Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 62

Tổng truy cập: 1356286

Chúa Giêsu Là Ánh Sáng

Chúa Giêsu là ánh sáng

Chúng ta đã bước vào Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hoán cải, cải thiện đời sống và làm mới lại cuộc đời. Giáo Hội chuẩn bị hướng chúng ta vào tuần thánh để chiêm ngắm Đức Kitô Cứu Thế và các hiệu quả của ơn cứu độ mà Ngài mang đến qua cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu Chúa Giêsu là sự sáng cho trần gian.

1. Đời người có hai nỗi khổ

Một con người đang sáng mắt, sẽ nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú. Tất cả vũ trụ như bừng sáng với họ. Nhưng nếu vì một lý do nào đó, họ bị khiếm thị. Vạn vật như tối đen. Xung quanh con người chỉ nhuộm mầu đen tối. Họ như mất hết tất cả mọi sự. Cuộc đời của họ như bị chìm vào một bầu trời tăm tối. Tất cả giờ đây đối với người mù chỉ là u tối mà thôi. Đó là nỗi khổ của một con người bỗng mất đi sự sáng.

Ánh sáng rất cần thiết cho cuộc đời. Ta thử tưởng tượng, thế giới này không có ánh sáng. Vạn vật, sinh vật và con người đều không thể tồn tại. Thế giới không có ánh sáng là thế giới chết. Cây cỏ, loài vật và con người không thể nào phát triển tồn tại được. Con người lúc đó sẽ chìm ngập trong nỗi khổ của sự chết. Vì tối đồng nghĩa với chết. Đó là nỗi đau khổ của những người bị mất ánh sáng.

Nỗi khổ thứ hai là khi con người bị đè bẹp, bị vùi dập và bị đẩy ra bên lề, không được nhận biết. Mỗi người đều có nhân vị riêng của mình. Mỗi người đều phải được nhìn nhận. Ai cũng muốn được người khác biết tới. Dù mình là hèn kém hay thiếu tài năng. Không được nhìn nhận, con người sẽ vô cùng khổ cực, vì họ cảm thấy cô đơn, lẻ loi và bị bỏ rơi.

2. Chúa Giêsu chữa lành người mù bẩm sinh

Tin Mừng của thánh Gio-an trong trình thuật 9, 1-41 cho chúng ta chứng kiến một phép lạ rất ly kỳ, ngoạn mục. Chúa Giêsu đã gặp gỡ một người mù bẩm sinh và với con người đầy quyền năng, giầu tình thương xót, Ngài đã chữa lành anh mù, làm cho anh ta nhận ra ánh sáng. Với ngòi bút tài tình, với óc khôi hài hiếm có, thánh Gio-an trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã diễn tả việc chữa lành anh mù một cách xem ra thiếu khoa học, khi Chúa Giêsu lấy nước miếng hòa với bùn mà đắp vào mắt anh mù, rồi nói với anh đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác. Anh mù làm theo lời Chúa, đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác và anh được sáng mắt. Với một phép lạ ly kỳ, tài tình và xem ra rất dân gian như các thầy lang băm ở muôn thời. Chúa Giêsu đã làm cho anh mù sáng mắt. Tuy nhiên, các biệt phái và luật sĩ đã không tin vào phép lạ xem ra phản khoa học mà Chúa Giêsu vừa làm, nên họ đã cho mở cuộc điều tra để có cớ bắt tội Chúa Giêsu. Tuy nhiên, anh mù đã cương quyết xác nhận Chúa Giêsu đã chữa lành cho anh do quyền năng và tình thương của Chúa. Vì thế, anh nhất định phân bua với mọi người và ngay cả với các biệt phái, các luật sĩ: "Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì " (Ga 1, 32-33 ).

