Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 60

Tổng truy cập: 1355269

CHÚA KITÔ VUA “CHÚA GIÊSU TRỌN VẸN,

CHÚA KITÔ VUA “CHÚA GIÊSU TRỌN VẸN,

NHÂN BẢN NHẤT VÀ CÒN SIÊU VIỆT”

ROMA- Bài giải thích của Cha Raniero Cantalamessa, giảng Phủ giáo Hoàng, về những bài đọc phụng vu Chúa nhật Chúa Kitô Vua:.

“Rồi các ông sẽ Con Người ngự bên hửu Đấng toàn năng, và ngự giá mây mà đến...”

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Pilatô hỏi Chúa Giêsu,” Ông có phải là Vua dân Dothái không?” và Chúa Giêsu trả lời,” Chính ngài nói tôi là Vua.” Trươc đó không lâu, Caipha đã hỏi Người cũng một câu hỏi đó trong cách khác: “Ông có phải là Con Thiên Chúa Đáng Chúc tụng không?” và Chúa Giêsu đã thẳng thắng trả lời lần này: “Chính tôi đây!”

Thật vậy, theoTin Mừng Thánh Marcô, Chúa Giêsu tăng cường câu trả lời này, trưng dẫn và áp dụng cho chính mình điều mà tiên tri trong Sách Daniel đã nói vể Con Người ngự giá trên mây trời mà đến và nhận lãnh vương quốc không bao giờ tàn (Bài đọc I). Một thị kiến vinh hiển trong đó Chúa kitô xuất hiện trong câu truyện và trên câu truyện, thế tục và đời đời

Bên hình ảnh vinh hiển này của Chúa Kitô chúng ta gặp, trong các bài đọc lễ trọng này, hình ảnh Chúa Giêsu khiêm tốn và đau khổ, quan tâm về việc làm cho các môn đệ nên vua hơn là cai trị họ. Trong đoạn trích từ sách Khải Huyền, Chúa Giêsu được diễn tả như là “Đấng yêu thương chúng ta và đã cứu chúng ta khởi tội bằng máu Người, Đấng đã đưa chúng ta vào một vương quốc, làm linh mục cho Thiên Chúa và Cha của Người.”

Điều được luôn luôn chứng tỏ khó làm là giữ chung hai đặc quyền này của Chúa Kitô-vẻ uy quyền và lòng khiêm tốn-phát sinh từ hai bản tính của Người, thần tính và nhân tính. Con ngươi thời nay không có vấn đề thấy trong Chúa Giêsu người bạn và người anh của mọi người, nhưng họ gặp là chuyện khó nếu cũng công bố Người là Chúa và công nhận vương quyền của Chúa Giêsu trên họ.

Nếu chúng ta xem cuốn phim chiếu Chúa Giêsu, thì rõ về sự khó nầy. Nói chung phim cinema đã chọn Chúa Giêsu làm người hiền, bị bắt bớ, bị hiểu lầm, rất gần gũi con người hầu chia sẻ thân phận con người, những sự nổi loạn con người, sự ước muốn của con người sống một đời sống bình thường. Trong đường hướng này được kết nối phim”Jesus Christ Superstar-Chúa Giêsu Siêu Sao” và “Sự Cám Dỗ Cuối Cùng của Chúa Kitô” thô lỗ và phạm thượng hơn của Martin Scorcese.

Pier Paolo Pasolini, trong “Vangelo secondo Matteo” (Tin Mừng theo thánh Matthêo), cũng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là Người bạn các tông đồ và các con người, gần gũi với chúng ta, mặc dầu Người không thiếu một chiều kích nào đo của mầu nhiệm, được diễn tả với nhiều thi thơ, hơn hết qua những lúc sầu thảm thinh lặng.

Chỉ có Franco Zeffirelli, trong cốn phim “Chúa Giêsu thành Nadareth” của ông, đã cố gắng giữ cả hai là vẻ uy quyền và tính khiêm nhượng. Chúa Giêsu xuất hiện trong cuốn phim của Zeffirelli's như là một người giữa muôn người, niềm nở và gần gũi, nhưng, đồng thời, như một Đấng, với những phép lạ và sự phục sinh của Người, đặt chúng ta trước mầu nhiệm của bản thân Người, một con người vượt quá sự nhân bản đơn thuần.

Tôi không muốn ngăn chận những cố gắn tái đề nghị biến cố Giêsu trong những từ có thể hiểu được và bình dân. Trong thời gian của Người Chúa Giêsu không bị xúc phạm nếu “dân chúng” xem người như là một trong các vị tiên tri. Tuy nhiên, ngài hỏi các tông đồ, “Nhưng phần anh em, anh em nói Thầy là ai?” cho thấy rõ những câu trả lời về phía dân chúng thì không đủ.

