Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 66
Tổng truy cập: 1361763
CHÚA GIÊSU LÀ CON ĐƯỜNG
CHÚA GIÊSU LÀ CON ĐƯỜNG SỰ THẬT SỰ SỐNG
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Nguyễn Đức Vinh)
Khung cảnh của bài tin mừng hôm nay thật đầm ấm. Đó là một buổi nói chuyện, chia sẻ và giáo huấn của Đức Giêsu cho các Tông đồ trong bầu khí thật thân thương, tràn đầy tình mến. Buổi nói chuyện hôm nay diễn ra trong tình yêu của Chúa Giêsu và sự tích cực của các Tông đồ.
Khởi đầu bài tin mừng Chúa Giêsu mời gọi các tông đồ: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”, để làm gì? để đừng xao xuyến! Lời mời gọi cho chúng ta thấy Chúa Giêsu thấu hiểu nỗi lòng của các ông, thấu hiểu những lo toan … có cả nỗi sợ hãi của cuộc sống hiện tại và tương lai mà các ông đang và sẽ trải qua. Cuộc đời con người là như thế, được dệt nên bởi những niềm vui – nỗi buồn, bởi những thành công – thất bại, bởi những hy vọng – lo lắng…, xem ra dễ dàng dẫn họ tới thất vọng, chán nản, xao xuyến và buông xuôi tất cả. Thế nhưng cuộc đời người tông đồ của Đức Giêsu thì lại không như vậy; dẫu biết rằng họ vẫn sống, vẫn trải qua những vui – buồn của kiếp người như bao người khác, nhưng tinh thần thì lại khác hẳn, vì sao? Vì họ có Chúa Giêsu đồng hành và nâng đỡ nên họ không còn xao xuyến và sợ hãi nữa, mà ngược lại họ sống đầy hy vọng bởi đã thiết lập với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu mối tương giao được đặt trên nền tảng Đức Tin.
Không ai sống mãi ở đời này, đó là chân lý mà Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo dạy chúng ta. Chân lý này không chỉ được người Kitô hữu đón nhận mà được cả nhân loại đón nhận vì thực tế cuộc sống cho thấy như vậy (mọi người đều phải chết). Ra khỏi cuộc đời này, con người trở về với Thiên Chúa là nơi mình phát xuất ra. Sự trở về đó diễn tả cho chúng ta thấy sự cần thiết của ‘con đường’, vì không có đường đi thì làm sao mà trở về?
Hình ảnh ‘con đường’ rất gần gũi, vì đó là thực tế cuộc sống mà hằng ngày mọi người đều cảm nhận sự cần thiết không thể thiếu của nó (con đường). Để có thể đi đến nơi này nơi kia, thực hiện việc này việc nọ, mọi người đều phải đi trên ‘đường’; nếu không có đường đi, con người không thể đến được nơi mình muốn đến và càng không thể thực hiện được ước muốn mà mình muốn. Từ ‘con đường’ của trần thế mà mọi người đi trên đó để đạt được mục đích của mình, đến được nơi mình muốn đến; chúng ta suy nghĩ ‘con đường về trời’ (con đường thiêng liêng); và một khi hiểu được ý nghĩa và sự cần thiết ‘phải có con đường’, chúng ta mới nhận ra và hiểu lời mà Chúa Giêsu nói hôm nay: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Lời Chúa Giêsu nói và sự khẳng định của Ngài đã cho chúng ta ‘chân lý sống’, khiến chúng ta an tâm vì đã tìm được ‘con đường’ để đi, tìm được ‘sự thật’ để sống, tìm được sự sống vĩnh cửu mai sau là đích điểm chúng ta hướng đến. Tất cả những thao thức và tìm kiếm của con người cho một con đường để đi, cho một sự thật để sống đều có nơi con người Giêsu. Từ đó, chúng ta có thể nói được rằng: có Chúa là có tất cả: ‘con đường, sự thật và sự sống’; ngược lại, thiếu vắng Giêsu trong đời, con người chỉ còn bóng tối và sự trống rỗng.
Lạy Chúa, với Lời Chúa dạy hôm nay, tự vấn lại chính mình; chúng con nhận ra mình đang sống đầy sợ hãi trước những thách đố của cuộc đời: những thách đố có sức làm cho chúng con ngã gục, thất vọng và xao xuyến. Xin Chúa ban ơn thánh và giúp chúng con luôn biết đáp lại lời Chúa mời gọi: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Xin Chúa nâng đỡ và ban Thánh Thần để chúng con luôn tin nhận Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống của đời chúng con. Amen.
49.Ai biết Thầy là biết Chúa Cha
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
“Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”, thiết tưởng lời thỉnh cầu của ông Philipphê cũng đồng thời diễn tả ước nguyện sâu xa của chính tôi, cũng như của nhiều tín hữu khác qua mọi thời đại. Như biết bao người ‘có đạo’ khác, tôi vẫn đinh ninh rằng mình thật sự tin có Thiên Chúa, và mình có trách nhiệm phải nói, phải chứng minh, phải thuyết phục để mọi người cùng tin rằng thật sự có Thiên Chúa, rằng Thiên Chúa thực sự hiện hữu. Thế nhưng thú thật, khi làm công việc đó tôi thấy mình cần phải là một triết gia, một nhà lý luận hơn là một tín hữu; đồng thời cũng nhận ra rằng, cho dầu có học hành thông minh tới mấy tôi cũng chẳng thuyết phục được mấy người. Nhiều người trong chúng ta đã từng có lần tự vấn: có thật tôi biết, tôi tin cách xác thực Thiên Chúa, như thể tôi đã tận mắt thấy Ngài? Trong thâm tâm biết bao người trong chúng ta vẫn thầm ấp ủ mộng ước một ngày nào đó mình sẽ được ‘thấy’ Thiên Chúa, qua một phép lạ nhãn tiền chẳng hạn, khi Ngài tỏ lộ cách công khai quyền năng và thượng trí khôn ngoan của Ngài.
Cũng thế đối với các môn đệ, cụ thể hai ông Tôma và Philipphê. Biết sâu hơn về Thiên Chúa là ước vọng chính đáng, đồng thời cũng là mục đích của việc các ông đi theo Thầy Giêsu. Chắc chắn các ông đã từng được nghe Thầy nói nhiều về Chúa Cha; tuy nhiên giữa những gì Đức Giêsu trình bày và ý niệm các ông có về Đức Chúa Cựu Ước xem ra chẳng mấy ăn khớp với nhau. Trong thâm tâm các ông vẫn mơ ước một ngày nào đó Đức Giêsu tỏ cho các ông được thấy Chúa Cha trong uy quyền sáng láng, như hình ảnh các ông vẫn có về Ngài. Chỉ như thế các ông mới cảm thấy toại nguyện: “xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha!”