Anh mù nhất quyết không âu lo, không sợ sệt, anh đã nói lên tất cả sự thật, cái sự thật hiển nhiên là trước kia anh ta mù lòa, giờ đây, anh ta được sáng. Vì vậy, khi gặp lại Chúa Giêsu, anh ta rất vui mừng và lòng tin đã xui khiến anh, thúc giục anh tin nhận Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi anh ta: "Anh có tin vào Con Người không?" (Ga 1,35). Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin" (Ga 1, 38). Rồi anh sấp mặt xuống trước mặt Người. Phép lạ Chúa Giêsu làm cho anh mù bẩm sinh thấy lại ánh sáng tượng trưng cho việc Chúa Giêsu ban lại sự sáng siêu nhiên cho con người. Trong đêm phục sinh, qua nghi thức làm phép lửa, rước nến, công bố Tin Mừng Phục Sinh. Phụng vụ sẽ giới thiệu Đức Giêsu như sự sáng bừng lên trong đêm đen, dẫn đưa nhân loại mới về Đất Hứa là Nước Trời.

3. Diễm phúc và bổn phận của ta

Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phaolô đề cập đến diễm phúc, chúng ta đã được trở nên con cái sự sáng, nghĩa là được giải thoát khỏi cảnh tối tăm, được bình an trong cuộc sống, thấy rõ hướng đi và cùng đích đời mình không còn phải lo âu, sợ sệt như bài đáp ca hát lên: "Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, Ly rượu con đầy tràn chan chứa. " (Tv 23, 4-5)

Một điều khác chứng tỏ lòng thương xót của Chúa. Đó là Thiên Chúa đã thực hiện lòng xót thương của Ngài cách đặc biệt cho Đa-vit: Đavít được Chúa biết đến, kén chọn và xức dầu tấn phong. Đồng thời vì đã là con cái sự sáng, chúng ta cũng được mời gọi, sống đời sống mới, khử trừ những việc làm của tối tăm, thực thi những việc lành hầu tôn vinh Chúa và làm chứng cho Chúa.

Chúng ta có thể dùng lời của J. Potin trong "Jésus, l? histoire vraie" (Cent. 1994, trang 364)để kết: "Trong lúc người mù được thấy, người Do-thái lại lao mình vào sự mù tối. Những dấu lạ Đức Giêsu làm cho họ thêm cứng lòng. Họ tưởng mình biết vì cho rằng mình biết Mô-sê và Lề Luật cấm chữa bệnh vào ngày Sa-bát. Thật ra họ từ chối ánh sáng thật. Với Đức Giêsu, thảm trạng này làm thành một trường hợp phải đặt thành "vấn đề" trong tiến trình ý định của Thiên Chúa, bởi lẽ những người không tin, người ngoại tìm thấy ánh sáng cho đức tin vào "Con Người", trong lúc đó, những kẻ "thấy", những người Do-thái lại trở nên mù tối, bị lóa mắt bởi những sự thật giả dối của họ. Đức Giêsu nói: "Vì thế họ ở trong tội lỗi của họ".

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được phép rửa chúng con đã lãnh nhận, vì phép rửa làm cho chúng con trở nên con cái Chúa, nghĩa là được ánh sáng sung mãn của Chúa chiếu rọi. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nói như anh mù khi được sáng mắt: "Lạy Chúa, con tin". 


Định kiến

Lm Nguyễn Minh Hùng

Vui mừng trước thất bại của người khác, khổ sở khi người khác thành công. Chuyện không lạ gì trong nhân gian. Sẵn một định kiến không hay về Chúa Giêsu, người Do thái, đúng hơn, những người lãnh đạo tôn giáo và chính quyền Do thái luôn luôn có sẵn một cái nhìn, một lối nghĩ, nặng nề hơn: một não trạng đi từ thù ghét đến chống đối, và sau cùng là kết án Chúa Giêsu, và những ai có liên quan với Người, bất chấp tất cả, dù đó là lời nói hay, hành vi tốt, điều có lợi, việc cứu sống...

