thấy trước mắt nó những điều làm nó đau lòng. Trước một thực tế như thế, cùng với sự hiểu biết nông cạn, nó không thể nào nhận ra được tình yêu của Người Chủ Chăn Tuyệt Vời qua những chú chiên bạn bên cạnh nó được.

Câu chuyện cổ tích ở trên, chúng ta ngở rằng nó đã cổ xưa, đã đi vào quá khứ, nhưng thực ra nó rất hiện đại và vẫn là một câu chuyện thời sự nóng bỏng của ngày hom nay. Cũng vẫn những tham lam, vẫn những tranh giành, vẫn những thủ đoạn loại trừ nhau. Cho dù tiếng chủ chăn vẫn vang lên thống thiết, còn những con chiên thì vẫn cứ mặc tình, vẫn cứ ồn ào náo nhiệt, vẫn cứ tranh chấp nhau, nên không thể nào nghe được hết những gì chủ chăn muốn nói.

Tiếng vị Chủ Chăn tuyệt vời cũng vang bên tai mỗi người chúng ta. Chúng ta có phải là con chiên trong đàn của Chúa Kitô thật sự không? chúng ta đã nghe tieng Ngài, và bước đi theo Ngài như thế nào trong cách sống của mình?

Xin Chúa ban ơn cho chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, lời của vị Chủ Chăn Tốt Lành, để chúng ta luôn là con chiên ngoan trong đàn của chủ chăn, và là một bạn chiên tốt của các chiên.

home Mục lục Lưu trữ