Đức Giêsu tỏ thái độ vô cùng kinh ngạc trước lời thỉnh nguyện này của các ông: “Tại sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” Quả thật Người ngạc nhiên vì vẫn yên trí rằng sự hiện diện trần thế của Người hiển nhiên là để mạc khải Chúa Cha, rằng Người chính là Lời của Cha. Người coi như minh nhiên việc các môn đệ phải hiểu được điều căn bản đó. Vậy mà các ông vẫn hoàn toàn mù tịt! “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà… anh chưa biết thầy ư? Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người… Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha”.
Giai thoại trên cho thấy: có nhiều cách để một người tin hoặc biết về Thiên Chúa. Sơ đẳng nhất là người ta mơ hồ biết rằng có Thiên Chúa; sau đó người ta có thể biết thêm một vài yếu tính của Ngài như Ngài tự hữu, Ngài tạo dựng trời đất, Ngài quyền năng, thông minh, thánh thiện vô cùng… Đầu óc suy luận của con người có thể tiến tới một niềm tin, hay hiểu biết về Thiên Chúa đại loại như thế. Thế nhưng có một thứ ‘biết’ khác, thứ biết mà Kinh Thánh quen sử dụng, biết trong tương quan sống động và mật thiết mà chỉ có tiếp xúc trực tiếp mới có được. Thứ biết này cần một tiếp súc, hay ít ra một cầu nối, và như thế thì chỉ duy nhất một mình Đức Giêsu, Đấng từ cung lòng Thiên Chúa mà đến, mới có thể cho biết được. “Không ai đã lên trời (để mà thật sự hiểu biết được Thiên Chúa), ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống” (Ga 3, 13). Thiên Chúa mà người Kitô hữu tin khác xa một trời một vực với Thiên Chúa của triết học, hay của các tôn giáo khác. Vì thế cho nên, dầu không phủ nhận những khái niệm về Thiên Chúa của người Do Thái đương thời, Đức Giêsu, bằng lời giảng dạy, nhưng nhất là bằng chính cuộc sống và cái chết thập giá của Người, đã tỏ lộ cho các môn đệ thấy một Thiên Chúa vô cùng độc đáo: “Ngài yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một… Ngài không lên án thế gian… nhưng muốn thế gian được cứu độ” (Ga 3, 16-17).
Trong cụ thể, một linh mục như tôi đã bao giờ được ‘thấy’ Thiên Chúa chưa? Hay ít ra tôi đã ‘hiểu biết’ về Ngài như thế nào, cái biết chi phối cuộc sống tôi và làm nền tảng cho những gì tôi trình bày cho giáo dân trong hướng dẫn mục vụ? Rất có thể hình ảnh và hiểu biết tôi có về Thiên Chúa, sau bao năm tu học, vẫn quá nặng tính triết học hay Cựu Ước, chứ chưa phải thực sự là diện mạo mà Đức Giêsu cố tâm trình bày? Tôi vẫn thấy một Đức Chúa hùng mạnh, thưởng phạt công minh vừa dễ hiểu lại vừa thiết thực hơn, nhất là trong việc giữ cho các giáo dân làm lành lánh dữ...; thậm chí đôi lúc tôi còn dám đối kháng chính Đức Giêsu với Cha Ngài khi khảng định cái chết của Người trên thập giá là để làm nguôi cơn thịnh nộ công thẳng của Chúa Cha?! Cái lô-gic hạ đẳng rất nhân cách hóa đó đã bị Đức Giêsu thẳng thắn gạt bỏ, vì nó phá vỡ nội dung Tin Mừng của sứ điệp cứu chuộc của Người: Người và Chúa Cha chỉ là một, không thể bị chia cắt. “Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình. Anh em hay tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy”. Khi khảng định Thiên Chúa là Đấng từ bi và giầu lòng thương xót, chúng ta không ngụ ý chỉ nói riêng về Đức Giêsu, Đấng đã chết trên thập giá để cứu độ chún ta. Cái chết đó là một khảng định hùng hồn: chính Thiên Chúa, toàn bộ Thiên Chúa (Cha, Con và Thánh Thần), là giầu lòng thương xót. Ta nghe biết điều đó qua những lời giảng dạy của Đức Giêsu, tôi đã thấy điều đó trong cái chết thập giá tự hiến của Người, và ta gọi điều đó là Tin Mừng, là niềm tin cất khỏi chúng ta mọi mối sợ hãi, kể cả trong trường hợp ta có lỗi phạm và sa ngã vào những tội tày trời nhất. Thấy và biết một Thiên Chúa như thế sẽ làm cho toàn bộ đời sống ta trở thành một niềm vui bất tận, cho dầu vẫn tồn tại nơi bản thân ta những yếu đuối và thất bại nặng nề. Tông đồ Phao-lô, trong chương 5 thư gửi các tín hữu Rô-ma, khảng định với chúng ta rằng: niềm tin Kitô hữu chính yếu hệ tại ở điều này.
Như thế, là Kitô hữu, tôi không cần cầu xin được thấy Chúa Cha, vì Đức Giêsu đã cho tôi được thấy rồi đó. Người cho tôi được thấy tỏ tường bộ mặt thật của Thiên Chúa qua chính Thập Giá của Người!
Lạy Chúa từ nhân, kể từ lần được thoáng gặp Chúa qua biến cố chết lâm sàng tại Mongolia cuối năm 2007, con mới thực sự được‘thấy’ Chúa, trước hết như một Thiên Chúa giầu lòng từ nhân và hay thương xót. Lẽ ra con đã phải nhận biết điều này từ lâu trước, khi con từng học giáo lý và thần học. Tạ ơn Chúa đã cho con được ‘thấy’ Chúa Cha là như thế. Con cầu xin để tất cả các Kitô hữu đều cùng con cảm nghiệm được Thiên Chúa là như thế, để niềm vui của chúng con được nên trọn vẹn, và để chúng con vui mừng lên đường loan báo Tin Mừng về một Thiên Chúa yêu thương cứu độ cho mọi người. Amen.
50.“Lòng anh em đừng xao xuyến..."
Trước khi rời khỏi thế gian này để về cùng Chúa Cha. Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Lòng anh em đừng xao xuyến...".