Chúa Giêsu mà Giáo Hội trình bày cho chúng ta hôm nay trong ngày lễ trọng Kitô Vua, là Chúa Giêsu trọn vẹn, hầu như nhân bản mà còn siêu việt. Tại Paris thanh gỗ đã được sử dụng để thiết lập chiều dài của thước được giữ cẩn thận đến nỗi đơn vị đo lường này, do Cách Mạng Pháp đưa vào, không bị thay đổi với thời gian. Cũng vậy, trong cộng đồng tín hữu tức là Giáo Hội, hình ảnh thật sự của Chúa Giêsu thành Nadareth được bảo tồn. Hình ảnh này phải được sử dụng như là tiêu chuẩn để đo tính hợp pháp của mọi sự trình diễn về Người trong văn chương, cinéma và nghệ thuật.

Đó không phải là một hình ảnh cố định và trơ trơ, được giữ dưới tủ kính như cây thước, nhưng là một hình ảnh Chúa Kitô sống động, Đấng lớn lên trong sự hiểu biết của Giáo Hội, Đấng sẽ tiếp tục làm nẩy sinh những câu hỏi và những thách thức mới của nền văn hóa và phát triển nhân bản.

 

31.Đức Vua Giêsu

(Chú giải, Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long, OFM.)

1.- Ngữ cảnh

Trong đêm, Đức Giêsu đã bị bắt (Ga 18,12) và bị điệu đến ra trước các ông Khanan (18,13) và Caipha (18,24). Đến sáng, người Do Thái lại điệu Đức Giêsu đến dinh tổng trấn Philatô (18,18). Bản văn đọc hôm nay cho thấy Người đang ở tại tòa án Rôma; Người đứng trước quan tổng trấn, là nhân vật có quyền lực tối cao, nắm quyền sinh sát trong tay. Không phải là trong một cuộc đối thoại thong thả, nhưng là trong một phiên tòa có thể định đoạt về mạng sống, mà những gì Đức Giêsu đã làm được công bố. Người đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của Người và tuyên bố cho hiểu “Nước” của Người thuộc về loại nào.

Tùy theo sự di chuyển của Philatô ra với dân chúng hay vào với Đức Giêsu, cuộc xử Đức Giêsu trước tòa Philatô được bố trí thành 7 đoạn theo cấu trúc chuyển hoán và đồng tâm như sau (Các học giả cũng có đề nghị một cấu trúc song song, nhưng không thuyết phục):

- đoạn 1: 18,28-32: bên ngoài;

- đoạn 2: 18,33-38a: bên trong;

- đoạn 3: 18,38b-40: bên ngoài;

- đoạn 4: 19,1-3: bên trong - Đỉnh cao: “Kính chào Vua dân Do Thái” (19,3);

- đoạn 5: 19,4-8: bên ngoài;

- đoạn 6: 19,9-11: bên trong;

- đoạn 7: 19,12-16a: bên ngoài.

Trong toàn khối này, bản văn đọc hôm nay thuộc đoạn 2, là đoạn phong phú nhất với những tư tưởng thần học về ý nghĩa đích thực của vương quyền của Đức Giêsu.

2.- Bố cục

Chất liệu của bản văn được bố trí xoay quanh câu hỏi của Philatô: “Ông có phải là vua dân Do Thái không?”. Tuy nhiên, ta có thể chia bản văn ra thành ba đơn vị dựa theo ba lần đối đáp giữa Philatô và Đức Giêsu:

1) Đặt vấn đề về vua (18,33-34);

2) Đặt vấn đề về các việc làm của Đức Giêsu (18,35-36);

3) Đặt vấn đề về vua (18,37).

3.- Vài điểm chú giải

- vua dân Do Thái (33): Đây là những lời đầu tiên của Philatô. Trên môi ông này, từ “Do Thái” không có sắc thái thù nghịch (như ở c. 31), nhưng nhắm đến quốc gia Do Thái.

- Tôi là người Do Thái hay sao? (35): Có tác giả cho rằng Philatô nói như thế là để tỏ ý khinh bỉ người Do Thái. Nhưng đúng hơn, nên cho rằng Philatô chỉ muốn nói rằng ông không biết gì về Đức Giêsu ngoài những gì giới hữu trách Do Thái đã báo cáo với ông về Người.

- chốn này (36): Tác giả dùng từ enteuthen, “chốn này”, cũng có nghĩa là “thế gian này” (ek tou kosmou toutou), vì ngài muốn tránh nhắc lại công thức ấy lần thứ ba. Cụm từ “thuộc về thế gian này” có nghĩa tương tự “thuộc về đất” (ek tês gês, 3,31), có đặc tính của thế gian này. Như vậy, dịch cho rõ nghĩa là “Nước tôi không thuộc về đất”.

- Vậy ông là vua sao? (37): Cách Philatô nhắc lại câu hỏi như thế không phải là lạ thường. Bởi vì theo tập tục Rôma, khi bị cáo không tự biện hộ được cho đến nơi đến chốn, thì quan tòa sẽ hỏi trực tiếp ba lần, trước khi nghị án.

- Chính ngài nói rằng tôi là vua (37): Đức Giêsu không chối Người là vua, nhưng đây không phải là một danh xưng mà Người trực tiếp chọn lấy để mô tả vai trò của Người.