Bài Tin Mừng hôm nay là một trong rất nhiều những bằng chứng tố giác định kiến hẹp hòi, bất nhân ấy. Một người mù từ khi mới sinh, được Chúa Giêsu chữa cho sáng mắt, lại bị đuổi ra khỏi hội đường vì lý do: "Mày sinh ra trong tội". Thực ra anh ta chẳng làm gì nên tội, chỉ là người được chữa lành bệnh trong ngày Sabat, ngày lễ nghỉ của người Do thái. Thế là bị kết tội vi phạm ngày lễ nghỉ.

Dấu lạ sáng mắt của anh -- điều mà từ thủơ mới sinh, anh không thể có được. Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, anh đã phải chịu cảnh tối tăm, chắc chắn đã làm cho cha mẹ anh rất đau buồn. Lớn lên ý thức thân phận khiếm khuyết của mình, chắc anh cũng mang mặc cảm, và ước mơ được nhìn thấy. Lẽ ra dấu lạ được sáng mắt ấy, phải là một tin mừng, một niềm vui trọng đại cho tất cả những ai biết anh, những ai đã từng thấy anh phải đi ăn xin, và mạnh hơn nữa: những ai đã từng rút tiền cho anh. Lẽ ra dấu lạ kỳ diệu ấy phải được mọi người ca tụng và truyền cho nhau như một huyền nhiệm mà người bình thường không làm nỗi. Bằng chứng là từ thuở anh mới sinh cho đến bây giờ, chưa có ai, dù một mảy may, có thể giúp anh thấy được, dẫu chỉ là một cái nháy mắt. Lẽ ra sau dấu lạ được sáng mắt này, anh phải được mọi người chúc mừng mới đúng. Nhưng hoàn toàn ngược lại, dấu lạ mà mọi người thời đó không ai dám nghĩ tới, lại bị coi là một hành động tội lỗi, kết quả được sáng mắt lại bị coi là kết quả của tội. Còn Đấng đã chữa anh khỏi mù, Đức Giêsu, hơn cả những thầy thuốc lúc bấy giờ (đã không chữa được cho anh), lại bị coi là một kẻ tội lỗi. Họ nói về Chúa Giêsu thế này: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa. Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi".

Chúng ta tự hỏi, tội lỗi có thể cho kết quả tốt không? Và hành vi tội lỗi của người này có thể bù đắp được khiếm khuyết của người kia sao? Chúa Giêsu trả lại hạnh phúc cho một người đau nỗi đau khiếm khuyết hạnh phúc ngay từ khi chưa biết nói, biết cười, đến khi bước vào tuổi trưởng thành, thì hành vi hoàn trả ấy lại là đứa con của tội lỗi sao?

Đáng thương cho những người Do thái thời Chúa Giêsu. Thay vì Chúa Giêsu trở nên chốn nương tựa cho niềm tin của họ vào Thiên Chúa, nhưng bởi đã nuôi sẵn trong tim, trong óc mình một định kiến ganh tỵ, thù ghét và chống đối, một định kiến ảo tưởng chỉ có bản thân mình mới có quyền vượt lên trên người khác, đã làm cho họ hoàn toàn đui mù. Cái mù đôi mắt, dù là một nỗi bất hạnh, nhưng không đáng sợ bằng cái mù tâm hồn. Đui mù tâm hồn làm cho người ta chỉ biết dừng lại trên chính mình và loại trừ người khác. Đui mù tâm hồn đưa người ta đến chỗ kết án anh em mà quên kiểm tra mình. Đui mù tâm hồn làm cho người ta không nhìn thấy gì hết mà chỉ sống ảo tưởng: Mình là trên, là nhất, còn mọi người xung quanh, dẫu có tốt đến đâu, cũng chỉ là sản phẩm của tội, của cái xấu.

Đáng thương cho những người Do thái thời Chúa Giêsu. Bởi khi gán cho anh chị em mình bản án tội lỗi, mặc nhiên họ nhìn nhận bản thân họ vô tội. Nhưng những người "vô tội" như họ sao không làm nổi một dấu lạ, dẫu là một dấu lạ nhỏ nhất, còn những người bị kết án là tội lỗi lại làm nên một dấu lạ phi thường và được thừa hưởng kết quả tuyệt vời của dấu lạ ấy? Đâu phải họ không nhận ra điều đó. Thánh Gioan cho biết: "họ bất đồng ý kiến" vì một câu hỏi được nảy sinh: "Làm sao người tội lỗi lại có thể làm được những phép lạ thể ấy?". Giá mà họ tận dụng lời hỏi này như một lời tra vấn lương tâm, có lẽ họ đã thay đổi não trạng. Nhưng đáng thương và cũng đáng tiếc cho những người lãnh đạo Do thái thời đó, bởi điều ấy đã không xảy ra. Sẵn một định kiến xấu xa quá lớn về Chúa Giêsu, làm cho họ đui mù hoàn toàn. Một sự đui mù quá nguy hiểm.

Nhưng cũng đáng thương và đáng sợ vô cùng cho cả tôi và bạn, nếu chúng ta cũng có sẵn một định kiến nào đó không hay cho anh chị em mình. Xã hội đã có quá nhiều những định kiến như thế. Một người đã từng vướng vào tội ăn trộm, suốt đời anh ta chỉ là một tên ăn trộm. Một cô gái lỡ lầm ngã vào con đường buôn son, bán phấn, suốt đời cô trở thành nạn nhân của những lời dè pha không dứt. Một người vừa ra khỏi tù, gõ hết cửa nghề nghiệp này, đến cửa nghề nghiệp khác, không ai dám đón nhận. Một người lỡ sa vào nghiện ngập hay lỡ mắc bệnh AIDS, thay vì được thông cảm, suốt đời người ấy bị nhìn bằng ánh mắt tầm thường, khi dễ… Bởi đó, thay vì anh chị em của ta có thể nên tốt thì do định kiến của mọi người, đẩy họ rơi vào những hoàn cảnh còn bi đát hơn. Khi mang sẵn một định kiến xấu cho anh chị em, dẫu không ai mời ta làm quan án, ta trở thành quan án bất công.

Chúa Giêsu không bao giờ có sẵn một định kiến như thế. Chúa sẵn sàng quên hết lỗi của chị phụ nữ có sáu đời chồng mà Người gặp bên bờ giếng Giacop, và cũng y như thế đối với người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Giọt nước mắt sámhối của cô Maria đổ trên chân Chúa Giêsu, đã làm cho Chúa ngay lập tức không còn nhớ đến tội của cô. Mãi mãi không ai nghe thấy Chúa nhắc tới sự tranh giành quyền lực của hai anh em Giacôbê và Gioan. Chúa cũng không bao giờ truất quyền làm giáo hoàng của Phêrô, vì nông nổi mà chối Thầy đến ba lần chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Chúa cũng không bao giờ mở lời trách móc Giuda nặng nề: "Mày sinh ra trong tội", như người Do thái lên án anh mù, dẫu Chúa Giêsu có quyền làm điều đó, vì Chúa là Chúa và Giuda phạm tội tày trời: đan tâm bán đứng Thầy mình. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ nhẫn tâm giết mình: "Xin Cha tha cho họ...". Và Chúa cũng không bao giờ có sẵn một định kiến hẹp hòi nào đối với chính chúng ta. Trong đời bạn và tôi, có bao nhiêu lần đi xưng tội, là bấy nhiêu lần Chúa quyên tội ta, quên tất!...

Mùa chay là mùa ăn năn sám hối. Hãy bắt đầu ăn năn sám hối bằng sự nhìn nhận và tin tưởng anh chị em quanh mình. Hãy gở bỏ cái mặt nạ xấu xa vô hình mà ta đã dán lên cuộc đời của một ai đó. Hãy xóa đi những định kiến xấu trong lòng ta.

Bạn và tôi hãy nên giống Chúa Giêsu!.

home Mục lục Lưu trữ