Trong Tin Mừng ngày hôm nay viết về ngày thứ Năm Tuần Thánh vào cuối bữa ăn sau cùng của Đức Giêsu. Quả thật bầu khí của nhóm các môn đệ thật bi thương: Đức Giêsu vừa loan báo sự phải bội của Giuđa và y đã đi ra khỏi căn phòng vào đêm tối bên ngoài (Ga 13,21-30)... rồi Đức Giêsu bảo rằng Người sẽ ra đi và nơi Người đi, các bạn hữu Người không thể theo được (Ga 13,31-36)... sau cùng, đầy nỗi lo sợ, Đức Giêsu báo trước cho Phêrô rằng ông sẽ chối Người "ba lần" trong đêm hôm ấy trước khi gà gáy (Ga 13,37-38)... Như thế, người ta biết được sự xao xuyến kinh hoàng đang xiết chặt mọi tâm hồn và tư tưởng các môn đệ.
Trong đời sống của chúng ta cũng thế có chăng giờ phút sự sợ hãi kinh hoàng ập xuống trên chúng ta: một tương lai bấp bênh, một thiệt hại không vượt qua được, những suy sụp của tuổi già, một căn bệnh không thể chữa khỏi. Và còn có những sợ hãi tập thể: sự thất nghiệp, bạo lực, nạn nhân mãn, nạn đói, sự ô nhiễm môi trường, những nguy cơ của nguyên tử. Và trong bối cảnh khủng hoảng ấy, những câu hỏi nghiêm trọng mà mọi tín hữu chân chính phải đặt ra: Những giá trị cao cả của con người chẳng phải đang bị xoá nhòa đó sao? Nhân loại ngày mai sẽ tin vào điều gì? Và một ngọn gió hoảng sợ cũng xâm chiếm những tín hữu mạnh mẽ nhất và người ta lẩm bẩm rằng trong Giáo Hội cũng không có gì là ổn cả.
Chính trong bối cảnh nhân loại như thế mà tính lạc quan không gì thắng nỗi của Đức Giêsu bùng lên như một ngọn lửa nồng nàn, cháy sáng trong đêm tối! Chỉ còn mấy giờ nữa Người phải lên thập giá thế mà Người đã cố sức vực dậy tinh thần của các bạn hữu của Người: "Lòng anh em đừng xao xuyến!”. Chúng ta hãy lắng nghe những lý do Người sẽ đưa ra để chúng ta không bao giờ còn sợ nữa, về bất cứ điều gì.
"Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy".
Đức Giêsu yêu cầu các bạn hữu bang xao xuyến của Người hướng cái nhìn về một hướng duy nhất: Đức tin thâm sâu xa của Đức Giêsu, vượt qua mọi nỗi sợ hãi không dựa trên sức người, nhưng dựa trên Thiên Chúa. Tất cả, không chừa môt ai đều có thể suy sụp, chỉ có Đức Giêsu nắm giữ sự trợ giúp siêu nhiên nằm bên ngoài ảnh hưởng của mọi sức mạnh phá hoại. Cái chết cũng không thể phá hủy sự bình an của Người: Sự bình an của Người không do sức con người mà do Thiên Chúa! Vả lại, chúng ta nhận thấy rằng Đức Giêsu đòi hỏi đối với bản thân một thái độ đức tin mà người ta có thể có đối với Thiên Chúa. Tính duy lý của con người vỡ tung như một nhân nguyên tử, dưới sức ép khó quan niệm nổi của cái vô cùng thánh thiêng: Làm thế nào mà Đức Giêsu vốn là Thiên Chúa lại có thể nói về Thiên Chúa như một Đấng khác mình? Và điều đó mang lại công thức làm ngạc nhiên: “Hãy tin vào THIÊN CHÚA... Hãy tin vào THẦY…” Vậy thì Người là ai để nói như thế?
"Trong nhà Cha của Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em".
Phải, đó là mầu nhiệm không thể hiểu thấu của Nhập Thể Đức Giêsu với tư cách con người, phân biệt không ngừng với Thiên Chúa! Người nói về Thiên Chúa như thể đó là một Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối). Người nói về Chúa Cha. Không bao giờ Đức Giêsu hướng cái nhìn của con người về chính mình. Không bao giờ Đức Giêsu lôi kéo sự tôn kính hay thờ phượng về bản thân Người: Người hoàn toàn hướng về một Đấng Khác... và Người muốn xoay hướng chúng ta về Đấng Khác ấy. Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng mà chưa có ai đã từng trông thấy, tức là Chúa Cha. Như thế, Đức Giêsu đối diện với cái chết của Người, sự ra đi khỏi thế gian này, như một sự trở về nhà mình: Người sẽ tìm lại nơi đó một Đấng mà Người yêu mến và mến yêu Người. Đức Giêsu biết mình được yêu.
Sau những lời làm vỡ tung lý trí, giờ đây là những lời hoàn toàn thân mật, những lời thường nói mỗi ngày: nhà, chỗ ở, dọn chỗ...
Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy”.
Đây là những lời dịu đàng không tả nổi: "Đem về với Thầy... trở lại …” Thiên Chúa tất nhiên là Đấng Hoàn Toàn Khác không thể đạt đến được nhưng cũng là Đấng Rất Thân Thiết. Chúng ta không có một Thiên Chúa dửng dưng và lãnh đạm, nhưng là một người Cha đầy tình âu yếm, một người Anh để cho những nỗi lo sợ của chúng ta làm thương tổn và Người nói với chúng ta những lời an ủi và thân ái.
"Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó".
Chúng ta chớ lướt qua nhanh quá trên những lời xem ra có vẻ đơn giản và thân mật một cách ngây thơ. Có cả một thần học được diễn tả xuyên qua mạc khải ấy. Khi dám nói rằng “Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó". Đức Giêsu mở ra cho nhân loại một viễn cảnh có âm vang vô tận, siêu nhân, siêu nhiên: Chính "đời sống thánh thiêng" được ban chúng ta. Mục đích của con người không còn ở trong con người, mà ở trong Thiên Chúa? Nhân loại đi về hướng có Đức Giêsu ở đó. Con người đã được lập trình để trở thành "như Thiên Chúa". Người ta hiểu được lời Người nói: “Lòng anh em đừng xao xuyến!".
“Và Thầy đi đâu thì anh em biết đường rồi". Ông Tôma nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?”.
Đây là một điệp khúc: "Thầy đi "chúng con không biết Thầy đi đâu...". Đó là câu hỏi nền tảng của nhân loại mà Tôma dũng cảm đặt ra nhân danh chúng ta. Chúng ta sẽ đi về đâu? ý nghĩa, mục đích sau cùng của đời sống là gì? Có cái gì sau khi chết?
Đức Giêsu đáp: "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy”.