4.- Ý nghĩa của bản văn

Chúng ta ở bên trong tòa án, Philatô trở vào trong dinh, và cho gọi Đức Giêsu đến. Đây có phải là Đồn Antônia không, chúng ta không rõ. Lúc này là bình minh. Chi tiết này có tính thông tin, nhưng cũng có tầm mức biểu tượng: đây là ngày Đức Giêsu chịu chết, nhưng cũng là ngày bắt đầu vinh quang; đây là ngày “quyết liệt” của Đức Giêsu, ngày sắp diễn tiến, ghi dấu ấn trên toàn thể lịch sử của nhân loại. Điều cần ghi nhận là có hai không gian: người Do Thái không vào dinh Philatô vì sợ bị nhiễm uế, và như thế không được cử hành lễ Vượt Qua; Đức Giêsu đang ở trong dinh Philatô, tức ở trên phần đất bị nhiễm uế: Người đã bị dân Do Thái (dân không nhiễm uế) loại trừ.

Philatô và Đức Giêsu đối diện nhau, ta không thấy có nhân vật nào khác ở đây. Tương ứng với đoạn văn này là đoạn 19,8-12, là nơi Philatô và Đức Giêsu cũng ở một mình với nhau.

* Đặt vấn đề về vua (33-34)

Từ c. 33 trở đi, các chi tiết được cung cấp dồi dào. Tác giả nêu bật chuyển động của Philatô. Ông đi vào và hỏi trực tiếp Đức Giêsu là Người có phải là vua chăng. Ông dùng công thức “vua dân Do Thái” (ho basileus tôn Ioudaiôn). Rất có thể ông dùng lại lời tố cáo của người Do Thái; tuy nhiên, chúng ta không tìm thấy lời tố cáo này minh nhiên ở đâu cả. Nhưng Đức Giêsu hỏi ngược lại, Người hỏi ông về thái độ của ông: Philatô phải ý thức rằng ông nói bằng sự hiểu biết riêng hay ông nhắc lại những gì kẻ khác bảo, vì đây là một lời buộc tội rất nặng. Kẻ bị cáo nại tới lương tâm của quan tòa và nhắc ông nhớ tới bổn phận phải kiểm chứng các hoàn cảnh thực tế cho chính xác và với trách nhiệm. Trước tiên, Philatô giữ khoảng cách bằng cách nêu ra nhận định là chuyện này chẳng dính dáng gì đến ông và ông đảm bảo rằng mọi chuyện này là do người Do Thái.

* Đặt vấn đề về các việc làm của Đức Giêsu (35-36)

Rồi ông hỏi: “Ông đã làm gì?” (c. 35b). Bằng câu hỏi này, ông cho thấy rằng ông ý thức về bổn phận của ông, ông không muốn chịu trách nhiệm về các nhận định của kẻ khác hoặc về các phán đoán tổng quát, nhưng ông muốn xác định thật rõ những gì bị cáo đã làm, trước khi tuyên án.

Đức Giêsu trả lời, nhưng tập trung vào câu hỏi “Ông có phải là vua không?” (c. 33). Tác giả cho thấy Đức Giêsu tỏ ra là Người làm chủ tình hình qua cách Người dẫn dắt cuộc thẩm vấn của Philatô: Philatô hỏi câu thứ nhất, Đức Giêsu hỏi về tư cách của tổng trấn; ông hỏi câu thứ hai, Đức Giêsu trả lời câu thứ nhất... Qua đó, Người không nêu ra các sự kiện riêng lẻ, nhưng Người nhắm đến tính cách toàn thể của công trình Người, bằng cách trước tiên nói cho biết điều gì còn thiếu nơi công trình này. Trong khi vẫn bị trói (18,24), Người tuyên bố ba lần: “Nước tôi không thuộc về thế gian này” (18,36). Đức Giêsu muốn nói rằng Nước của Người không phải là kiểu trần gian, không có dính dáng gì với những chuyện lãnh địa hoặc quyền chúa tể, cũng như không liên hệ gì đến việc sử dụng các dụng cụ quyền lực.

* Đặt vấn đề về vua (37)

Từ đó, Philatô đã để cho mình bị thuyết phục, ông hỏi: “Vậy ông là vua sao?” (c. 37), chứ không còn hỏi: “Vậy ông là vua dân Do Thái sao?”. Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn nhận Người là vua, nhưng không theo cách của các vua thế gian này. Người đã nói: “Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu…” (c. 36). Có một chuyện Philatô không biết, nhưng chúng ta đã được thông tin, đó là Phêrô đã dùng gươm để chiến đấu hầu bảo vệ Đức Giêsu, nhưng Người đã từ khước kiểu dùng vũ lực ấy. Chỉ có điều đến bây giờ, khi ở trước mặt Philatô, lý do của sự từ khước này mới được Đức Giêsu công bố: Nước của Người không thuộc về thế gian này. Người cũng cho biết Nước của Người không thuộc về thế gian này qua lời nhắc đến việc bị nộp cho người Do Thái. Nếu Người là vua theo cách các vua trần gian này, các thuộc hạ của Người đã chiến đấu cho Người: “không để tôi bị nộp cho người Do Thái”. Vậy, đứng trước Philatô, khi nghe quan hỏi: “Vậy ông là vua sao?”, Đức Giêsu vẫn đang bị trói, ở trong tư thế yếu đuối cùng cực, đã cho thấy Người là ai: Người là vua. Philatô nhận biết rằng Đức Giêsu không phải là một vị vua theo nghĩa người ta đã tố cáo. Nhưng từ những lời Đức Giêsu nói, ông cũng hiểu ra rằng Người vẫn cho rằng Người là vua: thế thì ông muốn biết Nước của Người là kiểu nào.

