Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 67

Tổng truy cập: 1363398

CHÚ GIẢI NOEL QUESSON

CHÚ GIẢI NOEL QUESSON

 

Hồi ấy...

Ta hãy ngờ vực. Ta đừng bị lẫm lẫn. Cách nói này không chỉ là câu nói tầm thường chuyển tiếp theo thói quen: Nhưng ngày mà Matthêu muốn nói đến là những ngày quyết định.:. Có một sự khẩn trương đang đến gần. Ngày mai thì quá trễ rồi. Đó là ngày N, đó là Giờ G sắ đến ngay bây giờ.

Ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng

Nếu ta đọc Matthêu như những người đọc ông ban đầu, không biết đến Tin Mừng Luca (trong đó Gioan Tẩy Giả đã choán hết thời thơ ấu của Đức Giêsu), thì mọi chuyện diễn ra ở đây như thể chúng ta đang chứng kiến một ‘khởi đầu tuyệt đối’: “Hồi ấy, Gioan Tẩy Giả đến”. Giáo Hội sơ khai khi ấy bắt đầu Tin Mừng trực tiếp bằng hoạt động của Gioan Tẩy Giả (Cv 10,37; Mc 1,4; Ga 1,19). Những Tin Mừng thời thơ ấu chỉ được đưa vào sau này, như một thứ dẫn nhập thần học trước.

Ta hãy thử tưởng tượng mình vào trong sa mạc này ở bên bờ sông Giođan. Tất cả lịch sử Kitô giáo bắt đầu bằng tiếng kêu của Gioan:

“Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”

Đấy là chuyện “khẩn trương”. Đấy là “Tin Mừng” Thiên Chúa sắp ngự trị.

Ta đang ở vào mùa thu năm 27, có thể như thế. Ta khó tưởng tượng ra một “tiếng kêu” như thế sẽ gợi ra chuyện gì Đối với những người vào thời đó, thì nó có tác dụng như một trái bom. Đấy là một chàng điên nói... hay nếu đúng thế, thì đấy là cả một sự chờ đợi hừng hực của Do Thái sắp được mãn nguyện: một “chồi non của cội nguồn Đavít sẽ nảy sinh”; “một nhánh lá, một hy vọng điên cuồng”; “Người sẽ dùng công lý phán xét những kẻ bé mọn”; “một nền hòa bình phổ quát và dứt khoát sẽ thành hình trên mặt đất: Sói sẽ ở với chiên. Sư tử và bò cùng ăn cỏ với nhau, trẻ thơ sẽ vui đùa trên ổ rắn hổ mang”; “sẽ không còn sự ác nữa”; “mọi người sê nhận biết Thiên Chúa” (Is 11,1-10).

Chính đó là tin vui: đấy là “Tin Mừng”, là “loan báo tốt lành”; “eu-angelion” trong tiếng Hy Lạp, “besôrâ” trong tiếng Do Thái. Đó là “tin lành” mà, trong hai năm Đức Giêsu đến lượt Người bắt đầu kêu lên. Đó chính là cùng một thứ tin vui mà Đức Giêsu rao giảng (Mt 4,17). Thiên Chúa đến gần rồi. Thiên Chúa ở giữa người ta, Thiên Chúa ở trên đường đi, Nước Người đang đến gần! Hãy đến! Hãy đến! Chớ chi Nước người ngự đến! Chớ chi tình yêu Người đến! Chớ gì hòa bình đến! Chớ chi công lý đến! Tất cả những của cải mà loài người khát mong.

Tất cả đều ở đó! Gioan Tẩy Giả nói. Ta hiểu rằng cái “tin” này không thể để cho ai còn dửng dưng được. Còn tôi, tôi có phải là một người khát khao không? Tôi có biết phát hiện ra trong thế giới thực tế mỗi ngày, tất cả những khát vọng sâu xa này không? Cái “mong chờ” này không?

Nhưng, chú ý! chú ý! Gioan Tẩy Giả kêu lên. Đừng chỉ mong chờ, khát khao suông. Hãy xây dựng “Nước Thiên Chúa” này, hãy làm đi. Đi đi, lên đường đi, hãy năng động, hãy sám hối; hãy thay đổi!

Gioan chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: “Có tiếng người hô trong sa mạc. Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi”.

Lạy Chúa, chúng con được “giải ngũ”, chính chúng con, so với những người kia, thế đấy! Chúng con đã làm dịu bớt Tin Mừng. Chúng con đã làm cho Tin Mừng thành một sức mạnh “truyền không”. “bảo thủ” quá khứ. Và khi đó chính là niềm hy vọng lớn lao của quần chung muốn biến đổi xã hội. Thế thì chúng ta hãy cứ lạ lùng trước các chủ nghĩa vô thần hiện đại đã đến tiếp sức khi chúng ta bỏ chạy: “đó là cuộc đấu. tranh cuối cùng. Chúng ta hãy tập hợp lại và ngày mai cuộc đấu tranh quốc tế sẽ là loài người?, là Kitô hữu, chúng ta có say mê xâydựng một thành thị mới không? Chúa chúng ta không phải chỉ “ở trên cao”, Người “ở phía trước”. Người đến, người gần quá rồi; bạn hãy làm cho Người đến, hãy dọn đường cho Người!

Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn.

Đó là một “tay cứng cỏi”, một “anh chàng nổi tiếng”, cái gã đó, đã kêu lên: “hãy sám hối”. Chính bản thân anh, anh ta đã bắt đầu thực hiện. Anh ta sống một cuộc đời đạm bạc, sơ khai, hợp với môi sinh một cách lành mạnh từ lâu rồi: Không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, hay dư cholesterol!

Khi đó người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê đến với ông.

Chốn hoang mạc này đang đầy nghịt những đám đông! Nó sống lại! Chốn hoang mạc ở chỗ bờ sông Giođan này trở thành một trung tâm, khởi động một phong trào từ khắp nơi: từ thành thị (Giêrusalem!) ở phía Tây, miền thôn dã (sông Giođan!) ở phía Đông.

Họ thú tội và ông làm phép rửa cho họ trên sông Giođan.

Vâng đúng là hoang mạc tâm hồn bỗng nhiên bắt đầu sống lại trong khiêm tốn và sám hối. “Thay đổi xã hội” không chưa đủ nhưng cũng phải thay đổi chính bản thân mình. Thời gian của Mùa Vọng trước hết không phải thời gian bày ra những mặt hàng đầy thực phẩm và tặng phẩm. Chính là thời gian trở về lòng mình. Thời gian Mùa Vọng trước hết không phải thời mơ mộng của những bé ngoan: đó là thời gian ‘phải quyết định’. Đối với truyền thống Kinh Thánh: “sám hối” chính là quay trở lại hoàn toàn để đi theo chiều hướng ngược lại với chiều mà ta đã đi theo. Tiếng La tinh “conversio”, từ đó mới có tiếng “conversion”, phiên dịch tiếng Hy Lạp “metanoia”, có nghĩa theo sát chữ là: ‘thay đổi’= meta, ‘não trạng’= noia’. Và hai từ này phiên dịch tiếng Do Thái “shub”, đặc trưng về rao giảng có tính ngôn sứ. Mùa Vọng năm nay, đối với tôi, phải chăng sẽ là một thời gian ‘trở lại’, một thời gian ‘canh tân’, một thời gian ‘thay đổi’, một thời gian ‘sám hối’? Hay là phải chăng tôi cứ tiếp tục cuộc đời rong ruổi của tôi, đôi chân rúc vào đôi giày bố xó nhà, và ngồi ghế bành thoải mái bên tách cà phê? Khi nghe loan báo “Tin mừng về Nước Thiên Chúa đã gần kề, người người thời đó chạy bộ tuồn đến hoang mạc, và nhận ra tội lỗi của mình. Còn chúng ta ngày nay thì sao? Phải chăng lương tâm của ta có lẽ không bị va chạm với tội lỗi? Chúng ta có lẽ bị mù quáng chăng? Có lẽ chúng ta thiếu một sự trong sáng cơ bản nhất? Để chuẩn bị cho con đường Giáng sinh, ta có “nhận ra” điều xấu trong ta không? Và đón nhận “nhiệm tích thánh tẩy thứ hai”, nhiệm tích kỳ diệu của hòa giải không? Hay là có lẽ ta giống như người Pharisêu và Xa-đốc chăng?

Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa. ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia. ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa kết quả đế chứng tỏ lòng sáng hối “. Đấng tưởng có thế bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham”. Vì tôi nói cho các anh hay, “Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham”.

Khi có một điều gì hoàn toàn mới đang bắt đầu đối với tất cả những người sáng suốt, thì một số người nào đó lại không “động đậy”, dù một cách lầm lẫn, bọ đã trấn an mình bằng những điều chắc chắn: nhưng cứ xem kìa, chính họ, chẳng có gì thay đổi nơi họ, họ thuộc “chủng người được tuyển chọn”.

Họ tưởng là mình tự do. Họ không nhận thức được rằng họ chịu ảnh hưởng của “một người khác”. Một người bí nhiệm chống lại dự tính về Nước Thiên Chúa trên họ: Một người “không được nhận dạng”. “Ai” đã chứng minh cho bạn cách thoát khỏi Thiên Chúa? Kẻ đối phương là người không lộ mặt đối mặt, nhưng hành động không cho ai biết. Gioan Tẩy Giả đã lột mặt nạ của hắn: chính là Con Rắn tứ thời Eva, đã xúi đàn ông và đàn bà cứ ăn trái cấm không có gì liều lĩnh đâu; và đã biến đổi một cách tinh ma tất cả những người nghe nó thành “nòi rắn” (St 3,15), thành “nòi rắn độc” (Mt 3,7). Không “trở lại”, thì chính là thần phục “nòi kia”.

Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa.

Khẩn cấp! Khẩn cấp! Ta hãy mau lên!

Chỉ nữa giây, lưỡi dao sắc bén của cây rìu sẽ làm cho cây đổ máu và hạ nó xuống, để quăng vào lửa, cái cây vô ích kia không sinh hoa trái. Và chúng ta hé thấy số phận của “cây vả không sinh sản” trên đường Giêrusalem, hai năm sau (Mt 21,18). Lạy Chúa, xin giúp con sản sinh được những quả “tốt”.

Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và Lửa.

“Người ngự đến... còn mạnh mẽ hơn” (x. Mc 1,7; Lc 3,16). ở nơi Gioan Tẩy Giả, người cuối cùng trong các ngôn sứ, đấy không phải là một tuyên ngôn khiêm tốn: Tôi không đáng là đầy tớ của Người; chính là một tuyên ngôn đức tin: “Người ngự đến, đó là một linh thể” đó là Vua của Nước Thiên Chúa, đó là phán quan thời thế mạt, đã mặc lấy cơn lôi đình của Thiên Chúa chống lại cái ác.

Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu và kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.

Những hình ảnh Kinh Thánh truyền thống để chỉ về Ngày Phán xét! Cuộc phán xét chỉ dành cho một mình Thiên Chúa! Và tất cả bối cảnh của truyện kể buộc chúng ta phải nhận diện. “Người” ngự đến là chính Đức Giêsu! Tuyên ngôn thuộc lãnh vực thần học. Sân rê lúa là nơi phân biệt hẳn ‘lúa mì’ và ‘trấu'. Một thứ thì đem vào lẫm, còn thứ kia chỉ đáng bỏ vào lửa. Xấu và Tốt không thể đánh đồng với nhau. Ai có dị ứng khi “xưng thú tội lỗi mình”, nếu người đó nhận thức ra, hắn sẽ đắn đo khi phải nhận các trọng lượng nhẹ nhõm của cái vỏ trấu phù du, thay vì làm “lúa mì”.

 

68.Chú giải của Fiches Dominicales

HÃY DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI.

1. Nước trời đã gần đến.

Chính dưới ánh sáng của Đấng Phục Sinh sẽ đến trong ngày quang lâm mà ta khai mạc mùa Vọng này. Cũng chính dưới ánh sáng ấy, với thánh Matthêu, ta cùng đến vào thời đầu sứ vụ của Gioan Tẩy Giả. Một câu nói đủ gợi lên sự nhập vai của Gioan: “Vào những ngày ấy, Gioan xuất hiện, loan báo trong hoang địa rằng: Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần” Vào lúc ấy một công thức báo trước một giai đoạn mới. Một bắt đầu mới. “... Gioan xuất hiện”

+ Sự bắt đầu mới này loan báo việc nhập vai của Gioan, giới thiệu sự xuất hiện của Đức Giêsu, trong câu 3,13: “Bấy giờ, Đức Giêsu đến từ Galilêa, xuất hiện bên bờ sông Giôđan”.

+ Ở đây, Gioan nhận lấy biệt danh: Tẩy Giả (người làm phép rửa), danh hiệu xếp ông vào vòng ảnh hưởng những nhóm tu sĩ thực hành nghi thức làm phép rửa, vào thời Đức Giêsu; một nghi thức mà các Kitô hữu sẽ du nhập. Và có thể đó là dấu vết của sự căng thẳng liên lỉ, mãi cho tới thời thánh Matthêu, giữa một số môn đồ của Gioan Tẩy Giả và cộng đoàn các môn đệ Đức Gìêsu?

+ Ông loan báo trong hoang địa xứ Giuđê.

Trong ký ức tập thể của dân Israel, hoang địa là nơi thử thách, nhưng cũng là nơi tình nghĩa cha con của Thiên Chúa, và là nơi của mọi khởi đầu. Chỉ cần gợi lại bốn mươi năm vượt qua sa mạc, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của tiên tri cha trên đường về nơi Herob, bốn mươi ngày bốn mươi đêm của Đức Giêsu nơi hoang địa, bắt đầu sứ vụ của Ngài.

+ Ông loan báo điều gì? “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Thiên Chúa đã gần đến. Trọng tâm của lời giảng của Gioan Tẩy Giả, trong Phúc âm Matthêu, cũng sẽ là trọng tâm của lời công bố của Chúa Giêsu (Mt 4,l7), cũng như sẽ là trọng tâm lời rao giảng của Giáo Hội, theo Tông đồ Công vụ 10,7. Điều Gioan loan báo đã là Phúc âm rồi: Phúc âm của Đức Kitô, Phúc âm của Giáo Hội Ngài. Từ nay, theo sự hướng dẫn của Matthêu, chúng ta có thể hiểu con người của hoang địa này hơn, ngài vừa nhập vai mở màn cho một đoạn mới của lịch sử ơn cứu độ

+ Vấn đề một tiên tri mà sứ mạng làm trọn lời tiên báo của Isaia 40: trong sa mạc có tiếng kêu: Hãy dọn đường Chúa, hãy săn phẳng lối Ngài”.

Cl. Tassin chú giải: “Ngày xưa, Isracl sinh ra từ hoang địa trong cuộc xuất Hành, rồi từ chuyến trở về từ nơi lưu đày. Ngày nay, phải tái sinh nhờ lắng nghe lời tiên tri, và phải dọn đường Chúa đến. Chính Đức Giêsu sẽ làm gương qua việc Ngài chịu phép rửa và thời gian ở trong hoang địa”

+ “Y phục ngài bằng lông lạc đà, nghệ thuật làm tượng thường trình bày như thế, có thể là rất lạ lùng đối với chứng ta ngày nay. Vào thời đó, nó có giá trị biểu tượng rất lớn, bởi vì nó gợi nhớ y phục của Elia (xem sách Các Vua, quyển thứ hai 1,8), mà theo truyền thống Do Thái, sự trở lại phải mở đầu cho chính Đấng Cứu Thế đến (xem Mt 11,4).

+ Còn sự toả lan ra của lời giảng của ngài, thì cũng giống như của Đức Giêsu trong câu 4,23-25, “Giêrusalem, tất cả xứ Giuđêa và khắp miền sông Giođan”. Theo lời kêu gọi của tiên tri trong sa mạc, một dân tộc tội lỗi sẽ đến dìm mình trong dòng nước mà ngày xưa họ đã vượt qua để vào Đất Hứa: “Họ để ông làm phép rửa trong sông Giôđan khi nhìn nhận tội lỗi họ. Đó là một khởi đầu mới, một sự sinh thành mới được chuẩn bị kỹ lưỡng. Jean Perron kết luận trong “Lire la Bible”, số 52, trang 14-15: “Thu tóm trong chính mình tất cả những tiên tri từ thời Elia, Đấng tiền hô rõ ràng lời tiên tri sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo; kết thúc tiên tri và mở đầu Phúc âm, ngài là bản lề nối kết Cựu ước và Tân ước”.

2. Sự cấp bách trở về.

Sau khi đưa ra một cái nhìn tổng quát về những đám đông tuốn đến sông Giođan, tác giả Phúc âm kể ra những loại người đặc biệt: “Những người biệt phái và những người Sađuceo” đến “chịu phép rửa” rất đông?

+ Xuất thân từ giới bình dân, danh xưng biệt phái (Pharisêu) chỉ “những người tách biệt”, “những người tinh sạch”, họ rất lo lắng đến sự tinh sạch và tuân theo lề luật đó cũng là một khuynh hướng nệ luật triệt để và nẹ hình thức tôn giáo.

+ Xuất thân từ giới thượng lưu và tư tế, những người thuộc phái Saduceo, đồng minh với trật tự đã được thiết lập, chấp nhận sự có mặt của người Roma, khác với những người biệt phái, nỗi tiếng bảo thủ trong vấn đề tôn giáo. Tuy hoàn toàn đối lập họ với nhau, hai nhóm tôn giáo này cùng có mặt ở đây, cùng đi về sông Giođan theo lời kêu gọi của Gioan, cũng như chẳng bao lâu sau, họ sẽ cùng liên kết với nhau để bắt bẻ Đức Giêsu Nagiarét. Vị tiên tri của sa mạc không nể nang họ. Vừa nhìn thấy họ, ông đã mạt sát: “Hỡi loài rắn độc” nghĩa là: “những môi miệng chỉ tuôn ra những lời độc địa”, ai đã chỉ dạy cho các ngươi tránh khỏi cơn thịnh nộ sắp tới?”. Liệu những con người độc địa, túi tiết ra nọc độc có thể thoát khỏi sự phán xét sắp tới của Thiên Chúa không? Lời nói nghiêm khắc nhắm vào họ tựu trung ở hai điểm, bằng một lời đe doạ tương tự như nhau: ở câu 10, “cái rìu đã ở kề gốc cây”, và ở câu 12, “tay Người cầm nia”.

+ Điểm thứ nhất là một lời khuyến khích “sinh hoa kết quả”, một hoa trái diễn tả sự trở về của các anh”. Kêu nài đến Abraham cũng không ích lợi gì cả. “Con cái đích thực của Abraham” không phải là những người nói hay nghĩ những điều đúng đắn về Thiên Chúa, mà là những người sống theo ý Thiên Chúa. Cl. Tassin chú giải: “Như thế, trái ngược với một phép rửa cứu thoát một cách tự động, Gioan đòi phải có một sự trở lại thục sự (OC. trang 40).

+ Sau cùng, trong điểm thứ hai, Gioan trình bày phép rửa “trong nước dẫn đến sự trở lại” như để chuẩn bị cho một phép rửa khác, một phép rửa “trong Thánh Thần và lửa”. Bởi vì kẻ “đến sau ông (một từ ngữ chỉ môn đệ), thực ra lại “mạnh mẽ” hơn ông. Đến độ Gioan nhìn nhận rằng mình “không xứng đáng cởi dây giày cho Ngài”, là nhiệm vụ dành riêng cho người nô lệ. Gioan Tẩy Giả đã khiêm nhường tự xoá mình đi trước Đấng mà ông đâ nhận nhiệm vụ dọn đường.

BÀI ĐỌC THÊM

1. Không thể có Phúc Âm hóa mà không có sự trở lại.

“Gioan chất vấn bằng lời nói, nhưng cũng bằng cách sống của ông: hoang địa, y phục, lương thực... Chính cuộc sống của ông đặt vấn đề và lôi cuốn. Sau này, Đức Giêsu nhắc lại điều đó: “Các ông nhìn thấy gì nơi hoang địa. Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy thì các ông thấy gì? Một người ăn mặc lịch sự sang trọng ư? Nhưng những người ăn mặc lịch sự sang trọng thì ở trong cung điện nhà vua” (11,7-8). Tiên tri là người đầu tiên phải trở lại. Trước khi loan báo Nước Trời cho người khác, chính ông phải sẵn sàng đón tiếp Nước ấy. Không thể nào loan báo cho người khác nếu chính mình không hồi tâm trở lại, bởi vì đó không phải chỉ đơn thuần là chuyển giao một kiến thức. Thông tin về Nước Trời chỉ có thể được tiếp nhận bởi người nào chấp nhận biến đổi đời mình: Hãy ăn năn thống hối Nước Trời đã gần đến. Không ăn năn trở lại, thì Nước Trời vẫn ở ngoài cửa mà thôi. Chúng ta cần nghe lại sứ điệp của Gioan Tẩy Giả. Trong một thế giới mà việc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa là nước không được nhận biết, không được chấp nhận, thì không được quên rằng, sẽ không được Phúc âm hoá nếu không có sự ăn năn trở lại của người loan báo, cũng như của người lắng nghe Phúc âm. Chúng ta luôn luôn phải chạm trán với sự không tin hay với sự thờ ơ? dửng dưng. Chúng thách thức ta phải kiểm điểm lại sự trung thành với Phúc âm, trình bày Phúc âm không phai là một giáo huấn đơn thuần cho trí hiểu nhưng là một lời mời gọi biến đổi đời mình. Bởi vì Phúc âm là sức mạnh đổi mới, hướng dẫn đời sống một cách khác. Phúc âm khơi gợi một sự ý thức về tội lỗi một ý chí muốn thay đổi cuộc sống. Đó là ý nghĩa của phép rửa của Gioan: trong khi xưng thú tội lỗi, họ để ông làm phép rửa trong sông Giođan”.

2. Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận.

Gioan không rào trước đón sau, mắng nhiếc thậm tệ những người đến với ông. Chúng ta có thể nghĩ rằng những người đến với ông đều tỏ ra thiện chí. Bởi vì họ đã bước xuống nước sông Giođan. Bởi vì họ đã dầm mình xuống dòng sông thanh tẩy. Nhưng không đúng thế.

Nghi thức tự nó không đủ. Chính con tim và cách sống mới can hệ. Và khi Thiên Chúa đến thì sẽ là phép rửa bằng lửa: một ngọn lửa tinh luyện và đức rèn. Một ngọn lửa thiêu đốt thế giới. Một ngọn lửa cháy lên huy hoàng vinh quang. Chúng ta thấy đó: không phải là vấn đề giả bộ. Với Thiên Chúa, chúng ta không thể gian lận. Và nhất là, nếu chúng ta để Thiên Chúa hành động thì Ngài sẽ cho thực hiện các phép lạ. Các bạn sẽ sản xuất ra nhiều hoa trái một cách dồi dào phong phú, các kho lẫm trên trời se đầy tràn chan chứa. Nhưng trước tiên, các bạn hãy ăn năn trở lại! Hãy từ bỏ sự tự mãn! Hãy để Thiên Chúa tràn ngập các bạn và đốt lửa lên trong lòng các bạn! Các bạn hãy thành thật đi! Đừng tìm cách đánh lừa, Thiên Chúa, hãy từ bỏ sự bảo đảm dựa trên các tập quán để mở rộng con tim các bạn đón nhận những cái mới căn bản của Nước Trời!

 

69.Chú giải của William Barclay

SỰ XUẤT HIỆN CỦA GIOAN TẨY GIẢ: 3,1-6

Sự xuất hiện của Gioan giống như tiếng nói của Thiên Chúa thình lình vang lên. Lúc bấy giờ người Do Thái buồn bã vì tiếng nói của các ngôn sứ không còn nữa. Trải qua bốn trăm năm không hề có ngôn sứ nào, suốt bốn thế kỷ dài đằng đẵng tiếng nói ngôn sứ hoàn toàn yên lặng. Như chính họ đã ghi nhận “không có tiếng nói, cũng chẳng có tiếng đáp”. Nhưng trong Gioan, tiếng nói ngôn sứ lại đang vang lên. Vậy đặc điểm của Gioan và sứ điệp của ông là gì?