Đối với Đức Giêsu, chân trời không bao giờ bị ngăn chặn, gây ra sự tuyệt vọng.
Đối với người tin, ai chấp nhận lời Đức Giêsu, lịch sử sẽ có một ý nghĩa, đời sống sẽ không còn phi lý nữa. Đức Giêsu là "người mở đường", Người đã mở ra một lối thoát cho các hữu hạn và cho đăc tính phải chết của con người. Không có Đức Kitô con người bị giam hãm trong những giới hạn của mình. Với Người, và chỉ với Người, như Người khẳng định có một con đường không dẫn tới cái hố đen của nấm mộ, nhưng về "nhà của Chúa Cha".
“Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng sẽ biết Cha của Thầy. Ngay từ bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người “.
Câu này của Thánh Gioan là một câu làm hiện ra tính không thể diễn tả của Thiên Chúa, sự "mạc khải” này vẫn còn một phần "không thể quan niệm được": ánh sáng... nhưng vẫn còn một thứ ánh sáng của đêm tối... ánh sáng của đức tin.
Thật vậy, câu này gồm hai khẳng định bề ngoài trái ngược nhau: Anh em cũng (sẽ) biết Cha của Thầy (ở thì tương lai)... bây giờ, anh em biết Người (thì hiện tại).
Rõ ràng là Thiên Chúa không hiển nhiên và thật ra, chúng ta không biết Người. Người ta cũng có thể nói rằng chúng ta hiểu được Người! rõ ràng có một thứ hồ nghi. Không chắc chắn đã xuất hiện trong câu hỏi của Tôma: chúng con không biết...". Tính cảnh của chúng ta hiện nay đúng là như thế. Có thể một ngày nào dó, chúng ta sẽ biết Thiên Chúa. Sự vô tri về Thiên Chúa hôm nay, sẽ biến đổi thành tri thức, như lời Đức Giêsu nói: Anh em sẽ biết Người! Vả lại trong Đức Giêsu, sự hiện diện vô tri của Thiên Chúa chịu một "cú sốc của tương lai" đến độ những thực tại phải đến đã trở thành hiện tại: "Ngay từ bây giờ, anh em biết Thiên Chúa và đã thấy Người?". Có thể nói rằng, bằng một cảm thức siêu nhiên, tướng lai được tiên cảm trong hiện tại đối với những người tin Đức Giêsu: thời sau hết đã ở đó, mặc dù chưa hoàn tất. Giáo Hội, nơi cư ngụ của các tín hữu đã trở thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa ở giữa con người" (Khải Huyền 21,3). Một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một sự hiểu biết nào đó về Chúa Cha, còn bây giờ chúng ta đã hiểu biết Chúa Cha qua bức màn của đức tin. Đó là điều mà các nhà thần học gọi là cánh chung? tương lai được cảm nghiệm trước trong lòng của các tín hữu trong Đức Giêsu Kitô.
Ông Philípphê nói: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện". Đức Giêsu trả lời: "Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao?”.
Mới rồi, chúng ta vừa nghe Đức Giêsu phân biệt Người với Chúa Cha. Giờ đây Người đồng hóa với Chúa Cha. Đức Giêsu đi về với Chúa Cha, Người là con đường dẫn đến Chúa Cha và đồng thời, Người ở trong Chúa Cha và ai thấy Đức Giêsu là thấy Chúa Cha. Đức Giêsu là một con người, nhưng một con người "chứa đầy Thiên Chúa" một con người Thiên Chúa! Chúng ta phải để những từ có vẻ đơn giản ấy thấm nhuần chúng ta: "Thầy ở trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở trong Thầy... Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy...".
Phải, có một con người là Giêsu Nagiarét, sống cách nay hai ngàn năm trong một tổng nhỏ ít người biết đến của Đế quốc La Mã, một con người bằng xương bằng thịt đã đứng trên đôi chân của mình và trên một miền đất xác định, đất Israel, một con người có những bạn hữu, một con người ăn uống như mọi người... một người sắp chết như mọi người... và con người này lúc này đây hiệp thông với Thiên Chúa và đồng nhất với Thiên Chúa và hoàn toàn không là một kẻ điên. Một con người quân bình tột bậc, khiêm tốn, không tham vọng và kiêu ngạo: một con người vừa mới quỳ gối trước các bạn hữu để rửa chân cho họ như một tôi tớ bình thường vào thời đó... đồng thời giao nộp thân thể tan nát, và đã đổ máu ra vì họ.
"Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy chính Người làm những việc của mình. Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy, bằng không thì hãy tin vì chính các việc kia vậy. Thật Thầy bảo thật anh em ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc. Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha".
Thiên đàng không phải là môt sự chạy trốn vào một giấc mơ của tương lai hoang tưởng. Thiên đàng không phải một miếng đường được hứa ban cho sau này để bỏ qua chua cay hiện tại. Thiên Chúa không phải là một thứ thuốc phiện dùng để ru ngủ những đau khổ cho một cuộc đời đời.
Một thiên đàng đã bắt đầu và được cảm nghiệm bởi những người "làm những việc Đức Giêsu làm": Có một cách nào đó để suy nghĩ, để chọn lựa, để gặp gỡ Thiên Chúa và con người, một cách sống nào đó công chính là cách sống của Đức Giêsu.
51.Đường hy vọng
Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu? Nếu có một câu hỏi nào thường được các môn đệ đặt ra thì đó phải là câu hỏi thuộc về nơi chốn.
Thực vậy, thuở ban đầu, lúc mới gặp Chúa, các ông đã hỏi:
- Thưa Thầy, Thầy ở đâu?
Và rồi Chúa Giêsu đã trả lời:
- Hãy đến mà xem.
Trước bữa tiệc ly, các ông muốn biết một địa chỉ, một nơi chốn chính xác để mà chuẩn bị, nên đã hỏi Chúa Giêsu:
- Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con ăn lễ vượt qua ở đâu?
Và hôm nay trước một tương lai còn mù mờ và bấp bênh, Tôma đã hỏi Chúa:
- Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường đi.
Sở dĩ các ông bận tâm về nơi chốn là vì trong quãng đời theo Chúa, các ông luôn được dẫn vào những cuộc hành trình, nay đây mai đó, không có một địa chỉ, một nơi chốn cố định:
- Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người thì không có cả chốn để mà tựa đầu.
Còn cuộc hành trình cuối cùng lại là cuộc hành trình tiến về Giêrusalem để chứng kiến Thầy mình chịu chết trên thập giá. Các ông đã coi đây là con đường thất bại của Chúa Giêsu, đồng thời đã trở nên con đường tuyệt vọng cho các ông. Mấy năm dài miệt mài theo Chúa những mong có ngày tả hữu vinh quang, nào ngờ Ngài lại bị đóng đinh như một tên tử tội… Đúng là dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.