Đức Giêsu xác nhận lời khẳng định đã nêu ra và bây giờ Người giải thích bản chất của Nước Người theo chiều hướng tích cực, và như thế là mời Philatô đón nhận khẳng định của Người. Người thật sự là vua. Bằng lời nói sau đây, Người xác định lập trường của Người và nhiệm vụ làm vua của Người: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian chính là để làm chứng cho sự thật” (c. 37). Ý nghĩa tổng hợp của việc Người sinh ra và đến thế gian nằm trong việc làm chứng cho sự thật: chỉ vì điều này mà Người đến ở trong thế gian và chỉ điều này mới là cốt lõi của công việc làm vua của Người. Chỉ ai biết rõ sự việc và có kinh nghiệm thì mới làm chứng được. Đức Giêsu không muốn nói đến sự thật về một sự kiện nào, nhưng là sự thật về Thiên Chúa. Người có quan hệ trực tiếp với Thiên Chúa, Người biết Thiên Chúa trong sự hiệp thông hết sức thâm sâu. Người được Thiên Chúa sai phái và từ Thiên Chúa mà đến trong thế gian. Chỉ có Người mới làm chứng được về vị Thiên Chúa mà Người luôn hiệp thông với, vì Người sống trong sự hợp nhất hoàn hảo với Thiên Chúa như là Con với Cha.

Theo truyền thống Kinh Thánh, vua là mục tử của dân. Nhiệm vụ của vua là làm cho dân được sống dồi dào. Đức Giêsu đã mô tả công việc của Người là mục tử tốt: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (10,10). Cùng với lời chứng về Thiên Chúa, Đức Giêsu giúp người ta đến được với sự sống toàn vẹn, ngoài mọi khả năng của loài người.

Và như để làm chứng cho tầm mức đích thật của lời khẳng định về tư cách vương giả của Người, và cho thấy rằng quyền lực của Người không phải là như quyền lực chính trị của thế gian này, Đức Giêsu tuyên bố rằng, đứng trước lời chứng của Người, trong liên hệ với sự thật, sẽ phát sinh một đường ranh phân đôi loài người: “Phàm ai phát xuất từ sự thật thì lắng nghe tiếng tôi” (c. 37), và hiểu ngầm là ai không phát xuất từ sự thật, thì không nghe tiếng Người (x. 10,2-4).

Như vậy, Đức Giêsu đã tóm tắt cho Philatô về ý nghĩa của sứ mạng của Người, về lý do khiến Người sinh ra đời và khiến Người đến trong thế gian. Đây là một câu tóm rất ngắn, nhưng khá đầy đủ, đầy gợi ý, đặc biệt với lời nhắc đến cuộc chào đời. Lời nhắc này quan trọng vì cho phép ta hiểu được Đức Giêsu là ai. Quả thế, khi gặp Người, ta không thể không tự hỏi Người từ đâu đến và xuất xứ của Người là thế nào.

Câu trả lời của Đức Giêsu cho Philatô cũng rất rõ. Ta không thể biết Người nếu không thay đổi thái độ và lấy lập trường. Do đó, đến cuối lời tuyên bố, Đức Giêsu tìm cách lôi kéo kẻ đang nghe Người vào: “Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (c. 37). Philatô sẽ phản ứng như thế nào?

Philatô lại khởi đi từ phần cuối của lời tuyên bố của Đức Giêsu và nêu một câu hỏi nhằm được giải thích: “Sự thật là gì?” (c. 38). Với câu hỏi này, Philatô tránh trả lời và ông phản ứng như một nhà chính trị. Bằng câu hỏi này, hoặc nhằm diễn tả một hoài nghi (ai có thể biết được sự thật chứ?), hoặc một lời chế nhạo (sự thật thì quan trọng gì?), ông đã cắt đứt cuộc đối thoại.

Dù sao, các trao đổi giữa Philatô và Đức Giêsu cho thấy là sứ điệp của Người lúc đầu đã được ưu tiên gửi đến cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ khước, nay vượt biên giới tôn giáo để đến với Dân ngoại, có đại diện là quan Philatô.