1. Ông mạnh dạn tố cáo bất cứ tội ác nào ông biết. Khi vua Hêrôđê phạm tội trong một cuộc hôn nhân xấu xa và bất hợp pháp, Gioan quở trách ngay. Khi những người Xađốc và Pharisêu, các thủ lãnh tôn giáo chính thống, những nhà đạo đức đương thời chìm đắm trong những nghi thức bề ngoài, Gioan đã không ngần ngại lên tiếng. Khi đám thường dân sống cuộc đời vô đạo, ông mạnh dạn cảnh cáo họ. Nơi nào Gioan thấy điều ác, trong quốc gia, trong đạo, trong dân gian, ông quở trách không chút e dè. Gioan giống như ngọn đèn soi trong nơi tối tăm, ông giống như ngọn gió từ Thiên Chúa quét sạch cả xứ. Ngày nay sự cảnh tỉnh và tố cáo vẫn còn trong sứ điệp Kitô giáo. Diogene từng nói: “Chân lý giống như ánh sáng đối với mắt đau”. Ông nói “Người nào không bao giờ làm mất lòng ai thì cũng chẳng bao giờ làm được ích gì cho ai”. Đã có những thời kỳ Hội Thánh quá cẩn thận để khỏi làm mích lòng người. Thời kỳ lịch sử dễ dãi đã qua, và thì giờ quở trách tỏ tường phải đến.

2. Ông khẩn khoản kêu gọi mọi người đến với sự công chính. Sứ điệp của Gioan không những là tố cáo tiêu cực nhưng cũng tích cực xây dựng những tiêu chuẩn đạo đức của Thiên Chúa. Ông chẳng những tố cáo người ta về những việc họ đã làm, mà còn chỉ bảo họ điều phải làm. Ông không chỉ lên án quá khứ của họ mà còn khuyến khích họ phải sống thế nào. Ông giống như tiếng kêu gọi mọi người bước lên chỗ cao hơn. Chẳng những ông quở trách điều ác, mà còn đặt ra điều thiện trước mặt mọi người. Nhiều khi Hội Thánh chỉ lo nói cho mọi người biết điều không nên làm mà không quan tâm đến việc đưa ra cho họ thấy sự cao trọng của lý tưởng Kitô giáo.

3. Gioan từ Thiên Chúa đến. Ông từ hoang địa đi ra; ông đến với người ta sau khi đã được Thiên Chúa chuẩn bị qua những năm tháng cô đơn. Như Alexander Maclaren đã nói: “Gioan như ta thấy khi nhảy vào đấu trường đã trưởng thành và võ trang đầy đủ”. Ông đến không phải với vài quan niệm của mình, nhưng với sứ điệp của Thiên Chúa. Trước khi nói với loài người, ông đã ở lâu ngày với Thiên Chúa. Người nào giảng dạy lời ngôn sứ phải luôn luôn ở cùng Thiên Chúa rồi mới có thể đứng trước mặt loài người.

4. Gioan chỉ cho người ta đi tới cái trổi vượt hơn chính ông. Gioan không chỉ là ánh sáng phơi bày điều ác, không chỉ là tiếng nói quở trách tội lỗi mà còn là bảng chỉ đường đến Thiên Chúa. Gioan không muốn loài người chiêm ngưỡng ông, mà muốn chuẩn bị họ cho Đấng sẽ đến.

Người Do Thái tin tưởng Êlia sẽ trở lại trước khi Đấng Cứu Thế đến và ông là người báo tin cho công chúng biết về vị Vua tương lai “Này ta sẽ sai ngôn sứ Êlia đến cùng các ngươi trước ngày lớn lao và đáng sợ của Thiên Chúa chưa đến” (Ml 4,5). Gioan mặc áo bằng lông lạc đà, thắt dây lưng bằng da, đây là hình ảnh chiếc áo ngôn sứ Êlia đã mặc (2V 1,8).

Matthêu liên kết Gioan với lời tiên tri trong Isaia 40,3. Trong thời cổ đại, đường xá phương Đông rất xấu. Có một châm ngôn phương Đông nói rằng: “Có ba điều khốn khổ: đau ốm, nhịn ăn và du lịch”. Một nhà du lịch sắp lên đường thường được khuyên trả tất cả nợ nần, chuẩn bị mọi sự cho vợ con, trao những quà tặng chia tay, trả lại những món đồ ký thác, lấy tiền rồi chuẩn bị cho cuộc hành trình và chào từ biệt mọi người. Quốc lộ chẳng hơn gì các lối mòn và không hề được trải đá, vì đất xứ Palestine cứng có thể chịu được sự lưu thông lừa, la và xe bò, xe ngựa. Cuộc hành trình trên một tuyến đường như thế quả là phiêu lưu, một cuộc phiêu lưu cần phải tránh. Cũng có một số ít đường trải đá, tỉ dụ như Josephus nói rằng Salômôn đã đắp một con đường cao bằng đá đen dọc theo những đường dẫn đến Giêrusalem để dễ dàng cho những người đi viếng nơi thánh và để “bày tỏ sự giàu có sang trọng của nước mình”. Tất cả những đường đá đắp bằng sức người đó do các vị vua làm chỉ đặc biệt dành cho vua sử dụng. Bởi vậy chúng được mệnh danh là “xa lộ hoàng gia”. Đường ấy chỉ được tu bổ khi vua cần dùng cho một cuộc du hành nào đó. Trước khi vua đến, dân chúng được loan báo để chuẩn bị đường cho xa giá vua đi. Gioan thật đang sửa soạn cho con đường của vua. Những người rao giảng lời ngôn sứ không nói về mình nhưng nói về Thiên Chúa.

Mục tiêu của người giảng không phải là làm cho người ta chú ý đến sự khéo léo của mình nhưng vào sự oai nghiêm của Thiên Chúa. Nhà truyền giáo chân thật là người tan biến trong sứ điệp của chính mình.

Người ta nhìn nhận Gioan là ngôn sứ dù cho sau bao nhiêu năm dài không hề vang lên tiếng nói ngôn sứ nào, vì ông là ánh sáng phơi bày sự dữ, là tiếng nói hiệu triệu con người đến sự công chính, là bảng chỉ đường để con người đến cùng Thiên Chúa, và vì ông có một uy quyền không thể giải thích được, một thứ uy quyền chỉ có sau khi đã ở lâu với Thiên Chúa.

SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN: LỜI NGĂM ĐE

Trong sứ điệp của Gioan có cả sự ngăm đe lẫn lời hứa. Cả đoạn này đầy những bức tranh linh động. Gioan gọi những Pharisêu và Xađốc là dòng dõi rắn độc và hỏi ai đã chỉ cho họ chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Có thể Gioan nói lên hai hình ảnh sau đây: Một là Gioan biết rõ hình ảnh hoang địa, có những nơi cỏ mọc ngắn thưa, khô héo với những bụi gai cằn cỗi, gầy, dòn vì thiếu hơi ẩm. Thỉnh thoảng có những đám cháy rừng, lúc ấy lửa như con sông đỏ rực tràn qua, và ngọn cỏ, bụi cây như mới bùi nhùi. Trước đám cháy, rắn rết, bọ cạp vội vã trốn chạy, cả đến những loài thường sống ẩn náu trong bụi cỏ hoặc lùm cây cũng phải bỏ nơi trú ẩn để chạy cứu mạng mình. Cũng có thể một hình ảnh khác mà Gioan dùng ở đây, có nhiều loài vật và côn trùng nhỏ trong cánh đồng bắp như chuột đồng, thỏ và chim chóc, nhưng kh người thợ gặt tới thì chúng bị đuổi khỏi tổ, khỏi hang, chúng phải chạy trốn cứu mạng khi cánh đồng bị gặt trụi… Gioan đã dựa vào những hình ảnh này để suy nghĩ. Nếu các Pharisêu và Xađốc thật tâm xin chịu phép rửa thì họ chỉ như những con thú chạy gấp để cứu mạng trước ngọn lửa hoang địa hoặc trước lưỡi hái của thợ gặt.

Gioan cảnh cáo dù họ có nại ra Ápraham là tổ phụ của họ cũng chẳng ích gì. Đối với người Do Thái chính thống, đó là một câu nói không thể chấp nhận được. Đối với người Do Thái, Ápraham thật độc đáo, độc đáo đến nỗi những công đức của người, cả về sự thiện hảo và ơn Chúa, Ápraham có đủ cho mình và còn cho cả dòng dõi ông nữa. Ápraham đã tích trữ một kho tàng công đức mà tất cả những đòi hỏi và nhu cầu của dòng dõi ông không thể dùng hết được. Vì vậy người Do Thái tin rằng, một người Do Thái tầm thường dù chẳng có công đức riêng nào cũng sẽ được an toàn trong tương lại. Họ nói “tất cả người Israel đều có phần trong thế giới sắp đến”. Họ nói về “những công đức giải phóng của tổ phụ”. Họ nói rằng Ápraham ngồi ở các cổng địa ngục để đuổi người Israel nào chẳng may bị đưa đến chốn kinh khiếp đó trở về, những công đức của Ápraham đã khiến những con tàu thuận buồm xuôi gió trên biển cả, cũng bởi công đức của Ápraham mà mưa sa trên đất. Công đức của Ápraham đã đưa Môsê lên trời để nhận luật. Bởi công đức của Ápraham mà Đavít được Chúa nhậm lời, những công đức này cũng đủ cho người gian ác nữa. Họ nói về Ápraham “nếu con cháu người chỉ là những thi hài, không có mạch máu hay xương cốt, thì công đức của người cũng có lợi cho chúng”. Gioan quở trách tinh thần ỷ lại đó. Có lẽ người Do Thái đã đưa vấn đề đi quá xa, nhưng bao giờ cũng cần cảnh cáo rằng chúng ta không thể sống trên số vốn thuộc linh trong quá khứ. Một thời đại suy đồi không thể trông mong được cứu rỗi dù đã thừa hưởng một quá khứ anh hùng. Một đứa con hư hỏng không thể hy vọng viện dẫn công đức của một người cha thánh thiện.

Một lần nữa, Gioan trở lại với hình ảnh về mùa gặt. Cuối mùa, người giữ vườn nho và vườn vả sẽ kiểm tra kết quả. Nếu chúng không có trái và vô dụng sẽ bị nhổ tận gốc, vì đã choán đất vô ích. Sự vô dụng bao giờ cũng chuốc lấy tai hoạ. Một người vô dụng đối với Thiên Chúa và đồng loại thì ở trong sự nguy hiểm trầm trọng và bị kết án.

SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN: LỜI HỨA

Sau lời ngăm đe của Gioan là lời hứa, trong đó cũng bao hàm một lời hăm doạ. Như chúng ta biết, Gioan xuất hiện để chỉ cho mọi người thấy Đấng trổi vượt hơn ông sắp đến. Lúc đó Gioan đang nổi danh và đang có ảnh hưởng rất lớn. Tuy nhiên, ông nói rằng mình không đáng xách dép cho Đấng sắp đến. Xách dép là phận sự của người nô lệ. Thái độ của Gioan là thái độ tự xoá mình đi không tự cho mình là quan trọng. Tính cách quan trọng của ông là làm bảng chỉ đường dẫn đến Đấng sắp đến. Ông nói Đấng đến sau ông sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Trong suốt cả lịch sử, người Do Thái để tâm tìm kiếm thời đại Thánh Thần sẽ đến. Êdêkien đã được nghe Thiên Chúa dạy: “Ta sẽ ban lòng mới cho cho các ngươi và đặt thần mới trong các ngươi. Ta sẽ đặt thần Ta trong các ngươi và khiến các ngươi noi theo luật lệ Ta, các ngươi sẽ giữ mệnh lệnh Ta mà làm theo” (Ed 36,26.27), “Ta sẽ đặt thần Ta trong các ngươi và các ngươi sẽ sống” (Ed 37,14). “Ta sẽ không che mặt khỏi chúng nó nữa vì Ta sẽ đổ thần Ta trên nhà Israel, Chúa dạy vậy” (Ed 39,29), “Vì Ta sẽ rót nước trên kẻ khát, cho suối chảy nơi đất khô, Ta sẽ đổ thần Ta trên dòng dõi ngươi và phước lành Ta trên những kẻ ra từ ngươi” (Is 44,3), “Trong những ngày đó, dầu những đầy tớ trai và đầy tớ gái, Ta cũng đổ thần Ta lên” (Ge 2,29). Vậy ân tứ và công việc của Thánh Thần Thiên Chúa là gì? Khi thử giải đáp câu hỏi ấy, ta nên nhớ trả lời theo nghĩa của người Do Thái. Gioan là người Do Thái và đang nói với người Do Thái, ông đang suy nghĩ và nói không theo nghĩa giáo lý Kitô giáo về Thánh Thần mà theo nghĩa giáo lý của người Do Thái.