Khi mọi vốn liếng hy vọng đặt cả vào canh bạc cuộc đời, rồi bỗng dưng lật ngửa trắng tay. Các ông như từ trên cao rớt xuống. Hụt hẫng, chới với, chao đảo. Ước mơ bị sụp đổ, các ông như người bị phá sản. Thế mới hay mơ ước thì to lớn, nhưng khung đời lại chật hẹp. Mơ ước thật nhiều mà thực tế chẳng được bao nhiêu, nhiều lúc còn cay đắng phũ phàng.
Thầy đi đâu? Đằng sau câu hỏi này là tâm trạng hoang mang bất ổn trước một dĩ vãng vừa mới khép lại mà tương lai thì chưa kịp mở ra. Tương lai ấy hoàn toàn đổi mới hay chỉ là một dĩ vãng được lặp lai nơi chính bản thân mình. Đã một lần vỡ mộng, các ông băn khoăn là chuyện thường tình. Giống như đứa trẻ lỡ một lần bị phỏng, hễ thấy lửa, là tự nhiên rụt tay lại. Vì thế trong câu hỏi: Thầy đi đâu? Cũng nói lên nỗi âu lo rằng mình sẽ đi đâu? Thất vọng về dĩ vãng. Hoang mang trước tương lai đó là con đường các tông đồ đã nếm trải.
Thế nhưng, mở đầu đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã khuyên nhủ các ông:
- Các con đừng xao xuyến.
Đó là một lời an ủi, mở ra một con đường mới, tràn ngập hy vọng và tin yêu. Thực vậy, Chúa Giêsu nói tiếp:
- Thầy đi để dọn chỗ cho các con.
Và như thế một tương lai đã được hé mở. Tương lai ấy không còn xa xôi, nhưng đã bén rễ ngay từ cuộc đời này. Sống hiện tại là chuẩn bị cho tương lai. Ngày mai đang bặt đầu từ hôm nay. Hay nói cách khác, cuộc sống trong nước trời phải được chuẩn bị, phải được định hình ngay từ bây giờ.
Đi trong hy vọng là nhận ra rằng con người được tạo dựng để hướng tới một mục đích, chứ không phải sống một cách vất vưởng, như thuyền không lái, như ngựa không cương. Và mục đích chúng ta cần phải đạt tới là chính Thiên Chúa trong niềm hạnh phúc bất tận.
Để kết luận, tôi xin mượn lời cầu nguyện của thánh Augustinô:
- Lạy Chúa, Chúa dựng nên con là để cho Chúa, nên con luôn khắc khoải, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa.
52.Hãy tin vào Thầy
Cuộc sống của mỗi con người là một cái gì đó mong manh, dễ vỡ. Nhìn vào viễn cảnh của xã hội lại càng thấy bấp bênh cho số phận của mỗi con người. Một thế giới đầy những biến động của chính trị, bạo lực; một thế giới đầy những toan tính đầy những nguy cơ đẩy con người ta đến chỗ phải tận diệt. Trước những diễn tiến như thế, con người tự đặt câu hỏi cho chính mình: Cuộc sống con người có ý nghĩa gì? Con người rồi sẽ ra sao hay cũng chỉ chỉ là được tồn tại nơi cõi dương gian này một thời gian rồi lại biến mất trong hư vô? Nếu có cõi sống trường sinh thì con người có thể làm gì cho mình trong cõi sống vô biên ấy?...
Đoạn Tin Mừng mà Giáo hội cho chúng ta suy niệm ngày hôm nay nằm trong bối cảnh sau khi Chúa Giêsu tiên báo Người sẽ chịu sự phản bội, chịu đau khổ và sẽ chịu chết...Nghe nói thế các môn đệ đầy phân vân xao xuyến. Sao mà không xao xuyến được, một người thầy đầy quyền năng trong lời nói và hành động lại có thể chịu những sự âý hay sao? Chúng ta (những môn đồ) lâu nay theo Thầy Giêsu, nay Thầy bảo rằng phải đi xa rồi chúng ta sẽ theo ai, sẽ làm gì cho tương lai của mỗi người chúng ta?... Với những tâm tình đó các môn đệ xao xuyến, sợ hãi. Chúa Giêsu thấu hiểu tâm trạng của các môn đệ nên Chúa Giêsu nói "Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy..." (Ga14, 1). Anh em (các môn đồ) đừng xao xuyến bởi hãy nhìn vào những việc Thầy làm từ lúc khởi đầu hành trình rao giảng cho đến bây giờ, Thầy có đủ quyền năng để làm mọi sự, nhiều lần người Do thái định giết Thầy nhưng họ không làm gì được Thầy bởi "Giờ Thầy chưa đến"(Ga2, 4), nhưng cuộc ra đi này là Thầy tự hiến, Thầy đi dọn chỗ cho anh em, Thầy đi trước để đưa anh em đi theo Thầy...Còn tâm tình nào sâu lắng mặn nồng, đầy tình cảm hơn tình yêu Chúa Giêsu đã dành cho các môn đệ cũng là cho mỗi người chúng ta. "Anh em đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy..." đó là câu nói mà Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay. Đừng xao xuyến nhưng hãy đặt nền tảng cuộc đời của mình trên quyền năng và sự hướng dẫn của Thiên Chúa, đừng xao xuyến bởi Chúa có đủ quyền năng để thực hiện trong mỗi người chúng ta những sự việc lớn lao ngoài sự tưởng nghĩ của chúng ta.
Chúng ta đang sống trong mùa Phục sinh, chúng ta mừng mầu nhiệm Chúa sống lại. Chúa Giêsu sống lại chứng tỏ rằng Ngài là Thiên Chúa thật và là Đấng cứu độ trần gian. Chúng ta có diễm phúc hơn các tông đồ xưa vì đã xác tín Đức Giêsu đã chết và sống lại thật. Tin vào Đức Giêsu phục sinh cho ta biết được rằng những lời Ngài nói, những việc Ngài làm đều mang lại giá trị cứu độ bởi đó là hành động của chính Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu phục sinh cho ta một niềm hy vọng lớn lao rằng chúng ta cũng sẽ được phục sinh như Ngài, cuộc đời chúng ta không là vô nghĩa, cuộc sống của chúng ta không là vô vọng mà mở ra một viễn cảnh đẹp, tốt lành trong Đức Kitô phục sinh.