+ Kết luận

Mặc dù đây là khoảnh khắc lạ lùng, Philatô cũng nhận được một lời loan báo Đức Giêsu gửi cho ông. Rất có thể cuộc đối thoại sẽ đưa Philatô đến chỗ nhận biết Đức Giêsu, Đấng đã nói: “Tôi là sự thật” (14,6), nhưng Philatô chưa đủ chín để nhận ra điều này. Dù sao, đề tài “sự thật” là một đề tài rất quan trọng trong TM IV. Đây không phải là một khái niệm trừu tượng, một phạm trù, hoặc chỉ là một ý tưởng, nhưng là một con người. Sự thật là con người mà Philatô đang thấy trước mặt. Và sự thật là điều mà Philatô không sao hiểu nổi. Để có thể đón nhận lời chứng của Đức Giêsu và hoạt động của Người trong tư cách là vua, người ta phải mở lòng ra với Thiên Chúa. Philatô đã không thể hiểu được ý nghĩa đầy đủ của lời Đức Giêsu đáp, và ông cũng không muốn hiểu. Đối với ông, làm sáng tỏ các tương quan sức mạnh là đủ khi thi hành nhiệm vụ quan tòa, Philatô đã chấp nhận rằng Đức Giêsu nói với ông về nhiệm vụ của ông. Nhưng ông đã khép mình lại trước lời chứng của Đức Giêsu về Thiên Chúa.

 

5.- Gợi ý suy niệm

1. Có những bức tranh diễn tả Đức Kitô Vua: một người với gương mặt nghiêm khắc, thậm chí giận dữ, ngồi trên một cái ngai, bên cạnh có các thiên thần, cũng có gương mặt lạnh lùng và căng thẳng sẵn sàng đáp ứng mọi ước muốn của Người, y như các vệ sĩ! Các nghệ sĩ đã cho thấy Đức Giêsu giống như một vị vua trần thế, mà mọi người phải kính trọng, sợ hãi, vâng phục, luôn luôn phải cong lưng cúi đầu. Thật đáng tiếc, nếu lầm lẫn vương quyền của Đấng Mêsia với vương quyền của thế gian này. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy một hình ảnh khác hẳn.

2. Vương quyền của Đức Giêsu không thể mô tả được bằng các từ ngữ nói về quyền vương đế nhân loại. Vương quyền của Người được xác định bằng cách đặt liên hệ với thế giới khác, thế giới chúng ta mà Đức Giêsu đến sống để làm chứng, và như thế Người đóng vai trò trung gian và đưa thế giới của Thiên Chúa vào ngay trong lòng một thế giới nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Quyền làm vua của Người, Đức Giêsu hành xử khi lôi kéo loài người khỏi sự chết để đưa họ vào trong nhà Cha (x. 12,31-32). Người hành xử vương quyền khi Người hy sinh mạng sống (x. 17,1-2).

3. Khi làm chứng về sự thật, Đức Giêsu cũng làm chứng về chính mình, vì Người là sự thật, Người đến mang sự thật cho thế gian (8,14.18; 14,6). Khi đi rao giảng Tin Mừng, Người đã làm chứng về sự thật, và đây chính là nguyên nhân đưa Người tới chỗ chết: như vậy, chính vào thời điểm quyết liệt này mà Người làm chứng rõ nhất về sự thật. Đây là chân lý về lòng trung thành và từ bi thương xót của Thiên Chúa muốn cứu độ nhân loại.

4. Chúng ta không thể quên rằng đức vua chúng ta là một vị vua chỉ có vòng gai trên đầu. Chúng ta không thể quên rằng chúng ta là thần dân của một vương quốc “không thuộc về thế gian này”, không mang đặc tính của “đất”. Do đó, làm chứng về Tin Mừng, về Đức Kitô, cũng chính là làm chứng rằng Đức Kitô, Vua chúng ta, là một vị vua đã bị kết án tử hình, bị đánh đòn, phải đội vòng gai, và sẽ bị đâm thủng cạnh sườn, để giới thiệu về tình yêu hết sức lạ lùng của Thiên Chúa. Quả thật, Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta thấy vị Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô bờ bến và muốn đón nhận chúng ta vào trong sự hiệp thông trong đó Ngài đang sống với Con. Đức Giêsu muốn đưa chúng ta đến sống với Chúa Cha bằng sự sống mà chính Người đang sống, để chúng ta có được sự an toàn, niềm vui thâm sâu, trong tương lai vững bền. Đây là nội dung của lời chứng chúng ta phải công bố trong lòng thế giới.

 

32.Bị can Giêsu Kitô-Vua

(Suy niệm của Lm. FX. Nguyễn Phạm Hoài Thương)

Trong Tin Mừng Gioan, cảnh Chúa Kitô trình diện trước Philatô diễn tiến theo một lược đồ được bố cục cách khéo léo. Ngay từ đầu trình thuật, thánh sử đã nói rõ: người Do thái không vào phủ Philatô để khỏi mắc uế hầu có thể cùng chiều hôm đó cử hành lễ Vượt qua (Ga 18,28); nhưng việc hỏi cung Chúa Kitô phải xảy ra bên trong phủ Philatô, do đấy có một lối dàn cảnh: Philatô phải đi ra để bàn cãi với người Do thái, rồi trở lại phủ để tra hỏi Chúa Giêsu. Vì vậy, trình thuật (Ga 18,28-19,16) chia ra làm bảy phân đoạn, theo các lần ra-vào của Philatô mà thánh sử đề cập rất tỉ mỉ. Bài Tin Mừng chúng ta nghe hôm nay nằm trong phân đoạn II (Ga 18,33-38), có rất nhiều chỉ dẫn thần học về ý nghĩa đích thực của vương quyền Chúa Kitô. Tuy nhiên để hiểu được nó ta phải đặt nó vào trong văn mạnh của cả trình thuật.

1. “Nộp” Chúa Giêsu

Nếu chỉ đọc lướt qua Tin mừng, ta có thể kết luận: chính Philatô đã nộp Chúa Giêsu, vì ông đã kết án tử và đã cho đóng đinh Người trên thập giá.

Tuy nhiên, đọc kỹ bản văn ta sẽ thấy: không phải Philatô, nhưng chính người Do thái, đại diện là các thượng tế và Biệt phái, đã muốn giết Chúa Giêsu. Trong Tin mừng, thánh Gioan không hề nói là Philatô đã kết án tử cho Chúa Giêsu mà còn nhấn mạnh: bởi xác tín Chúa Giêsu vô tội, nên Philatô đã muốn thả Người, và sở dĩ ông phó nộp Người để bị đem đi giết là chỉ vì ông sợ hãi trước áp lực của các thượng tế và Biệt phái mà thôi.

Ba lần Philatô xác quyết là chẳng tìm thấy một lý do nào để lên án tử (Ga 18,38b; 19,4; 19,6c); vì vậy, ông có ý định thả Chúa Giêsu (Ga 18,39; 19, 12). Tuy nhiên lòng yêu chuộng công lý nơi ông không mạnh đủ để đương đầu với các yêu sách của đám đông chuyên môn nổi loạn này. Để thắng những do dự cuối cùng của ông, người Do thái dọa tố cáo ông tại Rôma nếu ông tha bổng một tên đã tự xưng là “vua dân Do thái” (Ga 19,12.15c). Bấy giờ Philatô “phó nộp Người cho họ đóng đinh” (Ga 19,6).

Hơn nữa, một khuôn mặt khác, được chính Chúa Giêsu nhắc đến, nổi lên trên hậu cảnh của bi kịch: “... vì thế, kẻ nộp tôi cho ông đã mắc tội nặng hơn” (Ga 19,11b); Người có ý nói đến Giuđa, kẻ nhân danh Satan mà hành động (Ga 13,2.27). Và đây mới chính là kẻ nộp người: Satan, nhờ trung gian của Giuđa, đã nộp Chúa Giêsu cho Philatô.

Một câu hỏi được đặt ra: suốt thảm kịch này, Thiên Chúa, vị Thẩm phán tối cao đã làm chi? phải chăng Ngài đã không có thể ngăn chặn việc xử tử bất công đó? Chắc chắn là không phải vậy, vì Chúa Giêsu xác quyết trước Philatô: “ông chẳng có quyền gì trên tôi nếu từ trên không ban xuống cho ông” (Ga 19,11). Vậy, nếu Thiên Chúa đã chẳng can thiệp, là vì chính Ngài cũng đã muốn “nộp” Con Một Ngài cho thần chết (Rm 8,6-32).

Nhưng hành vi Chúa Cha “nộp” Con mình mang một nghĩa khác hẳn với hành vi của Satan, Giuđa hay người Do thái. Khi “nộp” Con mình, Chúa Cha tôn trọng tình yêu của Chúa Giêsu: chịu đau khổ vì nhân loại, cũng như tôn trọng sự tự do của con người: Giuđa, Biệt phái và các nhân vật khác trong cuộc Khổ nạn; nghĩa là: Ngài cho phép Chúa Giêsu bị bắt bớ được diễn ra. Như thế, xét trong nghĩa này, Chúa Cha “nộp” Chúa Giêsu, thể hiện một tình yêu vĩ đại. Chúa Giêsu đã tự do và tự nguyện chấp nhận để Chúa Cha và loài người phó nộp: “không ai cất mạng sống Ta được, nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta” (Ga 10,18). Về phía Chúa Giêsu, việc phó nộp Người là một việc tự phó nộp hoàn toàn thuận ý. Nhưng về phía con người, việc phó nộp Người là một sự phản bội. Không thể so sánh hai việc phó nộp này, vì chúng phát xuất từ những “căn do” khác nhau. Đối với Chúa Cha và Chúa Kitô, căn do này là tình yêu và vì thế các Ngài vô cùng đáng ca tụng. Đối với Giuđa, căn do này là lòng tham của; đối với người Do thái, là thói ghen tương; đối với Philatô, là nỗi sợ hoàng đế, và vì thế, họ đáng bị luận phạt.

2. Vương quyền của Chúa Giêsu Kitô được tỏ lộ

Việc Chúa Giêsu hầu tòa Philatô hoàn toàn bị vấn đề vương quyền của Chúa Giêsu chi phối: câu hỏi đầu tiên Philatô đặt ra cho Chúa Giêsu là: “ông là vua dân Do thái sao?” (Ga 18,33). Chúa Giêsu đáp: “Tự mình ông, ông nói thế hay có ai khác đã nói với ông về tôi?” (Ga 18,34); cách trả lời này cho thấy nguyên cớ của câu Philatô hỏi là những luận điệu tố cáo của người Do thái. Philalô không đời nào có ý tưởng bắt Chúa Giêsu và lên án Người chiếm đoạt vương quyền nếu người Do thái không tố cáo. Sở dĩ Philatô phó nộp Chúa Giêsu cho người Do thái, là vì người đã tự xưng là “Vua dân Do thái”.

Họ chế giễu vương quyền mạo nhận của Chúa Giêsu. Binh lính Rôma là những kẻ đầu tiên. Được Philatô ra lệnh, họ đã đánh đòn Người: “Đoạn lính tráng, lấy gai tết một triều thiên đặt trên đầu Người và khoác cho Người một áo choàng đỏ; rồi chúng tiến lại bên Người mà nói: Kính chào vua Do thái, và chúng tát vả Người” (Ga 19,2-3). Màu đỏ là màu của vua, và triều thiên chỉ đội trên đầu vua chúa. Vì Chúa Giêsu đã tự xưng là vua, nên người ta cải trang Người thành vua và nhạo báng Người.

Philatô cũng nhảy vào trò chơi và bổ túc cảnh chế giễu, nhưng ý ông là để nhạo báng người Do thái trong con người vị vua Giêsu. Ông truyền dẫn Chúa Giêsu “đến nơi gọi là Nền đá, tiếng Hipri là Gabbatha” (Ga 19,13). Philatô đặt Chúa Giêsu, mặc áo choàng đỏ và đội triều thiên gai, lên ngồi trên một chiếc ghế tượng trưng ngai tòa, và bảo người Do thái: “Đây là vua các ngươi” (Ga 19,14). Màn nhạo báng quả lên tới tột điểm.

Cuối cùng, sau khi đóng đinh, Philatô cho đặt một tấm biển trên đầu Chúa Giêsu, mang giòng chữ “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19). Vua đáng thương hại chừng nào! Là vật khinh khi và đồ phế bỏ của nhân loại, là con người đớn đau và khổ sở như kẻ mà ai thấy phải giấu mặt chẳng dám nhìn. Người đã bị khinh khi và không được đếm xỉa tới (Is 53,3).

Tuy nhiên, cảnh bên ngoài đó lại cho thấy: Chúa Giêsu vẫn chiếm hữu vương quốc của Người như Người quả quyết: “Vương quốc của Ta không thuộc về thế gian” (Ga 18,36). Thành ngữ này trước tiên có nghĩa là vương quyền của Chúa Kitô không thuộc về hạ giới; nó không đặt cơ sở trên sức mạnh hay bạo lực, không dựa trên một quyền lực trần thế nào, nhưng là “từ trên” xuống (Ga 19,11), từ Thiên Chúa mà thôi.

Thành ngữ này cũng có nghĩa là vương quốc của Chúa Kitô mang tính vĩnh cửu, không tồn tại nơi thế gian chóng qua này (1Ga 2,17). Thành ra để chiếm hữu vương quốc Người, Chúa Kitô cần phải từ giã thế gian hiện tại để đi vào cõi vĩnh hằng, phải “qua khỏi thế gian này để đến cùng Cha” (Ga 13,1), và như thế phải được “giương cao khỏi đất” (Ga 12,32). Chính khi chịu đóng đinh, Chúa Kitô chiếm hữu vương quốc Người.

Thánh Gioan mặc nhiên nhấn mạnh điều đó. Trước hết ông ghi nhận: địa điểm mà Philatô đặt Chúa Giêsu ngồi trên tòa, mặc cẩm bào lố lăng, được gọi là “Gabbatha” (Ga 19,13), tiếng Hipri có nghĩa là “nơi cao”. Dưới con mắt của thánh Gioan, hành động của Philatô không còn là một sự nhạo báng, nhưng đã mặc lấy một giá trị biểu tượng: Chúa Giêsu sẽ là vua nhờ việc “được giương cao”; sự kiện Người ngồi ở một nơi cao trên tòa, ăn vận như vua, tiên trưng việc Người được giương cao và ngồi bên hữu Thiên Chúa (Tv 109,1).

Tiếp đến, tấm biển mà Philatô cho đặt trên đầu Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Giêsu Nadarét, vua dân Do thái” (Ga 19,19) cũng có ý nghĩa tương tự. Chỉ khi được “giương cao” trên thập giá, Chúa Giêsu mới thật sự khai mạc vương quốc của Người; Người kéo lên với Người cả nhân loại, trong lúc Satan bị hạ xuống và sự thống trị của nó trên loài người chấm dứt (Ga 12,31-32).

Đấy là huống cảnh nghịch thường được nhấn mạnh qua các chi tiết mô tả cảnh Chúa Kitô hầu tòa Philatô và chịu đóng đinh thập giá: chính lúc mọi sự đều xem ra không thể cứu vãn theo quan điểm loài người, chính lúc Chúa Giêsu phải hiện ra như một vì vua giả tạo, thì đó là lúc Người bắt đầu thống trị nhờ được “giương cao” trên thập giá.

Chúa Giêsu là vua, đó là điều chắc chắn. Chính để làm vua mà Người đã sinh ra và đã đến trong thế gian. Vương quyền của Người mang lại ý nghĩa cho tất cả cuộc đời Người, cho việc đội mão gai, cho cái chết và cho Giờ mà vì đó Người đã đến (Ga 12,17).

3. Những ai thuộc về vương quyền Giêsu Kitô-vua?

Hôm trước ngày chịu nạn, Chúa Giêsu đã tha thiết cầu xin: “Lạy Cha, những kẻ Cha đã ban cho Con, thì Con muốn là Con ở đâu, thì chúng cũng ở đó với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thiên lập địa” (Ga 17,24). Khi qua khỏi thế gian này mà về cùng Cha, Chúa Giêsu như một Môisen mới, kéo theo trong một cuộc Xuất hành mới, tất cả những ai muốn tháp tùng Người (Ga 12,25; 13,1). Một khi “được giương cao khỏi đất”, Chúa Giêsu lôi kéo nhân loại lên với Người (Ga 12,32); Người tụ tập tất cả họ trong nhà Cha (Ga 14,2).

Chúa Kitô thực thi vương quyền qua lời ban sự sống: “Lạy Cha, giờ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, và để nhờ quyền năng mà Cha đã ban cho Người trên mọi xác phàm, Người ban cho những kẻ Cha đã trao cho Người sự sống vĩnh cửu” (Ga 17,1-2). Qua chữ “xác phàm”, Chúa Giêsu muốn ám chỉ: loài người xét như là “tạo vật” và vì thế phải chịu hư nát trong mộ phần. Thiên Chúa ban họ cho Chúa Kitô, họ thuộc quyền Người, để Người thông ban cho họ sự sống vĩnh cửu, là cuộc chiến thắng trên sự chết, trong vinh quang cánh chung (Ga 17,24).

Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới quyền của Con Ngài để Con ban sự sống cho tất cả. Vương quyền của Chúa Kitô được thể hiện nhờ việc trao ban sự sống cánh chung cho loài người: “Cha yêu mến Con, và đã ban mọi sự trong tay Người. Kẻ nào tin Con sẽ được sự sống vĩnh cửu; còn kẻ từ chối tin Con thì sẽ không thấy sự sống” (Ga 3,35-36).

Phải chăng như vậy con người chỉ trở nên “thần dân” của Chúa Kitô-vua khi họ giã từ cuộc sống hạ giới, đi qua thế gian này để về với Cha? Không, giây phút này chỉ đánh dấu một sự hoàn thành, một sự viên mãn, chứ không phải là một khởi đầu.

Để có sự sống vĩnh cửu, thì ngay từ cuộc sống trần gian này, phải “nghe” tiếng Chúa Kitô, nghĩa là vâng phục Người: “Chiên Ta thì nghe tiếng Ta: Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta ban cho chúng sự sống vĩnh cửu; chúng sẽ chẳng bao giờ bị diệt vong và không ai giữ chúng khỏi tay Ta được” (Ga 10,27-28); chỉ những ai “giữ” lời của Chúa Kitô mới không bao giờ thấy sự chết (Ga 8,51-52). Thành thử Chúa Kitô thi thố vương quyền trên những kẻ sống trong thế gian phù hợp với thánh ý Người, thánh ý được biểu lộ trong giới răn duy nhất: “Các ngươi hãy yêu mến nhau như Ta đã yêu mến các ngươi” (Ga 13,34-35).

Như vậy, chúng ta đã lãnh nhận, ngay từ đời này, một mầm sự sống thần linh: lời Thiên Chúa (Lc 8,11; 1Pr 1,22-23; 1Ga 3,9), nghĩa là chính Chúa Kitô - Ngôi Lời (Ga 1,12-13). Cuộc sống vĩnh cửu đã bắt đầu cho chúng ta trên trái đất, và việc chúng ta vượt qua thế gian mà về cùng Cha chỉ là sự “biểu lộ” những gì đang được dấu ẩn trong bí mật thánh thiêng này (1Ga 3,1-2).

Vâng! Vương quyền của Chúa Kitô được thi thố qua việc ban sự sống cho loài người, Chúa Kitô-vua ngay từ bây giờ ngự trị trên chúng ta, nhờ sự sống Người đã ban cho chúng ta. Vương quốc của Chúa Kitô không “thuộc thế gian này” (Ga 18,36), vì là một vương quốc cánh chung, nhưng mầm sống của nó đã được gieo trong tâm hồn chúng ta, chờ ngày chúng ta vượt qua thế gian này mà về cùng Cha trên trời.

 

home Mục lục Lưu trữ