1. Chữ “ruah” của Do Thái, cũng như chữ pneuma trong tiếng Hy Lạp, không chỉ có nghĩa là thần linh mà còn là hơi thở. Hơi thở là sự sống, bởi vậy hứa ban Thánh Thần tức là hứa ban sự sống. Khi Thánh Thần Thiên Chúa ngự vào một người thì cảnh thất bại mệt mỏi và thiếu vẻ đẹp của cuộc sống cũ sẽ qua đi để làm nổi bật sự sống mới trong người ấy.

2. Chữ ruah này chẳng những có ý nghĩa là hơi thở mà cũng có nghĩa là gió, chỉ về bão, cơn gió mạnh mà ngôn sứ đã nghe. Gió nghĩa là năng lực, gió lớn đẩy tàu đi và làm trốc gốc cây cối. Gió có một sức mạnh không gì cự địch được. Thánh Thần Chúa là Thánh Thần của năng lực, khi Thánh Thần Chúa ngự trong một người, sự yếu đuối của người ấy được mặc lấy quyền năng của Thiên Chúa. Ngài khiến người ấy làm được điều bất năng, đối diện với sự việc không thể đương đầu, chịu đựng được điều không thể chịu nổi. Sự thất bại bị loại trừ và chiến thắng đến.

3. Thánh Thần Thiên Chúa liên hệ đến việc sáng tạo. Khi Thánh Thần của Thiên Chúa vận hành trên mặt nước, cảnh hỗn mang trở thành vũ trụ, hỗn độn trở thành trật tự. Ngài tạo nên thế giới giữa đám sương mù thuở ban sơ. Thánh Thần Thiên Chúa có thể tái tạo chúng ta, Thánh Thần Chúa ngự vào một người, sự vô trật tự của bản chất con người sẽ trở thành trật tự. Tình trạng không kiểm soát được sẽ được Thánh Thần uốn nắn để ăn khớp, hoà hợp với Thiên Chúa.

4. Người Do Thái quy cho Thánh Thần những chức năng đặc biệt. Họ tin là Thánh Thần mang chân lý Thiên Chúa mặc khải cho loài người. Mỗi khám phá trong lãnh vực tư tưởng là một ơn ban của Thánh Thần cho tâm trí con người. Thánh Thần vào trong trí con người và biến phỏng đoán trở thành khẳng định, đổi sự ngu dốt của con người thành sự thông biết.

5. Thánh Thần khiến người ta nhận ra chân lý Thiên Chúa khi gặp. Khi Thánh Thần vào lòng, mắt chúng ta sẽ mở ra, những thành kiến vốn làm đui mù bị cắt bỏ, ý riêng tăm tối được loại trừ, Thánh Thần khiến con người thấy rõ.

Đó là những ân huệ của Thánh Thần mà Gioan đã thấy và là những ân huệ sẽ do Đấng sắp đến mang lại.

SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN: LỜI HỨA VÀ NGĂM ĐE

Có một chữ và một hình ảnh trong sứ điệp của Gioan chứa đựng cả lời hứa lẫn ngăm đe. Gioan nói Đấng sắp đến sẽ làm phép rửa trong lửa. Phép rửa trong lửa cho ta ba ý niệm sau đây:

1. Ý niệm về sự soi sáng: Ngọn lửa chiếu trong đêm soi sáng những xó xỉnh tối tăm. Ánh sáng hải đăng hướng dẫn người thuỷ thủ đến bờ bến an toàn. Lửa không chỉ thiêu huỷ mà còn ban ánh sáng và sự hướng dẫn. Chúa Giêsu là ánh sáng của hải đăng dẫn con người vào chân lý và đưa họ về nhà Thiên Chúa.

2. Ý niệm ấm cúng: Một người quảng đại và nhân từ được soi là người đốt lửa trong những căn phòng giá lạnh. Khi Chúa Giêsu đến với cuộc đời, Ngài đã nhen nhúm lên trong lòng con người sự ấm áp của tình yêu. Kitô giáo bao giờ cũng là tôn giáo của trái tim nồng ấm.

3. Ý niệm tẩy sạch: Trong nghĩa này, tẩy sạch bao hàm ý huỷ diệt vì ngọn lửa tinh luyện thiêu đốt sự giả dối và để lại sự chân thật. Ngọn lửa tôi luyện, làm cứng rắn và làm tinh ròng kim loại. Khi Chúa Giêsu ngự vào lòng người, cặn bã xấu xa bị tẩy trừ. Có khi đó là một kinh nghiệm đau đớn, nhưng nếu một người đã trải qua những kinh nghiệm trong đời sống mà tin rằng Thiên Chúa có thể làm cho mọi sự trở thành ích lợi, thì người ấy sẽ ra khỏi những kinh nghiệm đó với tâm tình được thanh tẩy, và với tấm lòng trong sạch. Người ấy được thấy Thiên Chúa.

Vì vậy, lửa bao gồm sự soi sáng, sự ấm áp và tinh sạch cho tấm lòng người nào có Chúa Giêsu ngự vào.

Bức tranh về sân đạp lúa củ Gioan cũng gồm cả lời hứa lẫn ngăm đe. Cái quạt để rê lúa trông giống như cái xẻng gỗ lớn để hất lúa lên cao. Thóc nặng rơi xuống trước còn trấu nhẹ bị gió lùa đi. thóc được gom vào bồ, còn trấu thì dùng để đốt.

Khi Chúa Giêsu đến thì buộc phải có sự phân rẽ. Người ta hoặc tiếp nhận Ngài hoặc chối bỏ Ngài. Đối diện với Chúa, họ đứng trước một lựa chọn không thể tránh né được. Hoặc thuận hay nghịch với Ngài. Sự lựa chọn đó định đoạt số phận con người. Con người được phân chia do phản ứng của họ đối với Chúa Giêsu.

Theo quan niệm Kitô giáo thì không ai có thể tránh việc lựa chọn số phận đời đời. Tại làng Bedford, John Bunyan đã nghe một tiếng gọi thình lình đưa ông đối diện với cõi đời đời: “Ngươi có bằng lòng từ bỏ tội lỗi để vào thiên đàng hay cứ giữ tội để xuống địa ngục?”. Phân tích cho cặn kẽ thì không ai có thể trốn tránh một lựa chọn dứt khoát cho chính mình.

SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN: HOÁN CẢI

Trong tất cả các lời giảng của Gioan, điều đòi hỏi cơ bản là: “Hoán cải” (Mt 3,2). Đó cũng là sứ điệp cơ bản của Chúa Giêsu. Ngài đã đến và truyền dạy: “Anh em hãy hoán cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Rõ ràng chúng ta cần tìm hiểu hoán cải là gì và yêu cầu cơ bản của Vua và của người dọn đường của Ngài là gì. Điều đáng chú ý là Chúa Giêsu và Gioan đều dùng chữ hoán cải mà không có lời giải thích. Cả hai đều coi chữ này như một từ chắc chắn mà người nghe sẽ biết và hiểu rõ ý nghĩa.

Chúng ta hãy xem người Do Thái dạy thế nào về hoán cải. Đối với người Do Thái, hoán cải là trọng tâm của mọi đức tin tôn giáo, mọi sự liên hệ với Thiên Chúa. G.F. Moore đã viết: “Hoán cải là điều kiện duy nhất và bất khả thay thế để được Thiên Chúa tha thứ, phục hồi ân huệ của Ngài. Sự tha thứ cùng ân huệ ấy không bao giờ phụ lòng hoán cải chân thành”, “Thiên Chúa hoàn toàn tha thứ tội lỗi của người hoán cải là lẽ đạo chủ yếu của Do Thái giáo”. Các Rápbi bảo rằng hoán cải rất là vĩ đại vì nó đem sự chữa lành đến cho thế gian. Hoán cải thật vĩ đại vì nó đạt đến vinh quang của Thiên Chúa. C.G.Montefiore đã viết: “Hoán cải là mối ràng buộc hoà giải lớn giữa Thiên Chúa và loài người”.

Luật được lập hai ngàn năm sau cuộc sáng tạo nhưng các Rápbi Do Thái dạy rằng hoán cải là một trong những điều sáng tạo trước cả luật. Có sáu điều quan trọng là: Hoán cải, thiên đàng, địa ngục, ngai vinh quang của Chúa, đền thánh trên trời và Danh của Đấng Cứu Thế. Họ nói: “Một người bắn mũi tên có thể tới vài trăm thước nhưng hoán cải tới được cả Thiên Chúa.

Câu chuyện danh tiếng sau đây của các Rápbi cho thấy hoán cải được đặt vào hàng đầu: “Ai giống như Thiên Chúa là thầy giáo dạy các tội nhân để họ hoán cải?”. Họ hỏi sự Khôn Ngoan: “Hình phạt cho tội nhân sẽ là gì?”. Khôn Ngoan đáp: “Tai hoạ đuổi theo kẻ có tội” (Cn 13,21). Hỏi ngôn sứ, ngôn sứ đáp: “Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết” (Ed 18,4). Hỏi Luật, Luật trả lời: “Người ấy phải dâng lễ vật” (Lv 1,4). Người ta hỏi Thiên Chúa và Ngài đáp: “Ngươi hãy hoán cải để được chuộc tội. Hỡi các con, điều Ta đòi hỏi nơi các con là gì? Hãy tìm kiếm Ta và được sống”. Cũng vậy, đối với người Do Thái, cổng duy nhất để trở về với Thiên Chúa là cổng hoán cải.

Chữ Do Thái Teshubah dùng chỉ hoán cải cũng rất hay. Đó là danh từ của động từ shub có nghĩa quay lại. Hoán cải là quay bỏ điều dữ và quay lại cùng Thiên Chúa, thay đổi cách ăn nết ở, cải tạo đời sống luân lý và tôn giáo của toàn dân hoặc của cá nhân. C.G.Montefiore viết: “Đối với các Rápbi, bản chất của hoán cải là ở chỗ hoàn toàn thay đổi tâm trí, từ đó đem lại sự thay đổi trong cuộc sống và trong cách cư xử”. Maimonides, một học giả Do Thái danh tiếng trong thời trung cổ định nghĩa hoán cải như sau: “Hoán cải là gì? Hoán cải là tội nhân lìa bỏ tội và khai trừ nó ra khỏi tư tưởng mình, hoàn toàn quyết định trong tâm trí sẽ không tái phạm nữa như có chép rằng: “Kẻ ác bỏ đường mình, người bất nghĩa bỏ các ý tưởng”.

Có một định nghĩa về hoán cải mà người Do Thái hoàn toàn có thể chấp nhận được trừ mấy chữ trong ngoặc đơn: “Hoán cải để được sống là một ân sủng cứu rỗi, nhờ đó tội nhân nhận biết được ý nghĩa của tội lỗi, hiểu rõ lòng thương xót của Thiên Chúa (trong Chúa Kitô) với nỗi đau buồn và chán ghét tội lỗi, thật lòng quay lại với Thiên Chúa, nỗ lực và quyết tâm vâng lời Ngài”. Nhiều lần Kinh Thánh nói về quay lưng lại tội lỗi và trở lại cùng Thiên Chúa. Êdêkien chép: “Thật như Ta hằng sống, Ta chẳng coi kẻ dữ chết làm vui, nhưng vui vì nó bỏ đường lối mình và được sống. Các ngươi hãy bỏ đường lối xấu xa của mình. Sao các ngươi muốn chết, hỡi nhà Israel?” (Ed 33,11). Giêrêmia chép: “Xin Chúa cho tôi trở lại, thì tôi sẽ được trở lại vì Chúa là Thiên Chúa tôi” (Gr 31,18). Hôsê dạy: “Hỡi Israel, hãy trở lại cùng Thiên Chúa ngươi… Các ngươi hãy lấy lời nói mà trở lại cùng Chúa” (Hs 14,1.2).

Từ những điểm kể trên, rõ ràng trong Do Thái giáo hoán cải tự nó đã có một đòi hỏi đạo đức, đó là bỏ tội lỗi mà đến cùng Thiên Chúa với một thay đổi tương xứng trong hành động. Khi Gioan đòi hỏi người nghe phải có kết quả xứng đáng với hoán cải thì đòi hỏi đó hoàn toàn nằm trong truyền thống dân tộc. Có một lời cầu nguyện thật đẹp thường được đọc trong hội đường: “Lạy Cha, xin làm cho chúng con trở lại với luật Ngài. Xin kéo chúng con đến phục vụ Ngài, hãy đem chúng con trở lại trong hoán cải hoàn toàn trước nhan Ngài. Chúng con ca ngợi Chúa, vì Ngài vui thích lòng người hoán cải”. Nhưng hoán cải đó phải được minh chứng qua nếp sống thay đổi.

Bình luận về Giôna 3,10, một Rápbi đã viết: “Hỡi anh em, Kinh Thánh không chép Thiên Chúa thấy bao gai và sự kiêng ăn của người Ninivê, nhưng Ngài thấy việc làm của họ và từ bỏ con đường gian ác”. Các Rápbi nói: “Đừng như kẻ ngu dại khi phạm tội thì dâng lễ vật mà không hoán cải. Nếu có người nói rằng: Tôi cứ phạm tội rồi hoán cải, thì người ấy không còn được phép hoán cải nữa”. Người ta liệt kê năm hạng tội nhân không được tha thứ, trong đó có “những người phạm tội để hoán cải và những người vừa mới hoán cải xong lại tái phạm”. Họ nói: “Một người cầm một vật ô uế trong tay, thì dù có rửa tay bằng nước của cả đại dương tay vẫn không sạch, nhưng ném vật dơ bẩn đó thì chỉ một chút nước là xong”. Các giáo sư Do Thái thường nói về “chín quy tắc hoán cải” tức là chín điều cần thiết cho hoán cải thật. Chín điều này viết trong Isaia 1,16-17 “Hãy rửa, hãy làm cho sạch. Hãy tránh những việc ác khỏi mặt Ta, đừng làm dữ nữa, hãy học làm lành, tìm kiếm sự công bình, hãy đỡ đần kẻ bị hà hiếp, và kẻ mồ côi, bênh vực người goá bụa”.

Con trai Sirach viết trong sách nguỵ kinh Ecclesiasticus (Huấn ca): “Đừng nói tôi đã phạm tội, có việc gì xảy đến cho tôi đâu?”. Vì Chúa là Đấng khoan nhân. Đừng dại dột tin vào của lễ chuộc tội để rồi cứ tiếp tục thêm tội vào tội, và đừng nói Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài sẽ tha thứ vô số tội lỗi tôi “vì Ngài là Thiên Chúa của tình thương lẫn của thịnh nộ; Ngài sẽ giáng thịnh nộ trên kẻ phạm tội. Đừng trì hoãn việc trở lại cùng Chúa và đừng chần chừ ngày này qua ngày khác” (Hc 5,4-7). Người viết tiếp: “Một người đụng đến xác chết bị ô uế đi tắm để được tinh sạch nhưng lại rờ đến xác chết ấy nữa thì tắm rửa có ích gì? Cũng vậy một người kiêng ăn vì đã phạm tội nhưng lại tái phạm thì ai sẽ nghe lời cầu xin của người ấy? Kiêng ăn hãm mình của người đó có ích gì?” (Hc 34,25-26).

Người Do Thái chủ trương hoán cải thật không chỉ biểu hiện bằng một cảm xúc buồn thảm mà còn phải thật sự thay đổi đời sống. Đây cũng là quan niệm của Kitô giáo. Người Do Thái chủ trương kết quả chứng minh cho hoán cải thật. Kitô hữu cũng thế. Người Do Thái còn nhiều điều khác nói về hoán cải và chúng ta phải tiếp tục tìm hiểu.

SỨ ĐIỆP CỦA GIOAN: HOÁN CẢI

Có điểm đáng sợ trong đòi hỏi đạo đức về hoán cải của người Do Thái, nhưng đồng thời cũng có nhiều điều khích lệ.

Lúc nào cũng có cơ hội để hoán cải. Họ nói: “Hoán cải giống như biển cả muốn tắm lúc nào cũng được”. Có những khi cánh cổng cầu nguyện đóng chặt, nhưng các cổng hoán cải thì không bao giờ đóng, cũng không ai đóng được.

Hoán cải hoàn toàn cần thiết. Người ta kể một câu chuyện Ápraham tranh luận với Chúa, ông thưa với Chúa rằng: “Cùng một lúc Chúa không thể nắm hai đầu dây. Nếu Chúa đòi hỏi sự công chính tuyệt đối thì thế gian không chịu nổi, nếu Chúa muốn bảo toàn thế gian thì lại không thể duy trì sự công chính tuyệt đối”. Nếu không có lòng thương xót của Chúa và hoán cải, thế gian không thể tiếp tục tồn tại. Nếu không có gì khác ngoài sự công chính của Chúa thì mọi người và mọi vật không thể tồn tại. Hoán cải rất cần thiết để Chúa bãi bỏ đòi hỏi của Ngài: “Hoán cải trước mặt Chúa thật đáng quý, vì Ngài đã bãi bỏ chính lời Ngài vì hoán cải”. Lời ngăm đe huỷ diệt tội nhân bị bãi bỏ vì Chúa chấp nhận hoán cải của tội nhân.

Hoán cải kéo dài suốt đời. Chừng nào còn sự sống thì còn có thể hoán cải. “Bàn tay Chúa đưa ra để giựt người hoán cải ra khỏi điều công chính đòi hỏi”. Rápbi Simeon ben Yohai nói: “Một người suốt đời công chính nhưng cuối cùng phản loạn, là đã phá huỷ hết vì có lời chép: Sự công chính sẽ không cứu được nó trong ngày nó phạm tội” (Ed 33,12). Nhưng nếu có một người cả đời sống gian ác, đến cuối cùng lại hoán cải, thì Chúa vẫn tiếp nhận người ấy vì có lời chép: “Sự dữ của kẻ dữ không làm cho nó sa ngã vào ngày nó từ bỏ sự dữ ấy” (Ed 33,12). Họ nói: “Nhiều người, phải sau nhiều năm mới vào được thiên đàng trong khi người khác chỉ trong một giờ”. Một thi sĩ nói về một người tìm ơn thương xót của Thiên Chúa trong giờ phút lâm chung: “Trong khoảnh khắc còn lại của cuộc đời, tôi tìm kiếm ơn thương xót của Chúa và tôi đã gặp”.

Lòng thương xót của Thiên Chúa cao cả đến nỗi Ngài chấp nhận cả hoán cải kín đáo nữa. Rápbi Eleazar nói: “Đây là cách của thế gian, một người công khai nhục mạ đồng bào, sau một thời gian lại tìm đến làm hoà thì người kia sẽ nói: “Anh đã nhục mạ tôi công khai bây giờ lại chỉ muốn làm hoà giữa hai người thôi sao? Không được, hãy đem những người chứng kiến sự nhục mạ của anh đến đây, trước mắt họ, tôi sẽ giảng hoà với anh…” Nhưng Chúa không như thế, đối với người nhạo báng, xúc phạm Chúa ngay giữa chợ, Chúa vẫn dạy: “Hãy hoán cải giữa hai ta, ta sẽ tiếp nhận ngươi”. Lòng thương xót của Chúa vẫn dành cho người hổ thẹn đến nỗi không dám nói điều xấu hổ với ai trừ Chúa.

Thiên Chúa không có sự quên lãng vì Ngài là Thiên Chúa, nhưng lòng thương xót của Ngài lớn lao đến nỗi không những Ngài tha thứ mà còn quên tất cả tội của người hoán cải nữa. “Thần Minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu đựng lỗi lầm, Đấng bỏ qua tội ác cho phần còn sót lại của cơ nghiệp Ngài?” (Mk 7,18), “Chúa đã tha gian ác cho dân Chúa và khoả lấp mọi tội lỗi của họ” (Tv 85,2). Tha thứ thì loài người có thể làm được, nhưng quên, bỏ thì chỉ có Thiên Chúa.

Điều đẹp hơn hết là Chúa đã đi hơn phân nửa đường để đến gặp tội nhân hoán cải. “Hãy trở lại theo khả năng của con, đi được bao xa thì đi, còn Ta, Ta sẽ đến với con, đi phần còn lại của quãng đường”. Sâu sắc lắm thì các Rápbi cũng chỉ thoáng thấy được tình yêu của cha khi người cha chạy ra đón đứa con hoang đàng trở về. Tuy nhiên dầu nhớ hết sự thương xót này của Chúa, trong hoán cải thật vẫn còn có sự bồi hoàn, sửa chữa trong phạm vi khả năng. Các Rápbi nói: “sự thiệt hại phải được đền bồi, thì ơn khoan dung và tha thứ sẽ đến”. “Người hoán cải thật là người có dịp để phạm cùng một tội lần nữa trong cùng một trường hợp mà không làm”. Các Rápbi nhấn mạnh luôn về tầm quan trọng của mối tương quan nhân loại và việc cần sửa chữa cho mối tương quan đó tốt đẹp. Có một đoạn sách giáo huấn nói: “Người nào tốt với trời và với anh em mình là một zadik tốt (zadik nghĩa là một người công chính”. Người nào tốt với trời mà không tốt với anh em là một zadik xấu. Người nào gian ác với trời và gian ác đối với anh em là một tội nhân tệ hại. Người nào gian ác với trời mà không gian ác đối với người anh em thì là tội nhân không tệ hại”. Sự sửa chữa bồi hoàn cà cần thiết nên ai xúi dạy người ấy phạm tội là tội nhân xấu xa nhất, tệ hại nhất, vì đó là việc không thể sửa chữa bồi hoàn được, bởi người ấy không thể lường được hậu quả và ảnh hưởng của tội lỗi mình. Chẳng những sửa chữa cần thiết cho hoán cải thật mà xưng tội cũng vậy. Đòi hỏi này được nhắc đi nhắc lại trong Kinh Thánh “Khi một người nam hay một người nữ phạm một trong những tội mà người ta thường phạm, thì người ấy phải xưng tội của mình ra” (Ds 5,6.7). “Người nào giấu tội lỗi của mình sẽ không được may mắn, nhưng ai xưng nó ra và lìa bỏ nó sẽ được thương xót” (Cn 28,13), “Tôi đã thú tội cùng Chúa, không giấu điều gian ác của tôi. Tôi nói: Tôi sẽ xưng các lỗi phạm của tôi cùng Chúa, còn Chúa tha tội ác tôi” (Tv 32,5), “Người nào nói mình vô tội và chối không nhận mình đã phạm tội thì bị lên án” (Gr 2,35). Maimonides đưa ra một lời xưng tội mẫu để người ta dùng khi xưng tội: “Lạy Chúa, con đã phạm tội, con đã làm điều gian ác, con đã phạm lỗi trước mặt Ngài và đã làm những việc này. Con hối tiếc về việc làm của con. Từ nay con sẽ không bao giờ tái phạm”. Hoán cải thật cần hạ mình để thừa nhận và xưng tội lỗi ra. Không có trường hợp nào là vô vọng đối với hoán cải, cũng không người nào không thể hoán cải. Các Rápbi khuyên: “Đừng ai nói tôi đã phạm và vậy là vô phương cứu vãn”, nhưng hãy tin cậy Chúa và hoán cải thì Ngài sẽ tiếp nhận. Có một trường hợp dường như không thể cải tạo được là Mơnase. Ông thờ ngẫu tượng Baan, ông đem các thần lạ vào Giêrusalem, thậm chí đem các con trẻ dâng cho Môlóc tại thung lũng Hinôm. Khi bị lưu đày qua Assyria trong gông cùm và nằm trên gai, ông cầu nguyện cùng Chúa trong cơn khốn khó và Ngài đã nghe lời cầu khẩn của ông đưa ông trở lại Giêrusalem. Khi ấy Mơnase mới nhận thức Chúa là Thiên Chúa (2Sb 33,13). Đôi khi Chúa phải dùng sự ngăm đe và kỷ luật để đem một người trở về và không có trường hợp nào vượt quá khả năng của Chúa đến nỗi Ngài không thể đem về được.

Còn một những gì cuối của người Do Thái về hoán cải và chắc đó là Gioan liên tưởng tới. Ít nhất cũng có một vài giáo sư Do Thái dạy rằng: Nếu Israel thật sự ăn năn hoàn toàn dù chỉ trong một ngày thì Đấng Mêsia sẽ đến. Chỉ tại lòng người cứng cỏi khiến cho việc sai phái Đấng Cứu Chuộc xuống thế gian phải trì hoãn lại.

Hoán cải chính là trọng tâm của đức tin Do Thái mà cũng chính là trọng tâm của đức tin Kitô hữu vì hoán cải là quay lưng lại với tội lỗi để đến với Chúa, với cuộc đời Ngài muốn chúng ta sống.

 

70.Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này nêu bật hai viễn cảnh thời Mê-si-a: viễn cảnh xa là sấm ngôn của I-sai-a vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, và viễn cảnh gần là lời loan báo của thánh Gioan Tẩy Giả vào thời Đức Giê-su. Hai viễn cảnh này sẽ được thực hiện ở nơi Chúa Ki-tô và bởi Chúa Ki-tô, như thánh Phao-lô giúp chúng ta hiểu điều này.

Is 11: 1-10

Ngôn sứ I-sai-a tiên báo rằng một vị vua công chính, thuộc dòng dõi Đa-vít, sẽ đến trong tương lai. Ngài sẽ quan tâm đến những người khiêm hạ, sẽ làm cho sự công chính hoàn hảo ngự trị và sẽ thực hiện sự hòa giải giữa muôn loài thọ tạo.

Rm 15: 4-9

Thánh Phao-lô mời gọi những người tín hữu Rô-ma phải nên tâm đầu ý hợp với nhau, theo tinh thần Chúa Ki-tô, Đấng đã hiệp nhất và hòa giải người Ki-tô hữu gốc Do thái với người Ki-tô hữu gốc lương dân; người đầu tiên là con cái của Lời Hứa, người thứ hai, con cái của Lòng Xót Thương.

Mt 3: 1-12

Thánh Gioan Tẩy Giả loan báo một biến cố được chờ mong và chuẩn bị trong suốt nhiều thế kỷ: Đấng đến, Ngài sẽ tuyển lựa giữa thóc mẩy được đưa vào kho và thóc lép bị thiêu đốt. Không có lối thoát nào có thể ngoài tấm lòng hoán cải, đó là điều kiện tất yếu.

BÀI ĐỌC I (Is 11: 1-10)

Bản văn này là một trong ba sấm ngôn về Đấng Mê-si-a được gặp thấy ở đầu sách I-sai-a, thuộc các chương 7, 9 và 11. Trong Năm Phụng Vụ Năm A này, chúng ta sẽ đọc cả ba sấm ngôn này, vào Chúa Nhật II Mùa Vọng này, vào Chúa Nhật IV Mùa Vọng và vào ngày lễ Giáng Sinh.

Cả ba sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đều nêu bật “Đấng Mê-si-a vương đế”, vì chúng được định vị vào trong sự nối dài của sấm ngôn Na-than cho vua Đa-vít: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi… Nhà của ngươi và vương quyền của ngươi sẽ tồn tại mãi mãi trước mặt Ta; ngai vàng của ngươi sẽ vững bền mãi mãi” (2Sm 7: 12-16). Vì thế, cả ba sấm ngôn này đều hướng đến cuộc sinh hạ của một con trẻ thuộc hoàng tộc Đa-vít, mà tên của con trẻ này là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Is 7: 14-17). Con trẻ này sẽ giải thoát dân Thiên Chúa khỏi cảnh đời tối tăm và áp bức (Is 9: 1-6), sẽ thiết lập triều đại công minh chính trực và kiến tạo một nền hòa bình viên mãn (Is 11: 1-9).

Cả ba sấm ngôn này được công bố cho dân thành Giê-ru-sa-lem vào hậu bán thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên. Đối với toàn dân Ít-ra-en, đây là thời kỳ bi thảm: đế quốc Át-sua đang bành trướng thế lực, bắt triều cống và cuối cùng tiêu diệt vương quốc miền Bắc vào năm 721 trước Công Nguyên. Vương quốc miền Nam cũng không thể tránh khỏi, phải chịu số phận chư hầu và nhận biết những đột biến đầy bi thảm.

Bản văn chúng ta đọc vào Chúa Nhật này là sấm ngôn thứ ba trong ba sấm ngôn này; niên biểu của nó thật khó xác định; chắc chắn phải đặt nó vào một trong những giờ phút lịch sử nghiêm trọng này (có thể vào cuối thế kỷ thứ tám khi vua Xan-khê-ríp, vua Át-sua, xâm lăng và bao vây thành đô Giê-ru-sa-lem?). Dù hoàn cảnh lịch sử có nghiêm trọng đến mấy đi nữa, sấm ngôn này là bài ca tràn đầy niềm hy vọng.

1. Một niềm hy vọng lớn lao

“Từ gốc tổ Gie-sê, sẽ đâm ra một nhánh nhỏ,

từ cội rễ ấy, sẽ mọc lên một mầm non”.

Hình ảnh này chắc chắn gợi lên tình trạng bi thương của vương tộc Đa-vít được ví như một cây bị chặt cả thân lẫn cành chỉ còn trơ trọi một gốc cây; nhưng vương tộc này sẽ hồi sinh, như gốc rễ mà người ta tưởng là đã chết lại đâm chồi nẩy lộc. Trong sấm ngôn, vị ngôn sứ tránh nêu tên Đa-vít, thậm chí cả tước hiệu vương đế nữa; ông chỉ kể một tên duy nhất: Gie-sê.

2. Gốc tổ Gie-sê

Việc không nêu tên Đa-vít có thể xem ra khác thường. Nhưng nếu khảo sát Kinh Thánh, chúng ta nhận ra rằng ông Gie-sê luôn luôn được gọi là “người Bê-lem”, trong khi vua Đa-vít gắn liền tên tuổi mình vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Về phương diện lịch sử, ông Gie-sê vẫn là một nông dân khiêm tốn của làng Bê-lem. Có thể qua cách phác họa đạm bạc này, vị ngôn sứ có một linh cảm: hậu duệ tương lai của ông Gie-sê sẽ là một con trẻ Bê-lem khiêm tốn.

3. Thánh Thần xức dầu tấn phong

“Thần Khí Chúa sẽ ngự trên vị này”. Những ân huệ của Chúa Thánh Thần được liệt kê từng cặp, theo kiểu văn chương Do thái:

– thần khí khôn ngoan và minh mẫn,

– thần khí mưu lược và dũng mãnh,

– thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.

Như vậy tổng cộng là sáu ân huệ. Bản Bảy Mươi, bản dịch Hy lạp, đã thêm vào “lòng xót thương” để cho có bảy ân huệ, bởi vì con số bảy là con số chỉ sự viên mãn. Đây là nguồn gốc bảy ơn Chúa Thánh Thần của chúng ta.

Việc nhấn mạnh đến những ân huệ phong phú và thường hằng của Chúa Thánh Thần thật đáng chú ý. Nhân vật thuộc hậu duệ Gie-sê sẽ lãnh nhận ơn phù trợ, không phải tùy dịp, nhưng thường hằng. Chúng ta biết rằng Đấng mà Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong này bắt nguồn từ chữ Hy bá “Mê-si-a”, được dịch sang Hy ngữ “Christos” và được phiên âm sang tiếng Việt là “Ki-tô” nghĩa là “Đấng được xức dầu” phong vương.

4. Triều đại của vua công chính

“Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài,

cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói,

nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng,

và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở”.

Chân dung của vị vua lý tưởng trước hết là chân dung của vị vua công chính: đức công chính của vua được thể hiện ở nơi việc bênh vực những kẻ nghèo hèn trong xứ sở, vốn là những kẻ thấp cổ bé miệng không có tiếng nói trong xã hội, những nạn nhân của những kẻ quyền cao chức trọng.

Được cai trị theo lẽ công minh, vương quốc của Ngài sẽ được hưởng một nền hòa bình chân thật và viên mãn. Những bất công xã hội mà các ngôn sứ không ngừng tố cáo và lên án sẽ không còn nữa. Sẽ không còn cảnh người bốc lột người, sẽ không còn cảnh áp bức và cấu xé lẫn nhau như lang sói, thiên hạ sẽ vui hưởng cảnh thái bình. Cảnh thái bình này được vị ngôn sứ diễn tả bằng những hình ảnh rất sống động:

“Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ.

Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau,

một cậu bé sẽ chăn dắt chúng.

Bò cái kết thân cùng gấu cái,

con của chúng nằm chung một chỗ,

sư tử cùng ăn rơm như bò.

Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục,

trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang”.

Phải chăng ở nơi bức tranh nhiều hình tượng tuyệt đẹp này chúng ta thấy chủ đề về vườn địa đàng đã mất nay được tái lập? Thực ra, đề tài này thì hiếm tại các văn sĩ kinh thánh, họ quan niệm lịch sử thánh theo chiều hướng đi lên: nhân loại tiến bước đến một trật tự mới của các tạo vật, họ hướng đến một Đấng. Cuộc trở về “thời hoàng kim” thuộc văn chương ngoại giáo, theo đó lịch sử được quan niệm như một chu trình: “hết hồi bĩ cực lại sinh thời thái lai”.

Vì thế, chắc chắn đề tài được đề cập ở nơi sấm ngôn này là đề tài Kinh Thánh, đề tài về sự liên đới của thiên nhiên với vận mệnh của con người. Chúng ta có thể trích dẫn nhiều ví dụ về đề tài này. Chẳng hạn như vào Chúa Nhật tới chúng ta sẽ đọc thấy rằng sa mạc tưng bừng nở hoa hân hoan chào đón bước chân của những người lưu đày Ba-by-lon trở về cố hương (Is 35: 1-10).

5. Sự hiểu biết về Thiên Chúa

Thiên hạ sẽ vui hưởng cảnh thái bình chân thật, bởi vì mọi người đều được hiểu biết Thiên Chúa cách sung mãn:

“Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá

trên khắp núi thánh của Ta,

vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này,

cũng như nước lấp đầy lòng biển”.

Đó là những dấu chỉ của thời đại Mê-si-a, thời mà sự hiểu biết về Thiên Chúa sẽ tràn ngập giữa con người. Đó sẽ là công trình của chồi non Gie-sê. Không có sấm ngôn nào tốt hơn sấm ngôn này về việc mặc khải Chúa Cha mà Chúa Con đem đến.

Câu cuối cùng này đã được ngôn sứ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ thời hậu lưu đày, lấy lại hầu như theo sát từng từ, và đặt vào trong viễn cảnh cánh chung:

“Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới,

không còn ai nhớ đến thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa

……

Sói với chiên con sẽ cùng ăn cỏ,

sư tử cũng ăn rơm như bò,

còn rắn sẽ lấy bụi đất làm lương thực.

Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá

trên khắp núi thánh của Ta” (Is 65: 17 và 25).

6. Cờ hiệu cho các dân tộc

“Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân.

Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người,

và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang”.

Đề tài này rất gần với chủ đề mà ngôn sứ đã khai triển ở chương 2, chương nói về thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ, thật sự lôi cuốn tâm trí của toàn thể nhân loại.

BÀI ĐỌC II (Rm 15: 4-9)

Trong đoạn trích thư gửi tín hữu Rô-ma này, thánh Phao-lô đề cập đến hai chủ đề: chủ đề thứ nhất về tầm quan trọng của Kinh Thánh trong việc nâng đỡ đức tin và đức cậy của người Ki-tô hữu và chủ đề thứ hai về lời kêu gọi hãy đồng tâm nhất trí với nhau giữa người Ki-tô hữu gốc Do thái và người Ki-tô hữu gốc lương dân.

1. Tầm quan trọng của Kinh Thánh

Ở đoạn văn trước, thánh Phao-lô đã trích dẫn Thánh Vịnh 69 mô tả những nỗi đau khổ của người công chính bị bách hại: “Lời kẻ thóa mạ Ngài, này chính con hứng chịu” 15: 3). Đây là một ví dụ tuyệt vời cho thấy một sấm ngôn đã được chứng thực ở nơi con người và sứ vụ của Đức Ki-tô. Đây cũng là dịp để thánh nhân nhấn mạnh tầm quan trọng trong việc đọc Kinh Thánh: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiễn nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy”.

Chúng ta lưu ý rằng trong thư thứ hai gửi tín hữu Cô-rin-tô, khi nói về người Do thái đọc Kinh Thánh, thánh Phao-lô viết: “Cho đến nay, khi họ đọc Cựu Ước, tấm màn ấy vẫn còn, chưa được vén lên, vì chỉ trong Đức Ki-tô, tấm màn ấy mới được vứt bỏ” (2Cr 3: 14). Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “Cựu Ước” xuất hiện trong văn chương Ki-tô giáo. Thánh Phao-lô biết Kinh Thánh rõ hơn bất cứ ai, vì trước kia khi còn là một người Do thái nhiệt thành với niềm tin của cha ông, thánh nhân đã nghiên cứu Kinh Thánh một cách cẩn trọng qua việc thụ giáo với kinh sư Ga-ma-li-en danh tiếng; bây giờ đã là môn đệ của Chúa Ki-tô, thánh nhân thích thú đọc và chiêm niệm những mầu nhiệm loan báo cuộc đời của Đức Ki-tô trong Kinh Thánh.

Lời khuyên bảo của thánh nhân cho ông Ti-mô-thê-ô, vừa là người môn đệ vừa là cộng tác viên thân tín của mình, chứng thực điều đó: “Tất cả những gì viết trong Kinh Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục để trở nên công chính. Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành” (2Tm 3: 16-17). Giờ đây, lời khuyên bảo tương tự như thế được gửi đến cho các tín hữu Rô-ma: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trong cậy”. Lời khuyên này chứng thực rằng những người Ki-tô hữu gốc lương dân đã bắt đầu học Kinh Thánh mà không cần phải học tiếng Híp-ri, vì họ đã có trong tầm tay bản Bảy Mươi, bản dịch Kinh Thánh bằng Hy ngữ.

Thật có ý nghĩa biết bao khi mà trong các sách Tin Mừng những lời trích dẫn Cựu Ước hầu như luôn luôn được trích dẫn từ bản Bảy Mươi chứ không từ bản Híp-ri. Sự kiện này ghi nhận một điều rất quan trọng theo đó, ngay từ khởi đầu Giáo Hội, những Ki-tô hữu gốc lương dân đã được Lời Chúa quy tụ và hiệp nhất với nhau nhờ bản Bảy Mươi, bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Hy-lạp. Hiện nay cũng thế, các Ki-tô hữu thuộc mọi dân mọi nước trên thế giới được quy tụ và hiệp nhất với nhau nhờ các bản dịch Kinh Thánh sang tiếng mẹ đẻ của mình. Bởi lẽ, đối với mỗi người Ki-tô hữu, trước tiên, Kinh Thánh chính là Lời Thiên Chúa và trên tất cả là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể. Thứ nữa, khi đọc Kinh Thánh, họ ý thức với một niềm xác tín sâu xa rằng không đơn thuần đọc lại những lời nói và những hành động của Thiên Chúa trong quá khứ mà cốt yếu là nhận ra rằng vị Thiên Chúa, Đấng đã phán: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, vẫn tiếp tục nói và hành động trong Giáo Hội và trong cuộc đời hiện nay của họ qua từng biến cố nhỏ to.

2. Lời kêu gọi hãy đồng tâm nhất trí với nhau

“Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Giê-su Ki-tô đòi hỏi”. Lời khẩn cầu này khai mào chủ đề thứ hai và nói lên nỗi bận lòng sâu xa của vị Tông Đồ: sự hiệp nhất của cộng đồng gồm những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô hữu gốc lương dân, mà biết bao những đối kháng ngay từ đầu có nguy cơ dẫn đến sự đối lập giữa họ.

Đây không là một vấn đề đặc thù mà cộng đoàn Rô-ma gặp phải, tất cả thế hệ Ki-tô hữu đầu tiên đều đã nhận biết những căng thẳng như thế. Tuy nhiên, trong thủ đô đế quốc, tình trạng đã trở nên trầm trọng hơn vì hoàn cảnh lịch sử. Hoàng đế Claudius đã ban chiếu chỉ vào năm 49 ra lệnh trục xuất những người Do thái khỏi kinh thành Rô-ma, lấy cớ những rối loạn “do bởi ông Ki-tô”. Có lẽ lời rao giảng của Ki-tô giáo đã gây nên những xáo trộn trong cộng đồng Do thái, một cộng đồng quan trọng trong thủ đô Rô-ma. Và vì không thể phân biệt giữa những người Do thái trung thành với luật Mô-sê và những người Do thái theo Ki-tô giáo, nên chiếu chỉ này được áp dụng cho cả hai (chính vì thế mà ông bà A-qui-la và Pơ-rít-ki-la rời Rô-ma và đến lánh nạn ở Cô-rin-tô: Cv 18: 2-3).

Sau khi hoàng đế Claudius băng hà vào năm 54, những Ki-tô hữu gốc Do thái trở lại Rô-ma. Ấy vậy, chỉ sau vài năm, Giáo Đoàn Rô-ma chỉ còn toàn những người Ki-tô hữu gốc lương dân. Những xích mích khó mà tránh khỏi giữa những người Ki-tô hữu gốc Do thái và những người Ki-tô hữu gốc lương dân. Thánh Phao-lô đã viết thư này vào mùa xuân năm 57. Những sự căng thẳng vẫn còn hiển hiện trong bức thư này.

“Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Ki-tô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa”. Lời khuyên bảo của thánh Phao-lô chủ yếu gửi đến những người Ki-tô hữu gốc lương dân, họ phải cho thấy mình là anh em đối với những người con của Lời Hứa, tức người Ki-tô hữu gốc Do thái; chính nhờ họ, những lương dân, do lòng thương xót của Thiên Chúa, đã trở thành những người con mới của Lời Hứa, nhờ đó họ cũng có thể tôn vinh Thiên Chúa chân thật.

Và như để nhắc lại lời khẳng định ban đầu về giá trị của Kinh Thánh, thánh Phao-lô kết thúc khi trích dẫn Tv 18: “Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa”. Qua hình thức đóng khung này, thánh Phao-lô một lần nữa nhắc cho họ nhớ rằng không phải lời giáo huấn của thánh nhân, nói cách chính xác lời khuyên bảo của thánh nhân chỉ là phục vụ Lời Chúa mà thôi, nhưng chính Lời Chúa mới có thể quy tụ và hiệp nhất tất cả các tín hữu, dù người Ki-tô hữu xuất thân từ Do thái hay từ lương dân, và thậm chí cả người Do thái nữa. Đó cũng là phương sách mà Đấng Phục Sinh đã vận dụng khi đồng hành với hai môn đệ trên đường Em-mau “bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Ngài giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Ngài trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24: 27).

TIN MỪNG (Mt 3: 1-12)

Thánh Mát-thêu dẫn đưa chúng ta vào lãnh vực hoạt động của Gioan Tẩy Giả mà không có bất kỳ lời mào đầu nào. Chính nhờ một tác giả Tin Mừng khác, thánh Lu-ca, mà chúng ta nhận biết nhân cách của Gioan Tẩy Giả, gia đình của ông, hoàn cảnh chào đời của ông, vân vân (Lc 1: 5-25, 57-80). Như vậy, chắc hẳn khoa giáo lý tiên khởi bắt đầu với sự xuất hiện đột ngột của vị Tiền Hô và sứ điệp của ông. Sách Tin Mừng Mác-cô và sách Tin Mừng Gioan xác nhận lời chứng này, theo cùng một hướng đi như phần mở đầu đột ngột của Tin Mừng Mát-thêu. Phân đoạn mà chúng ta thường gọi là “Tin Mừng Thời Thơ Ấu” theo Thánh Mát-thêu (ch. 1-2) đã được thêm vào sau như Tựa Ngôn.

1. Hoang địa miền Giu-đê-a

Việc thánh Gioan Tẩy Giả chọn hoang địa làm khung cảnh cho lời rao giảng của ông không phải là chuyện ngẫu nhiên. Đối với dân Ít-ra-en, hoang địa gợi lên biết bao kỷ niệm sống động trong tâm trí của họ. Hoang địa là nơi dân Ngài gặp gỡ Thiên Chúa của mình, là nơi Thiên Chúa kết giao đính ước với dân Ngài và cũng là nơi dân Ngài đã trải qua kinh nghiệm tôn giáo trong những gian nan thử thách. Đã có một khoa thần bí về hoang địa, mà sự hiện diện của cộng đoàn Qum-ran trong vùng đất này làm chứng. Cộng đoàn này chuẩn bị tâm hồn trong đời sống khổ chế, cầu nguyện và thanh tẩy để chờ đón kỷ nguyên Mê-si-a. Mặt khác, hoang địa ban cho “nước” ý nghĩa tròn đầy của nó: hơn bất cứ nơi nào khác, ở đây nước là sự sống, đồng nghĩa với ơn cứu độ. Sau cùng, hoang địa còn mang biết bao giá trị biểu tượng: chính hoang địa khô khan cằn cỗi của những tâm hồn mà Gioan Tẩy Giả mời gọi biến thành những mảnh đất tâm linh phì nhiêu.

2. Nước Trời đã đến gần

“Anh em hãy ăn năn sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. “Ăn năn sám hối” được dịch từ động từ Hy lạp, có hai nghĩa, nghĩa tiêu cực: suy nghĩ lại, đổi mới tâm tư tình cảm, thay lòng đổi dạ, thay đổi cách ăn nếp ở, và nghĩa tích cực: từ bỏ đàng tội lỗi mà quay trở về cùng Thiên Chúa. Nguyên do của việc hoán cải là vì “Nước Trời đã đến gần rồi”.

Động từ Hy ngữ được dùng trong câu: “Nước Trời đã đến gần” ở thì hiện tại chưa hoàn thành, vì thế, phải hiểu: “Nước Trời đã đến và hiện có mặt ở đây rồi”. Thánh Mát-thêu hầu như luôn luôn dùng diễn ngữ: “Nước Trời”, khác với thánh Mác-cô và thánh Lu-ca: “Nước Thiên Chúa”. Đây là kiểu nói sê-mít để tránh gọi tên cực thánh của Thiên Chúa. Ngoài ra, từ Hy-lạp “basileia” có nghĩa, “nước” hay “vương quốc”, hoặc “triều đại”. Thuật ngữ “triều đại” thích hợp hơn, vì trong Tin Mừng thuật ngữ này được dùng để chỉ không là một thực thể địa lý: một nước, một quốc gia, hay một vương quốc, nhưng là thời điểm thánh ý Thiên Chúa sẽ được thực hiện ở dưới đất cũng như ở trên trời. Đó là mục đích mà Thiên Chúa nhắm đến cho toàn thể vũ trụ như trong lời kinh Chúa dạy: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

Thánh Gioan Tẩy Giả cất tiếng kêu gọi sự hoán cải. Nhiều ngôn sứ đã cất cao lời mời gọi như thế rồi. Nhưng từ lâu, đã không còn có ngôn sứ nào xuất hiện trong dân Ít-ra-en kể từ ngôn sứ Ma-la-khi, Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ cuối cùng, ông công bố Đấng Mê-si-a sắp đến rồi, ông là vị Tiền Hô mà ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã loan báo: “Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẳn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi”. Trong bối cảnh của mình, vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo cuộc hồi hương trở về của những người lưu đày Ba-by-lon sắp đến và mời gọi những người lưu đày này hãy chuẩn bị chờ đón Đức Chúa, Ngài sẽ thực hiện một cuộc xuất hành mới để dẫn dân Ngài hồi hương trở về quê cha đất tổ.

Như thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, thánh Mát-thêu trích dẫn Is 40: 3 theo bản dịch Hy-lạp, bản Bảy Mươi, chứ không theo bản gốc Híp-ri. Có hai điểm khác nhau giữa bản Híp-ri và bản Hy lạp về cách ngắt câu và về từ ngữ. Về cách ngắt câu, trong bản Híp-ri cụm từ chỉ nơi chốn: “trong hoang địa”, bổ nghĩa cho câu theo sau và có vài sửa đổi từ ngữ giữa bản Híp-ri và bản Hy-ngữ: thay vì “hãy mở một con đường” và “hãy vạch một con lộ”, bản Hy-ngữ lại viết: “hãy dọn sẵn một con đường” và “hãy sửa cho thẳng những nẻo đường”. Như vậy, bản Híp-ri viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”, thì bản Hy-ngữ điều chỉnh lại: “Có tiếng người hô trong hoang địa: ‘Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, hãy sửa cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta”. Vì thế, qua việc ngắt câu khác và qua các việc sửa đổi vài từ ngữ, bản Hy-ngữ đem lại cho sấm ngôn I-sai-a một chiều kích tâm linh hơn.

Các sách Tin Mừng Nhất Lãm trích dẫn Is 40: 3 theo bản Hy-ngữ, tuy nhiên các tác giả Tin Mừng có vài sửa đổi cho phù hợp với bối cảnh hiện nay của mình. Thay vì kiểu nói mơ hồ không xác định: “Có tiếng hô trong hoang địa” của bản Hy-ngữ, Tin Mừng Nhất Lãm thêm từ “người”: “Có tiếng người hô trong hoang địa”, nhờ đó các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm có thể áp dụng câu này vào sứ mạng của Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Đấng Mê-si-a. Và thay vì kiểu nói: “sửa lối cho thẳng những nẻo đường của Thiên Chúa chúng ta” của bản Hy-ngữ, thì các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm lại thay từ “Người” cho từ “Thiên Chúa”: “sửa lối cho thẳng để Người đi”, nhờ đó Tin Mừng Nhất Lãm dễ dàng quy chiếu đến Đức Giê-su.

3. Cách sống của thánh Gioan Tẩy Giả

Cách ăn mặc quá đạm bạc của Gioan Tẩy Giả: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, cho thấy mẫu gương của đời sống khổ chế và tấm lòng sám hối. Cách ăn mặc này gợi nhớ cách ăn mặc của ngôn sứ Ê-li-a, vị ngôn sứ đã chọn cách ăn mặc như thế để bày tỏ sự phản kháng của mình chống lại thói xa hoa và hư hỏng của vương quốc Ít-ra-en (2V 1: 8). Ấy vậy, rõ ràng ngôn sứ Ê-li-a là vị ngôn sứ mà dân chúng đang mong đợi sự trở lại của ông vào thời đại Mê-si-a. Còn về châu chấu và mật ong rừng, mà vị Tiền Hô dùng làm lương thực, là những thức ăn được gặp thấy trong hoang địa này.

4. Phép rửa tỏ lòng sám hối

Nghi thức phép rửa mà thánh Gioan Tẩy Giả đề xướng như dấu chỉ bày tỏ sự hoán cải là nghi thức rất phổ biến vào thời đó. Các vị lãnh đạo tôn giáo đòi hỏi các tân tòng muốn gia nhập vào cộng đoàn Ít-ra-en phải lãnh nhận phép rửa, ngoài phép cắt bì. Người Do thái thực hành nhiều nghi thức thanh tẩy, và họ còn thêm một số lượng lớn vào thời hậu lưu đày. Những nghi thức này được thực hành hằng ngày tại cộng đoàn Qum-ran. Tuy thế, phép rửa mà thánh Gioan Tẩy Giả đề xướng là một nghi thức thanh tẩy độc nhất vô nhị; bởi vì ngoài việc thanh tẩy bên ngoài, nghi thức này là dấu hiệu của việc thanh tẩy nội tâm: chuẩn bị tâm hồn để đón nhận ơn tha thứ tội lỗi, nhưng chưa có quyền năng tha thứ tội lỗi.

5. Khắp miền Giu-đê-a

“Bấy giờ, người ta từ Giê-ru-sa-lem và khắp miền Giu-đê-a, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông”. Việc Gioan Tẩy Giả rao giảng thành công là điều chắc chắn. Sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta biết rằng có những cộng đoàn tự nhận mình là môn đệ của vị Tiền Hô lâu sau khi Gioan Tẩy Giả qua đời. Những cộng đoàn này đã được hình thành thậm chí vượt ra bên ngoài miền Giu-đê-a nữa, như ở Ê-phê-xô (Cv 19: 1-7) và ở A-lê-xan-ri-a (Cv 18: 24-25). Nhưng kiểu nói của thánh Mát-thêu “khắp miền Giu-đê-a” là kiểu nói phóng đại có chủ ý để nhấn mạnh trước sự tương phản mà sau này đám đông dân chúng căm thù Đức Giê-su bày tỏ ra.

6. Những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc

Đây là lúc tác giả Tin Mừng cất cao giọng: qua Gioan Tẩy Giả, thánh ký lớn tiếng tố cáo thói giả hình của những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc, như sau này Chúa Giê-su cũng sẽ làm như vậy. Những người này đến chịu phép rửa để tỏ lòng sám hối, nhưng tự thâm tâm, họ tự hào tự phụ rằng mình chẳng có gì phải sợ sự phán xét của Thiên Chúa cả, vì mình là “con cháu ông Áp-ra-ham” (x. Ga 8: 33-40; Rm 9: 7-8).

- Phái Xa-đốc cốt yếu là giai cấp giáo sĩ; họ đại diện khuynh hướng bảo thủ tôn giáo: chỉ chấp nhận truyền thống văn tự mà các tư tế là những người chú giải duy nhất, chứ không các kinh sư giải thích Luật; họ thuộc vào giai cấp giàu có và tán thành cuộc chiếm đóng của đế quốc Rô-ma. Phái này biến mất sau năm 70, tức là, sau khi kinh thành Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ và Đền Thờ bị phá hủy.

- Phái Pha-ri-sêu, đông hơn phái Xa-đốc nhiều, đại diện yếu tố sống động của Do thái giáo. Ngoài truyền thống văn tự, họ còn chấp nhận các truyền thống miệng. Nhưng lòng nhiệt thành của họ đối với Lề Luật đã sinh ra muôn vàn luật cảnh huống nghiêm nhặt; họ hình thành nên một tầng lớp trung lưu; họ không là những người phục vụ Đền Thờ nhưng phục vụ các hội đường; chính qua các kinh sư thuộc phái của họ mà họ có ảnh hưởng trên dân chúng. Những kinh sư danh tiếng đều thuộc phái Pha-ri-sêu, như kinh sư Ga-ma-li-en, thầy của thánh Phao-lô sau này.

Thánh ký liên kết trong cùng một tiến trình hai nhóm người rất đối lập với nhau, bất đồng sâu xa về thái độ tôn giáo, xã hội và chính trị; nhưng họ đại diện những đối thủ tiêu biểu của Chúa Giê-su cũng như của Giáo Hội tiên khởi sau này. Những lời chỉ trích sinh động được đặt trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả, tiên báo hoàn cảnh căng thẳng mà Chúa Giê-su và Giáo Hội tiên khởi sẽ trải qua.

Gioan Tẩy Giả chỉ trích nặng lời hai nhóm này bằng ba câu. Trước hết, “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các ngươi cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?”. “Ai” được ám chỉ ở đây nếu không là quỷ? Do đó, việc kể ra con rắn độc là ám chỉ đến con rắn của sách Sáng Thế, con rắn dẫn đưa con người đến chỗ xa rời Thiên Chúa. Nhưng “nòi rắn độc” cũng là thành ngữ chung của mọi nền văn hóa để chỉ những những con người có tâm địa ác độc bày mưu tính kế giết người.

Thứ đến, thánh Gioan nhắc nhớ rằng đừng tự hào tự phụ mình là con cháu ông Áp-ra-ham vì “Thiên Chúa có thể làm cho những viên đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham”. Qua câu nói này, thánh Gioan nhắc cho họ nhớ rằng đừng tự hào tự phụ mình là con cháu ông Áp-ra-ham, vì không có gì Thiên Chúa không làm được.

Và cuối cùng, “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Trong Cựu Ước, dân Ít-ra-en được ví như cây không sinh trái tốt như lòng Thiên Chúa mong đợi. Như vậy, hành vi sám hối mà thánh Gioan mời gọi không đơn giản đón nhận nghi thức phép rửa mà phải phát sinh những việc lành phúc đức. Đó là điều Thiên Chúa chờ đợi ở nơi từng người tín hữu.

Theo văn mạch, chắc chắn những lời này nhắm đến tính tự phụ tự mãn của những người Pha-ri-sêu và những người Xa-đốc, nhưng bài học cũng được gửi đến cho bất cứ những ai lấy cớ này hay cớ nọ để ru ngủ tiếng lương tâm mình.

7. Đức khiêm hạ của vị Tiền Hô

Gioan Tẩy Giả có một cảm thức sâu xa về sự cao cả của Thiên Chúa, đồng thời ông có một ý thức sắc bén về tội lỗi. Hai thái độ này chung chung được liên kết với nhau trong con người của Gioan: ông nhận ra sự nhỏ bé của mình trước Đấng đến sau ông đến mức ông không xứng đáng xách dép cho Ngài. Hình ảnh so sánh này rất sinh động: những hối nhân cởi dép trên bờ để bước xuống sông Gio-đan. Quả thật, truyền thống kinh sư dạy rằng không được bắt những nô lệ gốc Do thái làm những việc quá nặng nhọc hay thấp kém, như “cởi dép cho chủ hay rửa chân cho chủ”. Như vậy, thánh Gioan Tẩy Giả tự đặt mình vào hàng nô lệ rốt hết để nhấn mạnh một khoảng cách quá lớn giữa thánh nhân, vị Tiền Hô, và Đấng Mê-si-a mà thánh nhân có sứ mạng loan báo.

Sau cùng, thánh nhân tuyên bố phép rửa mà ông làm thì chưa đủ, bởi vì phép rửa trong nước này chỉ thúc giục lòng ăn năn sám hối để chuẩn bị đón nhận ơn tha thứ mà Đấng Mê-si-a đem đến. Còn Đấng mà ông loan báo đến sau ông, Ngài sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa. Phép rửa của Ngài mới có quyền năng tha thứ tội lỗi.

8. Đấng Mê-si-a Thẩm Phán

Gioan Tẩy Giả thoáng thấy Đấng Mê-si-a đến như một vị Thẩm Phán. Quả thật, đây là một chủ đề thường hằng của trào lưu ngôn sứ, các ngài loan báo “Ngày của Chúa” như Ngày Chung Thẩm và trình bày kỷ nguyên Mê-si-a như khai mào kỷ nguyên cánh chung. Đức Giê-su thật sự sẽ là vị Thẩm Phán của thời cuối cùng: sự hiện diện của Ngài sẽ đòi buộc một sự chọn lựa dứt khoát.

Hình ảnh mùa gặt là hình ảnh kinh điển để chỉ cuộc tụ họp vĩ đại của ngày cánh chung, ví dụ như Is 27: 12: “Rồi ngày kia Đức Chúa sẽ đập lúa từ sông Cả cho tới suối Ai-cập. Và anh em, hỡi con cái Ít-ra-en, từng người một, anh em sẽ được Chúa mót nhặt về”. Chủ đề “lửa” xuất hiện ở đây với hai giá trị: lửa thanh luyện người công chính và ngay lành, vì thế, tác dụng của lửa gần với tác động của Chúa Thánh Thần: “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thần Khí và lửa”; đồng thời cũng là lửa trừng phạt không hề tắt sẽ thiêu hủy những kẻ bất chính và bất lương.

Thánh Gioan Tẩy Giả đã thấy sự xuất hiện của Đức Giê-su như vị Thẩm Phán: thưởng những người lành thánh và phạt những kẻ gian ác. Vì thế, thánh nhân so sánh hành động của Ngài như một người tiều phu dùng rìu hạ những cây nào không sinh trái tốt và như một người nông dân sàng sẩy sân lúa, lúa tốt thì chất vào khó lẫm, còn lúa xấu thì sẽ dùng lửa không hề tắt mà thiêu hủy.

 

home Mục lục Lưu trữ