Như thế cuộc sống của con người đầy những ý nghĩa, vì sự sống là do chính Đức Giêsu đã chuộc lấy bằng máu mình, cuộc sống không là "đoản hậu" bởi chúng ta có sự sống bất diệt trong Đức Kitô. Cho dù cuộc sống có những biến chuyền, cho dù cuộc sống đầy những cam go... nhưng với niềm tin tưởng vào Thiên Chúa và nơi Đức Giêsu chúng ta tin chắc rằng tất cả đều nằm trong sự quan phòng đầy yêu thương của một Thiên Chúa quyền năng. Khi biết tin tưởng phó thác như thế thì cũng là lúc ta đang xây dựng cho mình một cuộc sống vĩnh cửu trong tình thương Thiên Chúa, như là Đức Giêsu đã nói: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống." (Ga 8,12)
53.Chúc thư của Chúa Kitô
Chắc chắn rằng nhiều người trong chúng ta còn nhớ rõ chuyện vui đã đọc được từ nhỏ về những người mù đi xem voi, xem xong họ kể lại và bênh vực lập trường riêng của mình về con voi như thế nào. Những người đứng bên cạnh sờ vào lưng con voi thì nhất định bảo nó giống như một bức tường. Anh mù sờ vào ngà voi thì cho con voi giống như một ngọn đao nhọn. Người sờ vào răng voi thì bảo con voi giống như một thanh kiếm ngắn. Người sờ vào chân thì bảo con voi giống như một cây cột nhà. Người sờ vào lỗ tai thì quả quyết con voi giống như cái quạt mo.
Chúng ta có thể nói rằng, không ai nói đúng trọn vẹn về con voi và ngược lại không ai có thể nói là sai hoàn toàn, mỗi anh mù đều bị giới hạn và chỉ mô tả con voi dựa theo kinh nghiệm riêng của bản thân, không thể nào nhìn thấy được trọn vẹn con voi như thế nào.
Khoảng cách giữa con người chúng ta và thực tại mầu nhiệm Thiên Chúa là hết sức trổi vượt biết bao nhiêu ngàn lần khoảng cách giữa con voi và người mù sờ nó. Nếu chúng ta muốn biết về Thiên Chúa như thế nào mà chỉ cậy dựa vào khả năng riêng của con người phàm trần, chắc chắn những gì chúng ta hiểu biết và nói về Thiên Chúa thì không biết bao nhiêu lần tệ hơn những lời mô tả của những anh mù xem voi. Chúng ta khao khát hướng về Thiên Chúa, muốn hiểu biết về Ngài vì chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài, nhưng tự sức mình chúng ta không thể thỏa mãn được khát vọng sâu xa này, chúng ta cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta cần đến mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta cần chính Thiên Chúa đến chỉ đường mạc khải cho chúng ta biết về Ngài, chỉ cho chúng ta biết con đường trở về với Ngài: "Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ, chỉ Con Một Ngài Đấng hằng ở cùng Thiên Chúa", chỉ Con Một Ngài mới có thể mạc khải cho chúng ta biết chắc chắn mà thôi.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta được dịp nghe lại những lời quả quyết hết sức quan trọng của Chúa Giêsu: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy, và ai nhìn thấy Thầy là nhìn thấy Cha Thầy, nếu các con biết Thầy thì cũng biết Cha". Thiên Chúa đã nhập thể, đã chấp nhận cuộc sống con người, đã dùng những hình ảnh con người, đã sử dụng những ngôn ngữ của con người có giới hạn để mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa Cha là ai và con đường nào phải đi để trở về với Ngài mà không bị lạc lối.
Chúa Giêsu Kitô đã trở thành hình ảnh của Thiên Chúa Cha cho tất cả mọi người chúng ta, Ngài đã đến để mạc khải sự thật của Thiên Chúa Cha cho chúng ta, và Ngài đến để hướng dẫn chúng ta, để đưa chúng ta trở về cùng Thiên Chúa Cha, trở về với Ngài vì Ngài hằng ở cùng Cha và Ngài cũng muốn cho mỗi người chúng ta đến xin trở thành hình ảnh của Ngài cho anh chị em xung quanh. Chúng ta có hãnh diện về hồng ân Chúa ban cho và đồng thời khiêm tốn ý thức về trách nhiệm của mình, của mỗi người chúng ta để trở thành hình ảnh của Thiên Chúa cho anh chị em xung quanh, trở thành có thể nói được là con đường để anh chị em đi về cùng Thiên Chúa, để trở thành lời mời gọi anh chị em trở về với Thiên Chúa.
Xin Chúa hướng dẫn và biến đổi mỗi người chúng ta mỗi ngày một trở nên hình ảnh đích thực của Thiên Chúa nhiều hơn, để giúp nhau sống đức tin về Chúa, đức tin mà chúng ta đã tuyên xưng.
54.Hoàn toàn đúng
Có câu chuyện kể rằng hai người đàn ông sống trong một ngôi làng nhỏ nọ, hai người ấy đã đấu khẩu với nhau cách kịch liệt nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề của họ; thế là họ quyết định đi hỏi ý kiến của một người có tiếng là khôn ngoan nhất làng. Người thứ nhất đến nhà người khôn ngoan đó kể hết câu chuyện của mình xong liền hỏi: "Thưa ông, ông nghĩ sao?" Người khôn ngoan trả lời: " Ông đúng hoàn toàn". Rồi người thứ hai cũng đến và kể câu chuyện xảy ra giữa họ rồi hỏi như người thứ nhất, và câu trả lời của người khôn ngoan đó cũng là: "Ông hoàn toàn đúng". Sau khi khách đã về thì bà vợ của người khôn ngoan đó mới trách chồng: "Sao ông có thể trả lời như vậy được. Hai người họ kể hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau mà ông lại nói cả hai hoàn toàn đúng. Điều ấy thật vô lý, cả hai người không thể cùng hoàn toàn đúng được!" Người khôn ngoan cũng trả lời cho bà vợ: "Bà hoàn toàn đúng!"
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ: "Các con đừng để lòng mình bị bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa... và tin vào Thầy... Thầy bảo thật cùng các con, bất cứ ai tin vào Thầy thì sẽ làm được các việc Thầy đã làm" (Jn 14:1,12).
Các bạn nghĩ sao? Các bạn có tự nói với mình là Chúa Giêsu đúng hoàn toàn không? Hay các bạn chưa thật sự để tâm lắng nghe lời Ngài? Lời của Chúa có phải như gió thoảng qua tai?
"Đừng để lòng trí các con bị bối rối. Hãy tin vào Thiên Chúa... và tin vào Thầy". Điều quyết định quan trọng nhất trong cuộc đời các bạn đó là sự quyết định hoàn toàn tin tưởng và phó thác thác trong Chúa Tình Yêu là Đấng đã dựng nên các bạn và muốn các bạn thuộc trọn về Ngài. Khi các bạn tới đây cùng chia sẻ tham gia việc thờ phượng của cộng đoàn này là các bạn đã tiến một bước ra khỏi chính mình. Đó chính là lý do tại sao các bạn lại tới đây. Các bạn muốn biểu lộ niềm tin và cậy trông của mình vào Thiên Chúa Chí Thánh; và đó cũng là một phần của tất cả sự tôn thờ Thiên Chúa. Nhưng khi các bạn làm một việc ra khỏi chính mình như vậy thì trước hết các bạn đã làm một việc hết sức quan trọng là đi vào chính nội tâm mình để tìm thấy Thiên Chúa Tình Yêu đang thật sự hiện diện trong tâm hồn các bạn chưa nhỉ? Một Thiên Chúa Ân Sủng thật đang hiện diện trong thẳm sâu tâm hồn các bạn ngay lúc này đây-- Ngài muốn xuất hiện qua bạn, muốn gợi lại trong bạn lời nói: "Chúa Giêsu đúng hoàn toàn!" Tôi phải tin, phải phó thác mọi sự nơi Ngài!
"Bất cứ ai tin vào Ta đều có thể làm được những việc Ta đã làm", đó chính là những lời Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ trong bài Tin Mừng hôm nay. Hay nói một cách khác là: "Nếu các con thật sự tin vào Thầy thì các con sẽ tín thác nơi Thầy, sẽ phó thác mạng sống con cho Thầy, và con sẽ làm tất cả những gì Thầy dạy con làm-- con sẽ làm những gì chính Thầy đã làm". Là một Kitô hữu trưởng thành thì chúng ta phải hiểu rằng Thánh Ý Chúa luôn luôn tuyệt đối đúng cho chúng ta. Ví dụ như khi Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về thánh ý Chúa Cha trong tình thương xót và tha thứ. Thánh Phêrô hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, khi anh em xúc phạm tới con thì con phải tha cho họ bao nhiêu lần? Có phải bảy lần không?" Chúa Giêsu trả lời: "Không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy" (Mt 18:21-22). Ý Chúa Giêsu muốn chúng ta phải tha thứ cho người khác không giới hạn trong việc thi hành lòng thương yêu và tha thứ. Chúa Giêsu đã giải thích cho Thánh Phêrô đó là Vương Quốc Thiên Chúa được xây trên nền tảng thương yêu và tha thứ vô giới hạn.
55.Đi trên con đường Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Phúc Âm Thánh Gio-an chương 14 là lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ. Nó có cấu trúc xoay quanh cuộc trở về với Chúa Cha của Chúa Con và vai trò độc nhất của Chúa Con trong việc đưa dẫn các môn đệ về với Chúa Cha.
Tô-ma và Philípphê đã hỏi Chúa 2 câu và Chúa đã mạc khải 2 chân lý hết sức quan trọng:
- Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy.
- Ai thấy Thầy là thấy Cha; Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy.
Chỉ có thể đạt tới Cha khi chúng ta đi theo Đấng tự nhận là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và cũng không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà lại không do Thánh Thần. Hiểu biết đích thực về Cha và Con mang dấu ấn Thánh Thần. Chính trong Thánh Thần mà Thiên Chúa là Cha và Đức Giêsu là Con (x. Gm. Bùi Văn Đọc, Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, trang 184). Thiên Chúa mà mọi tín hữu tôn thờ và yêu mến hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn, chính là Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Giêsu Kitô "Ai thấy Thầy là thấy Cha" (Ga 14, 9) vì "Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy" (Ga 14, 10).
Toàn bộ Lịch Sử Cứu Độ được xây dựng trên tương quan Cha - Con "Chúa Cha yêu Chúa Con". Hai chữ Tình Yêu là cách diễn tả sâu thẳm nhất tương qua Cha- Con. Tình yêu đó được Chúa Giêsu thể hiện qua đời sống nhân hậu, bao dung vô bờ của Ngài. Lời nói việc làm của Ngài chính là lời nói việc làm của Chúa Cha (Ga 14, 10). Toàn bộ cuộc đời của Ngài được Chúa Cha chiếm ngự. Ngài như tấm gương trong suốt phản chiếu khuôn mặt và trái tim Chúa Cha.
Chúa Giêsu dạy cho chúng ta biết về Chúa Cha bằng nhiều cách: bằng lời nói, bằng việc làm, nhưng nhất là chính phận làm Con. Nhiều lần và bằng nhiều cách khác nhau, Đức Giêsu đã nói với con người về Thiên Chúa là Cha, Đấng mà họ phải tin tưởng phó thác (Mt 6, 32), noi gương (Mt 5, 45-48), nguyện cầu (Lc 11,2), phải tôn thờ vì Ngài là Chúa trời đất (Mt 10,28), là Cha đầy quan tâm ân cần (Mt 6, 25-32) và đặc biệt gần gũi với những kẻ tội lỗi (x. sđd tr. 191).
Điều kỳ diệu và tuyệt vời là chính Đấng Tuyệt Đối, Đấng Toàn Năng, Cao Cả, Chí Thánh Chí Tôn và Hằng Hữu đã có thể trở thành tương đối, thấp hèn, bạn với quân thu thuế với phường tội lỗi, cuối cùng phải chết khổ hình. Nơi Đức Giêsu, sự uy nghi của Thiên Chúa tỏ hiện trong khiêm tốn và yếu đuối cách nghịch thường. Điều đó sự khôn ngoan của bậc hiền triết không lý giải được, nhưng nói như Pascal, trái tim lại hiểu được vì nó có lý lẽ riêng của nó.?Thiên Chúa của Đức Giêsu không phải là Thiên Chúa ngự trên toà cao cho người ta sấp mình thờ lạy mà không dám nhìn đến tôn nhan, không dám gọi tên mà chỉ dám cầu xin với niềm sợ hải. Thiên Chúa của Đức Giêsu dễ gần, dễ thấy, dễ quen. Thiên Chúa hiện diện nơi con người Đức Giêsu khiêm hạ. Chính Ngôi Lời làm người đã chọn máng cỏ làm tổ ấm lúc chào đời, đã chọn xóm làng Na-da-rét làm nơi sinh sống, đã chọn những kẻ thấp hèn trong xã hội làm bầu bạn, đã quỳ gối rửa chân cho các Môn Đệ, rồi chọn cây thập giá làm giường khi chết cùng với hai kẻ cướp làm bạn đồng hành đi vào thế giới bên kia. Thiên Chúa làm người đã chọn nhà Da-kêu để tạm trú, chọn người thiếu phụ Sa-ma-ri để gặp gỡ đối thoại, đã chấp nhận cử chỉ biết ơn của người phụ nữ tội lỗi Ma-đa-lê-na, đã chọn kẻ trộm lành làm ứng viên đầu tiên vào Thiên Đàng, đã chọn Phao-lô kẻ bắt bớ Giáo hội làm Tông Đồ Dân Ngoại...
Quả thật Thiên Chúa của Đức Giêsu chẳng giống tí nào với Thiên Chúa các đạo binh của Ít-ra-en. Người Do-thái nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ về phe với dân Người chọn, chỉ bênh vực những người Do-thái ngoan Đạo và lên án nguyền rủa, trừng phạt các dân ngoại cùng người tội lỗi. Thiên Chúa của Đức Giêsu không về phe với kẻ cầm quyền độc ác, người giàu có ích kỷ hay người đạo đức giả. Vì thế các bậc kinh sư, tư tế, kỳ lão trong dân không chấp nhận Thiên Chúa ấy mà trái lại họ đã giết Đức Giêsu để bảo vệ Thiên Chúa của họ. Họ đã giết Đấng Thánh để bảo vệ đền thờ, đã chà đạp và xoá bỏ "hình ảnh Thiên Chúa vô hình" (Cl 1, 15) để bảo vệ Thiên Chúa của lề luật.
Thiên Chúa của Đức Giêsu, Thiên Chúa của chúng ta cũng không phải là Thiên Chúa của các triết gia, không phải là Thiên Chúa của các nhà du hành vũ trụ tìm kiếm mà là Người Cha nhân hậu, từ bi, đầy lòng thương xót. Người chỉ muốn lòng nhân chứ không cần lễ tế. Người không phải là Người Cha nghiêm khắc độc đoán, Người Cha dễ tính xuề xoà mà là Người Cha yêu thương, tha thứ. Một Người Cha chuẩn bị sẵn sàng quần áo, giày dép, nhẫn đeo tay và vỗ béo con bê chờ sẵn đứa con hoang đàng trở về và hơn thế nữa còn ra ngoài ngóng trông rồi vui sướng tiến về phía con đón nó vào lòng hôn lấy hôn để (Lc 15, 11-32). Lòng nhân hậu được tỏ bày khi tha thứ. Thánh Phao-lô là người cảm nhận sâu xa lòng từ bi, nhân hậu, thứ tha ấy (2 Cr 3, 7-11).
"Thiên Chúa không ai thấy bao giờ, Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Người đã thông tri" (Ga 1,18). Con người có thể biết Thiên Chúa qua công trình sáng tạo và lịch sử cứu độ, nhưng chưa ai thấy khuôn mặt Ngài. Chính Chúa Con tỏ bày cho nhân loại biết sự thật sâu xa của Thiên Chúa "Ai thấy Thầy là thấy Cha". Qua cuộc sống và lời giảng dạy, Chúa Giêsu đã chỉ cho nhân loại thấy Chúa Cha, một Thiên Chúa là Cha nhân hậu từ bi, đầy lòng xót thương, tha thứ và còn hơn thế nữa Chúa Giêsu là Con đường độc nhất dẫn đến Cha "Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy" (Ga 14, 6). Mọi con đường cứu độ đều phải đi vào Con Đường Giêsu. "Thiên Chúa không ban một danh nào khác dưới bầu trời, để nhờ danh đó mà chúng ta được ơn cứu độ" (Cv 4,12). Nhân loại được cứu độ nhờ Danh Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã về với Chúa Cha trong vinh quang Phục Sinh, sau khi đã sống một đời yêu thương tự hiến. Cuộc đời Đức Giêsu trở thành con đường cho chúng ta đi. Đọc và suy niệm Tin Mừng trong tin yêu, Chúa sẽ dạy chúng ta nghĩ gì, nói gì, làm gì. Khi đi vào con đường Chúa đã đi qua chúng ta cũng trở nên nẻo đường cho anh chị em mình, nẻo đường dẫn lối về Thiên Chúa là Cha yêu thương.
56.Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành
Chi Tiết Hay
Đoạn Phúc Âm này trích dẫn lời Chúa Giêsu trong buổi tiệc ly với mười hai tông đồ. Trước đoạn này là việc Chúa rửa chân cho các môn đệ và Chúa răn dạy một giới răn mới là "Hãy thương yêu nhau..."
Trong buổi tiệc ly, Chúa Giêsu đã biết ai là kẻ phản bội và đã lên án người ấy. Tuy nhiên khi Chúa nói cùng các môn đệ là Người sẽ đi về nhà Chúa Cha để dọn chỗ cho các môn đệ thì Giuđa đã rời khỏi bàn tiệc.
Trong phúc âm của Thánh Gioan, Chúa Giêsu nhắc đến Chúa Cha nhiều lần như một người rất năng quyền. Nhưng chỉ trong buổi tiệc ly, các tông đồ mới thật sự hỏi Chúa Giêsu về Chúa Cha.
Một Điểm Chính
Chúa Giêsu báo trước là Người sẽ đi khỏi thế gian để dọn chỗ cho các môn đệ trong nhà Chúa Cha. Chúa Giêsu chính là đường, là sự thật và là sự sống, chỉ qua Chúa Giêsu chúng ta mới có thể nối kết được với Chúa Cha.
Suy Niệm
Hãy hình dung bạn đang dự buổi tiệc ly cùng Chúa Giêsu và các môn đệ. Khi ấy bạn sẽ nghĩ gì? Thái độ của bạn ra sao? Bạn có đặt câu hỏi là Chúa sẽ đi đâu và tại sao Người lại ra đi không?
Thánh Tôma hỏi: "Chúng con không biết Thầy đi đâu thì làm sao chúng con biết được đường đi?" Nếu Thánh Tôma hỏi tôi, tôi sẽ trả lời như thế nào?
Chúa Giêsu nói rằng Ngài đi dọn chỗ cho tôi ở nhà Chúa Cha. Vậy tôi phải chuẩn bị như thế nào để được Người tiếp đón?
Giữa Đức Chúa Cha và Chúa Giêsu, có một liên hệ đầy thương yêu, trung tín, và mật thiết. Còn liên hệ của tôi với Chúa thì sao?
Chúa Giêsu nói: "Nếu con biết Ta, con cũng biết Cha Ta." Tôi biết Chúa đến chừng nào?
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam