Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 51

Tổng truy cập: 1362305

CHỮA NGƯỜI MÙ TỪ KHI MỚI SINH

CHỮA NGƯỜI MÙ TỪ KHI MỚI SINH

 

(Chú giải và Suy niệm của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)

"Ai dã phạm tội để nó phải sinh ra mù lòa như vậy?". Theo một quan niệm khá phổ biến trong thế giới cổ thời, thì có mọi liên hệ mật thiết giữa tội lỗi và bệnh tật thể lý (Xh 9, 1-12; Tv 38, 2-6; Ed 18, 20). Trong trường hợp các kẻ tàn tật bẩm sinh, một số giáo sĩ Do thái cho rằng là tại cha mẹ, kẻ khác bảo do chính đứa bé mà chứng tật đã phát sinh trong thời kỳ mang thai (Strack-bill. t.II, tr.528).

"Ta là ánh sáng thế gian": ở đây còn rõ ràng hơn ở 8,12. "ánh sáng" không phải là một định nghĩa siêu hình về con người Chúa Giêsu, nhưng là một cách mô tả ảnh hưởng của Người trên vũ trụ; Người là ánh sáng tạo nên cuộc phán xét và cứu rối trần gian.

"Người Do thái đồng lòng trục xuất anh ta khỏi hội đường". Vào thời biên soạn Tin Mừng, chắc chắn biện pháp trục xuất còn được thi hành trong dân Do thái. Có 3 loại. Nhẹ nhất là khiển trách (nozlpha) và phạm nhân bị tách biệt khoảng một tuần, hay hơn nữa là một tháng. Bậc thứ hai là loại trừ (nddui): trong vòng một tháng, phạm nhân phải ngồi bệt dưới đất mặc tang chế, để râu tóc mọc dài, không tắm rứa, đứng "ở nơi riêng biệt trong giờ cầu nguyện chung. Bậc thứ ba là trục xuất (herem), hình phạt đáng sợ nhất: nó kéo dài vô hạn định; đương sự có thể bị tịch thu tài sản; mọi liên lạc, dù là riêng tư, với tội nhân đều bất hợp pháp (Strack-bill. IV, 292-333). Hình như các đầu mục nhân dân đã áp đụng hình phạt này đối với những người theo Chúa Giêsu.

"Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lời kẻ tội lỗi”. Đó là một chân lý phổ thông trong thế giới Thánh kinh (Is 1,15; Tv 66,18; 109,7; Cn 15,29; G 7,9; 5,13; Ga 16,23-27; 1Ga 3, 21-22).

"Để kẻ thấy được lại đui mù”: Dù ý nghĩa văn phạm của phân từ được dùng ở đây là thế nào chăng nữa (ngay cả người Hy Lạp, đặc biệt thánh Gioan Kim khẩu, cũng thú nhận trong: chữ ‘hin’ không luôn luôn chỉ mục đích, mà thỉnh thoảng chỉ một hậu quả), thì sự đui mù của các kẻ cứng lòng tm không phải là mục đích Thiên Chúa muốn trong mầu nhiệm tiền định, nhưng chỉ là một trong các hậu kết của thái độ họ đối với Chúa Kitô.

KẾT LUẬN

Trường hợp anh mù soi chiếu một cách sỗ sàng cảnh ngộ cụ thể của đức tin trong thế gian này: một cảnh ngộ bi đát. Việc nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô và lòng trung thành với ánh sáng đòi hỏi người đó một sự đoạn tuyệt anh hùng; anh phải vượt thắng tất cả các áp lực và sợ hãi. Đức tin của anh bị thế gian truy nã, vì đức tin là chọn lựa theo Con Người trong cuộc chiến giữa ánh sáng và tối tăm. Nhưng trong cuộc tranh chấp này, đức tin là chiến thắng của sự sống.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1) Câu chuyện người mù chiếu dọi một luồng sáng gay gắt trên hành trình của ánh sáng trong thẳm sâu tâm hồn con người, trên các chướng ngại vật mà ánh sáng gặp phải và trên cuộc tranh chấp của nó với quyền lực tối tăm. Con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối. Họ mang trong mình khả năng trở thành mù lòa, khả năng tự viện ra nhiều lý do chính đáng để khỏi nhìn xem, khả năng tự tạo cho mình nhiều xác tín sai lạc, khả năng từ chối mở mắt khi bảo mình trông thấy. Nhưng ánh sáng trong họ cũng không kém đòi hỏi. Nó bắt buộc phải xét lại biết bao vấn đề, phải từ bỏ biết bao thói quen, phải đoạn tuyệt đôi khi với môi trường sống. Vì những thứ ấy dễ làm cho cái nhìn của con người bị sai lạc. Con người phải tìm lại cho được lòng trong trắng của tuổi ấu thơ vậy. Đó là tất cả những gì mà câu chuyện người mừ bẩm sinh muốn nói. Câu chuyện ấy đã diễn tả thành bi kịch lời Chúa Giêsu sau đây: đèn của thân thể là con mắt. Nếu mắt người lành lặn thì toàn thân người sẽ sáng láng. Nhưng nếu mắt người đau yếu, toàn thân ngươi sẽ ở trong tối tăm. Vậy nếu ánh sáng trong ngươi trở nên tối tăm, thì sẽ tối tăm biết mấy" (Mt 6, 22-23).

2) Câu chuyện người mù từ thuở mới sinh cho thấy cảnh ngộ của người tín hữu có thể bi thảm đến chừng nào (ngược với ý kiến của một số nhà hiện sinh vô thần xem đức tin như là một sự đào thoát an thân). Đức tin có thể đòi buộc ta phải đoạn vệ dữ dội với thế gian và phải anh hùng tuyên xưng chân lý. Việc nhìn nhận Chúa Giêsu như là Đấng được Thiên Chúa sai đã khiến anh mù bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn. Người ta đuổi anh như đuổi một tội nhân. Ngay cả cha mẹ anh cũng từ chối bênh vực anh nữa. Đức tin bấy giờ có vẻ cô đơn. Nó bị tầm nã. Nhưng nó cần phải lượt thắng sự sợ hãi, lòng kính trọng của thế nhân, nỗi lo âu về dư luận người đời và phải cố gắng độc lập để đạt đến sự tự do đích thực, dù phải chịu muôn ngàn đau đớn.

3) Cử chỉ chúa Giêsu lấy bùn hòa với nước miếng xem ra kỳ dị; tuy nhiên có thể đoan chắc rằng người không để sự gì xảy ra cách ngẫu nhiên. Trước tiên, việc đó gợi cho ta nhớ đến câu chuyện trong Sáng Thế Ký mô tả Thiên Chúa lấy bùn đất tạo dựng con người đầu tiên (St 2,7). Khi bảo anh chàng kia bị mù là để công việc Thiên Chúa được tỏ hiện trong anh nhờ trung gian Đấng Ngài sai đến, Chúa Giêsu muốn tự giới thiệu mình như là kẻ có sứ mệnh tiếp tục công việc tạo dựng đã khởi đầu song chưa hoàn tất. Ngay từ những câu đầu tiên, Người tỏ ra như là Đấng được Tạo Hóa sai đến, làm lại cũng một cử chỉ để chữa lành con người mà tật nguyền là dấu chỉ của một sự thiếu thốn sâu xa hơn.

4) Giữa loài người chúng ta, có những kẻ không nhìn xem được; họ biết điều đó nhưng cảm thấy không thể chữa mình lành. Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng là biểu tượng, là đại diện của họ: Và cũng như Chúa Giêsu đã làm cho bệnh nhân đó được lại mọi quan năng của con người, thì Người cũng mang đến cho những ai ý thức rõ sự ngu dốt và tối tăm của mình, ánh sáng nội tâm để làm tri thức đích thực; Người ban cho họ khả năng hiểu biết, phân biệt cái gì là thật và cái gì chỉ được bộ mã bên ngoài. Ngược lại, có nhiều kẻ chẳng ý thức tí nào về sự đui mù của mình; họ tự mãn về điều họ biết và không ao ước gì khác nữa. Những người đó bị đóng kín trong sự hiểu biết riêng tư, họ sẽ chẳng bao giờ đi xa hơn, và sẽ không tài nào đón nhận được những gì mà Chúa có thể cho họ khám phá một ngày nào đó.

5) Tại sao có nhiều đau khổ trong trần gian, mà ta không biết được nguyên do, mục đích. Đừng vội kết luận rằng những kẻ bất hạnh đang gánh chịu chúng là nạn nhân của một định mệnh mù quáng nào đó. Sớm muộn gì rồi Thiên Chúa cũng sẽ làm rạng rỡ nơi họ sức mạnh và lòng nhân ái của Ngài (Rm 8,28). Chính vì mục đích ấy mà Tobia đã bị đui mù, Gióp rơi vào cảnh cùng khốn và Ladarô phải bị chôn vùi trong nấm mộ.

 

61.Nhận định về tường thuật Ga 9, 1-41

(Theo Chú Giải Tin Mừng Gioan)

1) Tường thuật này trình bày hai tiến trình: tiến trình từ mù tới sáng của người mù bẩm sinh, và tiến trình từ sáng tới mù của các người biệt phái:

TIẾN TRÌNH MÙ THÀNH SÁNG:

- Khởi điểm: anh hoàn toàn mù (c 1)

- Bước 1: Sau khi được Đức Giêsu ra tay can thiệp, ban đầu anh chỉ thấy Đức Giêsu là “một người” (c.11)

- Bước 2: Anh nhìn nhận Ngài là ”một vị ngôn sứ” (c.17)

- Bước 3: Ngài là “một người thánh thiện”, vì “Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi” (c.31).

- Buớc 4: Ngài là Kẻ do Thiên Chúa sai đến, vì “nếu người ấy không do Thiên Chúa sai đến mà không thể làm nên sự gì” (c.33).

- Điểm tới: Đức tin hoàn toàn: “Anh thưa, Lạy Chúa, con tin, rồi anh phục xuống lạy Ngài” (c.38)

TIẾN TRÌNH TỪ SÁNG THÀNH MÙ:

- Khởi điểm: một thái độ tự mãn tự kiêu. Họ luôn miệng nói “Chúng ta biết” (cc. 24.19), “Chúng ta thấy” (cc 39.41), “Bộ chúng ta cũng mù ư” (c.40).

- Bước 1: Ngạc nhiên khi thấy anh mù được sáng, và tìm hiểu “làm sao mà anh thấy được?” (c.10), “Ông ấy đâu?” (c.12).

- Bước 2: Khi biết kẻ làm phép lạ là Đức Giêsu, họ phân vân: kẻ thì nói “người ấy không phải bởi Thiên Chúa”, kẻ khác bảo “Lẽ nào người có thội có thể làm những dấu lạ lùng như thế?” (c.16).

- Bước 3: Ngoan cố chỉ nhìn nhận Môsê và tiên thiên loại bỏ bất cứ ai khác: “Còn người ấy, chúng ta không biết bởi đâu mà có” (c.29).

- Điểm tới: hoàn toàn mù về mặt thiêng liêng (cc 40.41). Sự mù này còn nguy hiểm hơn sự mù thể xác: “Nhưng các ngươi lại nói “Chúng tôi sáng mắt” nên các ngươi vẫn mắc tội”.

2) Tường thuật này cũng cho ta thấy được một cách sống động đường đi của ánh sáng vào lòng con người, những chướng ngại vật mà ánh sáng đã gặp trên con đường đó, và trận chiến mà ánh sáng đang phải giao tranh với quyền lực của tối tăm. Bởi vì con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối, nơi con người đã có sẵn khả năng để mù quáng: đó là khả năng tự đặt cho mình những lý do rất tốt để khỏi nhìn thấy, tự tạo cho mình những điều hiển nhiên giả tạo và từ chối mở mắt vì bảo rằng mình “trông thấy”. Ấy là bởi vì ánh sáng rất đòi hỏi. Ánh sáng bó buộc con người phải xét lại biết bao điều, từ bỏ biết bao thói quen và đôi khi phải đoạn tuyệt với cả một môi trường sống. Cái nhìn của con người đã bị rối loạn vì tất cả những điều đó. Cho nên con người cần phải tìm lại sự trong trắng của thời thơ ấu. Đó là ý nghĩa của hoạt cảnh chữa lành người mù bẩm sinh. Hoạt cảnh này chẳng khác gì một vỡ kịch diễn lại một lời nói của Đức Giêsu: “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt ngươi lành lặn thì toàn thân ngươi sáng láng. Nhưng nếu mắt ngươi hư hỏng thì toàn thân ngươi sẽ sầm tối. Vậy nếu ánh sáng nơi ngươi mà đã tối tăm thì sẽ tối tăm chừng nào!” (Mt 6,22-23).

3) Hoạt cảnh người mù bẩm sinh còn cho ta thấy rõ tình cảnh của người tín hữu bi đát đến mức nào: đức tin có thể đòi ta phải mạnh mẽ đoạn tuyệt với thế gian và phải can đảm tuyên xưng sự thật. Người mù đã bị trục xuất khỏi cộng đoàn vì đã nhìn nhận Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa. Người ta xua đuổi anh như xua đuổi một con người tội lỗi. Ngay cả cha mẹ anh cũng từ chối bênh vực anh. Những lúc đó đức tin xuất hiện như một nỗi cô đơn, đức tin bị đuổi bắt. Người mù phải vượt qua sự sợ hãi, lòng vị nễ người khác, mối quan tâm quá mức đến dư luận, và phải kiên trì chinh phục độc lập, bất chấp khổ đau để đến với tự do đích thực, tự do vì Thiên Chúa.

 

62.Lời thách đố cho cuộc sống hôm nay

(Suy niệm của Lm. Antôn Hà Văn Minh)

Ga 9:1- 38 Khi Chúa Giêsu giáng trần, vua Hêrôđê đã bối rối khi nghe các đạo sĩ hỏi: Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu?’’ (Mt 2, 2).

Khi Chúa Giêsu giáng trần, vua Hêrôđê đã bối rối khi nghe các đạo sĩ  hỏi: Đức Vua  dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu?’’ (Mt 2, 2). Ông bối rối vì sợ mất ngai vàng, mặc dầu là vua kế nghiệp David, nhưng ông không đọc Kinh Thánh để hiểu sự xuất hiện của Chúa là để thực hiện  lời hứa cứu độ của Thiên Chúa, chứ không để tranh giành ngai vàng của ông. Quyền lực thế trần đã làm ông mờ mắt và không còn nhìn thấy ánh sáng  của lời hứa cứu độ, vàông đã quyết định tìm Chúa Giêsu để giết.

Chứng kiến người mù từ khi mới sinh được Chúa chữa lành, những người Pharisiêu, một tầng lớp lãnh đạo trong dân Do Thái, thay vì chia vui với người mù được chữa lành, họ hoảng hốt lo sợ. Cho dầu là những người hướng dẫn Dân chúa, nhưng họ không chịu nghiên cứu Thánh Kinh để khám phá sự xuất hiện  của lời hứa cứu độ. Mải mê với quyền lực và chỗ đứng trong xã hội, họ hăng say đi tìm cho được người đã dám chữa lành cho người mù trong ngày Sabat. Phải chăng họ yêu mến lề luật? Thưa không, họ yêu mến quyền lực mà họ đang chiếm gữ, và quyền lực đó đang đứng trước nguy cơ phá sản, vì có người mạnh thế hơn họ, quyền năng hơn họ, bởi người đó đã có thể chữa lành một người mù từ khi mới sinh.  Rồi đây dân chúng sẽ quay lưng với họ để chạy theo con người có quyền năng đó. Vì quyền lợi thế trần họ quyết loại trừ Chúa, mặc dầu có thể họ cũng nhận ra rằng Đấng đã chữa lành cho người mù phải là Đấng đến từ Thiên Chúa, điều mà ngừoi mù đã minh định: “Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy.32 Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.33 Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì."

Việc loại trừ Đức Kitô không dừng lại ở giai đoạn Người hiện diện hữu hình trog lịch sử Dân Do Thái, việc đó còn được tiếp tục cho đến ngày hôm nay, cho dẫu Tin Mừng Chúa Giêsu được loan báo mang lại bào là vui mừng và hy vọng. Đức Phanxicô trong Tông huấn Niềm vui Tin Mừng đã diễn đạt niềm vui của những con người gặp gỡ được Đức Kitô: Các môn đệ “vui mừng” (Ga 20:20) khi nhìn thấy Chúa Kitô phục sinh. Trong sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy các Kitô hữu tiên khởi “dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (2:46). Bất kể các môn đệ đi đến đâu, “ở đó, người ta rất vui mừng” (8:8); ngay cả giữa cơn bách hại, họ vẫn “ngập tràn niềm vui” (13:52). Viên quan thái giám vừa mới được rửa tội “tiếp tục lên đường, lòng đầy hoan hỉ” (8:39), trong khi người cai ngục của Phaolô “và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa” (16:34). (Số 5). Thế mà tại sao nhân loại luôn tìm cách loại trừ Tin Mừng?

Cũng như Hêrôđê, hay các người Pharisiêu, người ta đã cố tình bắt bớ các Kitô hữu, giết chết những người tin vào Chúa Kitô vì Tin Mừng Chúa Kitô đụng chạm tới quyền lợi vật chất của họ. Họ không thể chấp nhận Tin Mừng khi Chúa Giêsu dạy yêu thường và tha thứ cho kẻ thù, người ta không thể đón nhận Tin Mừng  khi Chúa Giêsu dạy bán của cải mình có để chăm lo cho người nghèo. Người ta không thể chấp nhận ánh sáng Tin Mừng, bởi vì ánh sáng đó đã tỏ cho họ thấy những thủ đoạn hèn hạ, lòng tham lam vô đáy và những đam mê ăn chơi vô độ đã giết chết sự sống đích thật, cần phải từ bỏ, sám hối và trở về. Không chỉ họ từ chối lời mời gọi trở về, nhưng còn tìm cách để huỷ diệt ánh sáng đó. Họ muốn mãi bước đi trong bóng đêm của sự chết vì sự giả dối của thế trần đã làm cho họ ra u mê. Vâng, Tin Mừng của Chúa Kitô luôn là lời thách đố cho người thời đại hôm nay, một thời đại đang bị tục hoá, và chủ nghĩa hưởng thụ ích kỷ đang nở rộ trong xã hội hôm nay, để người đương đại đắm chìm trong một lối sống ích kỷ, vô cảm và tha nhân trở thành kẻ thù của nhau.

Lạy Chúa, Chúa đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh, xin cho ánh sáng Đức tin luôn soi dẫn cuộc sống chúng con , để chúng con nhận ra những hiểm nguy làm tổn hại đến cuộc sống đức tin của chúng con để chúng con can đảm xa tránh, và mạnh dạn làm chứng cho Tin Mừng. Amen.

 

63.Xóa bỏ định kiến

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Trong cuộc sống, chúng ta thường coi thường nhau bởi thái độ định kiến. Vì có thái độ định kiến này, mà chúng ta không phám phá điều mới mẻ tốt đẹp và tích cực của nhau. Vì thái độ định kiến này, chúng ta coi thường người khác, quen quá biết rõ nhau quá mà, chẳng xa lạ gì cho nên dể dàng vui mừng trước thất bại của người khác, khó chịu khi người khác thành công. Vì vậy, chẳng lạ gì, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy một trong rất nhiều những bằng chứng tố giác định kiến hẹp hòi, bất nhân này. Cụ thể, người Do thái, đúng hơn, những người lãnh đạo tôn giáo và chính quyền Do thái luôn luôn có sẵn một định kiến không hay về Chúa Giêsu. Từ đó họ luôn một cái nhìn, một lối nghĩ, một não trạng đi từ thù ghét đến chống đối, và sau cùng là kết án Chúa Giêsu, và những ai có liên quan với Người, bất chấp tất cả mọi người, dù đó là ai, có lời nói hay, hành vi tốt, điều có lợi cho sự sống, họ cũng cho là quân tội lỗi... Chẳng hạn, một người bị khiếm thị từ khi mới sinh, được Chúa Giêsu chữa cho sáng mắt, lại bị đuổi ra khỏi hội đường vì lý do: "Mày sinh ra trong tội". Thực ra anh ta chẳng làm gì nên tội vì anh khiếm thị bẩm sinh chứ anh có tội gì, và hôm nay anh được Chúa chữa lành vậy anh chỉ là người được chữa lành bệnh trong ngày Sabat, ngày lễ nghỉ của người Do thái. Thế mà Chúa Giêsu và anh bị kết tội vi phạm ngày lễ nghỉ.

Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, anh khiếm thị đã phải chịu cảnh tối tăm, chắc chắn đã làm cho cha mẹ anh rất đau buồn. Lớn lên ý thức thân phận khiếm khuyết của mình, chắc anh cũng mặc cảm, và ước mơ được nhìn thấy. Lẽ ra dấu lạ được sáng mắt ấy, phải là một tin mừng, một niềm vui trọng đại cho tất cả những ai biết anh, những ai đã từng thấy anh phải đi lang thang khắp đó đây ... Lẽ ra dấu lạ sáng mắt kỳ diệu ấy phải được mọi người ca tụng và truyền cho nhau như một huyền nhiệm mà người bình thường không ai làm được nỗi. Bằng chứng là từ thuở anh mới sinh cho đến bây giờ, chưa có ai, dù một mảy may, có thể giúp anh thấy được, dẫu chỉ là một cái nháy mắt. Lẽ ra sau dấu lạ được sáng mắt này, anh phải được mọi người chúc mừng mới đúng. Nhưng hoàn toàn ngược lại, dấu lạ mà mọi người thời đó không ai dám nghĩ tới, lại bị coi là một hành động tội lỗi, kết quả được sáng mắt lại bị coi là kết quả của tội. Còn Đấng đã chữa anh khỏi khiếm thị, Đức Giêsu, hơn cả những thầy thuốc lúc bấy giờ (đã không chữa được cho anh), lại bị coi là một kẻ tội lỗi. Họ còn nói Chúa Giêsu thế này: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa. Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi".

Đáng thương cho những người Do thái thời Chúa Giêsu. Thay vì Chúa Giêsu trở nên chốn nương tựa cho niềm tin của họ vào Thiên Chúa, nhưng bởi đã nuôi sẵn trong tim, trong óc mình một định kiến ganh tỵ, thù ghét và chống đối, một định kiến ảo tưởng chỉ có bản thân mình mới có quyền vượt lên trên người khác, đã làm cho họ hoàn toàn đui mù nhân cách, lương tâm và con tim. Cái mù đôi mắt, dù là một nỗi bất hạnh, nhưng không đáng sợ bằng cái mù tâm hồn. Đui mù tâm hồn làm cho người ta chỉ biết dừng lại trên chính mình và loại trừ người khác, đưa người ta đến chỗ kết án mà quên kiểm tra mình, làm cho mình không nhìn thấy gì hết mà chỉ sống ảo tưởng: Mình là trên, là tốt nhất, thiện nhất và vô tội còn mọi người xung quanh không làm được gì, chẳng tốt gì mà có tốt chỉ là một việc nào đó, còn toàn là tội thôi…

Nhưng cũng đáng thương và đáng sợ vô cùng cho tất cả chúng ta, chúng ta cũng có sẵn một định kiến nào đó không hay cho anh chị em mình: Một người đã từng vướng vào tội ăn trộm, suốt đời anh ta chỉ là một tên ăn trộm dù đã thi hành án xong hoàn lương, một cô gái lỡ lầm ngã vào con đường buôn son, bán phấn, suốt đời cô trở thành nạn nhân của những lời dè pha không dứt dù đã cải tạo tốt; một người vừa ra khỏi tù, gõ hết cửa nghề nghiệp này, đến cửa nghề nghiệp khác, không ai dám đón nhận; một người lỡ mắc bệnh dịch COVID 19 thay vì được thông cảm, chúng ta nhìn người ấy bằng ánh mắt khi dễ… Bởi đó, thay vì anh chị em của ta có thể nên tốt thì do định kiến của mọi người, đẩy họ rơi vào những hoàn cảnh còn bi đát hơn.

Chúa Giêsu không bao giờ có sẵn một định kiến như thế. Chúa sẵn sàng quên hết lỗi của chị phụ nữ có sáu đời chồng mà Người gặp bên bờ giếng Giacop, và cũng y như thế đối với người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Giọt nước mắt sám hối của cô Maria đổ trên chân Chúa Giêsu, đã làm cho Chúa ngay lập tức không còn nhớ đến tội của cô. Mãi mãi không ai nghe thấy Chúa nhắc tới sự tranh giành quyền lực của hai anh em Giacôbê và Gioan. Chúa cũng không bao giờ truất quyền làm giáo hoàng của Phêrô, vì nông nổi mà chối Thầy đến ba lần chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Chúa cũng không bao giờ mở lời trách móc Giuda nặng nề: "Mày sinh ra trong tội", như người Do thái lên án anh khiếm thị hôm nay, dẫu Chúa Giêsu có quyền làm điều đó, vì Chúa là Chúa và Giuda phạm tội tày trời: đan tâm bán đứng Thầy mình. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ nhẫn tâm giết mình: "Xin Cha tha cho họ...". Và hôm nay, Chúa cũng không bao giờ có sẵn một định kiến hẹp hòi nào đối với chính chúng ta dù có bao nhiêu lần đi xưng tội, là bấy nhiêu lần Chúa quên tội ta, quên tất! còn chúng ta thì cứ tái phạm...

Mùa chay là mùa ăn năn sám hối. Hãy bắt đầu ăn năn sám hối bằng sự nhìn nhận và tin tưởng anh chị em quanh mình. Hãy gở bỏ cái mặt nạ xấu xa vô hình mà ta đã dán lên cuộc đời của một ai đó. Hãy xóa đi những định kiến xấu trong lòng ta để mỗi ngày trở nên giống Chúa Giêsu hơn. Amen.

 

64.Xin Chúa cho được thấy Chúa trong cuộc đời

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Chắc nhiều người trong chúng ta biết người đàn bà phi thường Helen Keller, người Mỹ là một nữ văn sĩ, nhà hoạt động xã hội và giảng viên đại học vừa khiếm thị vừa khiếm thính. Bà là người khiếm thị khiếm thính đầu tiên trên thế giới nhận bằng thạch sĩ nghệ thuật. Bà Hellen Keller sinh ra là một bé gái bình thường, nhưng chỉ sau một trận sốt bại não, cô bé  đã không nhìn thấy và không nghe thấy âm thanh. Sau đó, mẹ cô Hellen đưa con gái của mình tới học tại trường dành cho người khiếm thị. Tại đây Keller đã được gặp cô gia sư Anne và với tình yêu kiên nhẫn, cô giáo đã giúp cho bé Helen vượt lên số phận cách kiên cường: Bà Helen đã không chỉ biết đọc biết viết và nghe được và trở thành nhà văn huyền thoại đi vào lịch sử nhân loại hôm nay. Thật khó có thể kể hết những gian nan vất vả của bà Helen trên hành trình tìm đến với ánh sáng và âm thanh. Đành rằng Helen may mắn gặp được cô giáo Anne có trái tim nhân hậu và nhiệt huyết song nếu cô bé Helen chẳng chịu hợp tác với cô giáo, chấp nhận buông trôi cuộc đời mình vĩnh viễn trong tăm tối thì cô giáo Anne cũng đành phải bó tay. Nhưng Helen đã không chịu đầu hàng số phận, đã nhẫn nại, kiên trì và đầy nghị lực để chứng mình cho mọi người biết rằng mình tàn nhưng không phế.

Vâng, người khiếm thị trong Tin Mừng hôm nay được Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa là chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt đức tin cho anh, để anh nhận ra Người bởi Thiên Chúa mà đến, là Con Thiên Chúa, là Ánh sáng của trần gian. Nhưng điếu đáng chú ý ở đây là đâu phải một sớm một chiều mà anh có được con mắt thể xác và đức tin ngời sáng như thế. Anh đã phải mò mẫm đi đến với Chúa dù bị người ta khinh chê, xua đổi vì cho anh là kẻ có tội. Anh đã phải vượt qua một chặng đường dài đầy cam go thử thách của của những người Pharisêu sáng mắt hạch sách, ngăn đe, dọa nạt của giới lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ nhưng anh một mực chứng minh rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người khiếm thị từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 31-33). Cuối cùng, thì anh đã vượt qua cuộc hành trình đầy cam go để đến với Chúa và được lòng thương xót Chúa chữa lành đôi mắt thể xác và đức tin cho anh.

Nơi con người có rất nhiều loại khuyết tật, nhưng khuyết tật khiếm thị là một trong những khuyết tật khổ sở nhất, bất hạnh nhất vì người ta nói rằng: “. ”. Như thế, đã là người có mắt mà không nhìn thấy gì cả, chỉ là một màn đen thui, thì có phải là bất hạnh không! Thưa quý ông bà anh chị em. Chúng ta thật hạnh phúc khi chúng ta không khiếm thị thể lý cũng như tinh thần nhưng trong cuộc sống mắt chúng ta mờ vì lỗi phạm những điều bất chính: tham sân si, ham muốn xác thịt, lòng ghen ghét, giận hờn... Mình biết rõ những hành động đó không đúng nhưng vẫn làm như thường. Có khi mình biết nhưng biết lơ mơ, không có khả năng giúp mình nhận rõ vấn đề không chỉ nhìn bằng mắt mà còn bằng trái tim và đức tin. Rõ ràng chúng ta thiếu ánh sáng Lời Chúa. Anh khiếm thị đã làm gì để thoát ra khỏi cảnh khiếm thị? Chỉ nhờ Lời của Thiên Chúa. Tin vào sự thật là Đức Kitô bởi Thiên Chúa mà đến, Đấng là Ánh sáng thế gian. Tin vào Chúa Giêsu, chính Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi khiếm thị thiêng liêng. Tin như thế chúng ta sẵn sàng bước theo Ánh sáng của Chúa Giêsu và Người sẽ giúp cho ta “ăn ở như con cái ánh sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật” (Ep 5,8).

Anh khiếm thị đã làm gì để thoát ra khỏi cảnh khiếm thị? Chỉ nhờ Lời Chúa. Chúng ta cũng vậy, Lời Chúa đến không chỉ qua các Giám mục, linh mục mà còn là những người trong gia đình, người bạn mà mình gặp gỡ trong cuộc đời. Lời Chúa còn đến với chúng ta qua chính kinh nghiệm của cuộc sống, thường là những kinh nghiệm đau thương, nghèo nàn, cô đơn... làm chúng ta khám phá ra Thiên Chúa có mặt trong cuộc đời chúng ta làm chúng ta bình an vượt khó vượt khổ như bà Halen. Cho nên, chàng niên thoát ra cảnh khiếm thị là ánh sáng của Lời Chúa và chỉ trong ánh sáng Lời Chúa, chúng ta nhìn thấy ánh sáng là bình an và thánh thiện. Để Lời Chúa trở thành ánh sáng bình an và thánh thiện cho đời ta thì chúng ta phải chấp nhận trả giá. Anh thanh niên đã trả giá là phải  chịu bao nhiêu gian khổ, dù người đời xua đủa nhưng anh đã đến được với Chúa để anh có đức tin, có Chúa trong đời anh làm cho đời anh tươi sáng và rạng ngời như anh mong muốn.

Trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô đã nhắc chúng ta: “Trước kia, khi chưa lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta chưa biết Chúa Kitô, chưa tin nhận Chúa Kitô. Chúng ta còn tối tăm. Nhưng ngày nay, qua bí tích Rửa Tội trong Chúa Kitô, chúng ta đã thuộc về ánh sáng, đã là ánh sáng rồi. Vì vậy chúng ta phải đi trong ánh sáng, phải làm những việc tốt lành, công chính, chân thật, bác ái. Ngài kêu gọi những ai còn ngủ mê trong tối tăm tội lỗi, hãy tỉnh thức, hãy ra khỏi cõi chết để được ánh sáng của Chúa Kitô Phục Sinh chiếu soi” (x. Ep 5,8-14). Vì thế, sống tinh thần Mùa Chay là bước đi trong ánh sáng của Chúa Kitô, là làm bừng sáng lên ánh sáng của Tin Mừng trong cuộc đời chúng ta bằng những hành động cụ thể thiết thực như Ngôn sứ Isaia đã kêu gọi chúng ta ngay từ đầu Mùa Chay: “Hãy xóa bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi thứ gông cùm, chia cơm bánh cho người nghèo đói, tiếp rước kẻ phiêu bạt không nhà, cung cấp áo quần cho ai rách nát, không né tránh trước đồng bào cốt nhục” (Is 58,6-8).

Vì vậy, ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa ban cho chúng ta đôi mắt sáng suốt của đức tin, nhờ đó chúng ta biết được ý nghĩa của cuộc đời, thấy được con đường chúng ta phải đi và những việc chúng ta phải làm để đạt đến hạnh phúc thật là được phục sinh với Chúa muôn đời. Amen.

 

65.Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành

Chi Tiết Hay

Người đàn ông mù đã "sáng" ra nhiều hơn nữa khi anh ta bị tra hỏi. Sau khi được chữa lành anh vẫn nói "tôi không biết". Nhưng sau một lúc tranh luận, anh ta cho rằng Đức Giêsu là "một vị ngôn sứ". Sau khi bị tra hỏi, anh ta tuyên xưng thêm rằng Đức Giêsu là "người bởi Thiên Chúa mà đến". Cuối cùng, khi thừa nhận mình dốt nát (hay là mù lòa) và được chính Đức Giêsu dạy bảo, anh ta thú nhận "Thưa Ngài, tôi tin."

Ngược laị với anh mù là những vị không những sáng mắt mà còn thông luật cuả Môsê và luật giáo hội nữa. Đầu tiên họ nhìn thấy phép lạ nhưng không biết do quyền của ai. Sau đó họ thắc mắc không biết ông có bị mù thực sự không. Cuối cùng họ kết luận là người đàn ông kia là một kẻ có tội và trục xuất anh (và cả Đức Giêsu nữa). Thế là họ đã bị đui mù hoàn toàn.

"Ta đến trong thế gian để gây chia rẽ", "chia rẽ" đây ngụ ý là ngày phán xét Chúa sẽ phân chia kẻ lành khỏi người dữ.

Một Điểm Chính

Đức Giêsu là ánh sáng cho thế gian.

Một người mù lòa tầm thường được thấy vì tin vào Đức Giêsu. Những người có chức vị cao trọng đầy quyền thế thì lại không nhìn ra ánh sáng chân lý. Kinh thánh hay nêu ra những mâu thuẫn như vậy. Một lần nữa, Đức Giêsu lại đảo lộn cả xã hội.

Suy Niệm

Tôi có nhận ra tình trạng mù lòa của tôi, và xin Chúa Giêsu ban cho ánh sáng không? Ngài có mở mắt cho tôi không?

Có khi nào lòng tự hào về kiến thức và khả năng tự lực làm cho tôi trở nên mù lòa không? Tôi đã làm gì để bị lâm vào tình trạng tăm tối đó?

 

66.Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Luật Mô-sê – do Thiên Chúa ban hành – kết án rất nặng những người lỗi luật sa-bát. Tại sao Đức Giêsu lại dám chữa bệnh trong ngày lề luật cấm làm việc? Ngài không tuân hành luật lệ chính Chúa Cha ban hành sao? Ngài làm gương xấu chăng? Ngài hành động theo nguyên tắc nào?

2. Lề luật có phải là mục đích của con người không? Mục đích của lề luật là gì? Giữa mục đích của lề luật và chính lề luật, cái nào trọng hơn? Con người phải thực hiện cái nào?

Suy tư gợi ý:

1. Đức Giêsu xem ra không nghiêm chỉnh giữ luật Mô-sê

Một trong những lý do khiến cho người ta không nhận ra các vị ngôn sứ trong thời đại của mình là các ngôn sứ ấy có vẻ như không sống đúng theo quan niệm triết học, thần học hay đạo đức của người đương thời. Người ta có lý của người ta. Lý của họ căn cứ trên sách vở đàng hoàng, họ cũng «nói có sách, mách có chứng» chứ không phải vô căn cứ. Thật vậy, một trong những điều khiến các kinh sư Do Thái không nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế mà họ đang trông chờ, vì họ lý luận: «Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát».

Luật Mô-sê chỉ định rõ ràng phải thi hành thật nghiêm chỉnh luật nghỉ ngày sa-bát: «Ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi» (Xh 20,10). Vi phạm ngày sa-bát là một trọng tội đáng tử hình: «Các ngươi phải giữ ngày sa-bát, vì đó là ngày thánh đối với các ngươi. Kẻ nào vi phạm điều ấy, thì sẽ bị xử tử; phải, kẻ nào làm việc trong ngày ấy, sẽ bị khai trừ khỏi dân nó» (Xh 31,14; xem 35,2; Đnl 5,14). Như vậy, theo quan niệm của các kinh sư Do Thái, một người xuất phát từ Thiên Chúa ắt phải tuân giữ luật sa-bát thậm chí nghiêm chỉnh hơn họ. Nghĩ như thế xem ra rất hợp lý.

Thế mà Đức Giêsu lại chữa bệnh trong ngày sa-bát, là điều không được phép làm trong ngày ấy, mà câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình. Dưới mắt các kinh sư Do Thái, Ngài đã vi phạm luật này không phải chỉ có lần này, mà đã rất nhiều lần (xem Mt 12,1-2; 12,12-13; Lc 13,13; 14,3-4; Ga 5,8-11; 9,14). Nếu chiếu theo luật Mô-sê, Ngài đáng bị tử hình. Vì thế, rất nhiều lần họ tìm cách hãm hại và giết Ngài là để thi hành luật Mô-sê (xem Mt 12,14; Mc 3,6; 11,8; 12; v. v…). Để tránh hành động theo kiểu các kinh sư Do Thái, nhất là đối với những ngôn sứ của thời đại, chúng ta cần hiểu rõ hơn về lề luật.

2. Vai trò và giới hạn của lề luật

Trong xã hội cũng như Giáo Hội, không thể không có lề luật. Lề luật làm cho xã hội có tôn ti trật tự, nhờ đó có an ninh, tính mạng, của cải của mọi người được tôn trọng và bảo đảm. Trong tôn giáo, lề luật giúp mọi người thực hiện được lý tưởng của tôn giáo, là bản đồ chỉ dẫn con người tiến bộ trong lãnh vực tâm linh. Nói chung, trong xã hội con người, dù nhỏ bé như gia đình, hội đoàn, hay lớn lao như quốc gia, thế giới, xã hội nào cũng cần có luật lệ.

Tuy nhiên, luật lệ không phải là một cái gì tuyệt đối mà tất cả mọi người phải tuân theo trong tất cả mọi trường hợp. Có những điều còn cao trọng hơn lề luật: đó là tình yêu được phản ánh nơi lương tâm. Theo luân lý Kitô giáo, người Kitô hữu phải coi mệnh lệnh của lương tâm đã được giáo dục của mình hơn cả luật của chính Giáo Hội, và đương nhiên cả luật đời nữa. Luật tối thượng là luật của Thiên Chúa, là Tình Yêu, được biểu hiện nơi lương tâm ngay thẳng của con người. Đối với cá nhân, lương tâm ngay thẳng là tiêu chuẩn cuối cùng mà con người phải theo khi có những xung đột giữa các tiêu chuẩn phải theo, trong đó có lề luật. Sách Giáo lý chung viết: «Con người luôn luôn phải vâng theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình» (số 1800).

3. Luật lệ vì con người, chứ không phải con người vì lề luật

Trong Kitô giáo, luật lệ không phải là những nguyên lý tuyệt đối phải tuân theo, nó chỉ là một phương tiện bất toàn, vì trong nhiều trường hợp, phương tiện này lại đi ngược lại với mục đích. Xin đan cử một trường hợp mà tôi đã từng gặp: Một buổi chiều Chúa nhật, một lương y ở một vùng quê rất hiếm thầy thuốc nọ đang chuẩn bị đi lễ vì sáng chưa đi, thì có một bệnh nhân sốt rét đến năn nỉ hết lời xin ông ta chữa bệnh, vì bệnh thì nặng mà nhà thì quá xa, vả lại trời sắp tối. Nhưng nghĩ tới luật Giáo Hội buộc nặng phải đi dự lễ, ông ta đã quyết liệt từ chối mặc cho người bệnh ra sao thì ra, sau khi đã giải thích rõ lý do. Trường hợp này, ông thầy thuốc tuy giữ đúng luật Giáo Hội, nhưng lại hành động ngược lại với cốt tủy và mục đích của lề luật là tinh thần yêu thương (mến Chúa và yêu người). Một trường hợp khác: luật Chúa đòi hỏi người Kitô hữu phải luôn luôn nói sự thật, vì sự dối trá thường gây thiệt hại cho tha nhân hoặc cho chính mình. Mục đích của luật này là thực hiện đức ái. Nhưng trong một số trường hợp cá biệt (chẳng hạn bí mật quốc gia, hay khi bị kẻ địch điều tra về đồng bạn cùng chiến đấu cho lý tưởng, hay thầy thuốc với bệnh nhân ung thư), lời nói thật có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội, cho ích lợi chung, hay cho người vô tội, thì riêng trong trường hợp đó, việc nói sự thật đi ngược lại với mục đích của luật buộc nói sự thật. Những trường hợp tương tự như thế, người Kitô hữu không nên câu chấp vào lề luật: «Ngày sabát (hay lề luật) được làm ra vì con người, chứ không phải là con người được dựng nên vì ngày sabát (hay lề luật)» (Mc 2,27).

Theo Phaolô «Lề Luật là thánh và điều răn cũng là thánh, đều đúng và tốt» (Rm 7,12; 1Tm 1,8) vì nó diễn tả ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng cũng theo Phao-lô, «lề luật không phải được lập ra cho những người công chính», mà cho những người còn yếu đuối, non nớt về trí huệ, về tâm linh (1Tm 1,9). Vì thế, không thể căn cứ vào việc giữ lề luật nghiêm chỉnh của một người mà cho rằng người ấy là công chính: «Sự công chính không hệ tại việc giữ luật pháp, vì nếu như vậy thì cái chết của Đức Kitô trở nên vô ích» (Gl 2,21). Sự công chính đòi hỏi một cái gì cao hơn nữa. Về vấn đề này, thánh Phao-lô nói rất rõ và rất nhiều: «Không ai được nên công chính trước mặt Thiên Chúa nhờ Lề Luật, đó là điều hiển nhiên, vì người công chính sống bởi đức tin» (Gl 3,11); «Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy. Luật chẳng qua chỉ làm cho người ta ý thức về tội» (Rm 3,20); «Người ta được nên công chính vì tin chứ không phải vì làm những gì luật dạy» (Rm 3,28), v.v…

4. Sự lợi hại của lề luật

Lề luật có thể là một con dao hai lưỡi: một đằng rất cần thiết và có lợi cho tâm linh, nhưng đằng khác có những bất lợi. Chẳng hạn khi người ta giữ luật một cách hoàn hảo thì họ lại dễ ỷ vào đó để tự hào, kiêu căng, tự cho mình là công chính, như trường hợp người Pharisiêu vào đền thờ cầu nguyện cùng với người thu thuế (xem Lc 18,9-14). Chính sự tự hào đó đã phá đổ tất cả mọi công trình giữ luật của ông. Một nhược điểm khác của lề luật là: tuy soi sáng cho tâm trí, nhưng lại không đem lại sức mạnh nội tâm để sống theo sự soi sáng đó. Người ta có thể biết rất rõ lề luật dạy phải làm thế này thế kia, nhưng không vì biết rõ luật mà người ta có động lực thúc đẩy để làm những điều luật đòi buộc, mà lắm khi lại bị thúc đẩy làm những điều trái với Lề Luật: «Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm» (Rm 7,14). Chính vì thế mà người Do Thái, tuy có Lề Luật của Thiên Chúa – tức Luật Môsê – nhưng họ cũng tội lỗi không kém gì dân ngoại (xem Rm 2,17-18.21-24).

Điều quan trọng mà người Kitô hữu phải củng cố chính là tình yêu. Trong Kitô giáo, tình yêu chính là mục đích của lề luật: lề luật giúp người ta thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Tình yêu làm cho người ta nên giống Thiên Chúa, hay nên công chính. Do đó, lề luật chỉ là phương tiện, còn tình yêu mới chính là mục đích. Đang khi lề luật không phải là một động lực thúc đẩy người ta làm điều thiện, thì tình yêu chính là một động lực rất mạnh. Nếu theo như Phao-lô, «lề luật không phải được lập ra cho những người công chính» (1Tm 1,9), điều đó có nghĩa là lề luật không được lập nên cho những người có tình yêu đích thực. Người có tình yêu đích thực – đối với Thiên Chúa và mọi người – thì chỉ cần hành động theo sự đòi hỏi hay thúc đẩy của tình yêu. Chính Đức Giêsu hành động theo sự thúc đẩy của tình yêu chứ không theo sự soi sáng của lề luật (xem Mt 12,11-12). Thánh Âu Tinh cũng nói: «Cứ yêu đi đã rồi muốn làm gì thì làm» (Ama et fac quod vis). Người có tình yêu đích thực tự nhiên sẽ làm đúng với lề luật. Và nếu họ có làm gì khác với lề luật, thì trường hợp đó, họ đã làm đúng hơn và cao hơn mức lề luật đòi hỏi.

Cầu nguyện

Lạy Cha, chúng con đang sống trong một thế giới đầy bất công. Tình yêu thúc đẩy chúng con phải làm một cái gì. Nhưng có biết bao nhiêu nguyên tắc của luân lý, của xã hội, của Giáo Hội ngăn cản chúng con: nào là không được bạo động, không nên dùng sức mạnh, không nên làm chính trị, v.v… Nhưng người cha hay người mẹ sẽ làm gì khi đứa con nhỏ của mình gặp nguy hiểm, đang bị hãm hiếp? Họ sẽ làm theo tình yêu thúc đẩy, hay sẽ theo luật lệ của xã hội? Lạy Cha, chúng con phải làm theo cái gì, theo sự thúc đẩy của tình yêu, của lương tâm, hay theo những nguyên tắc của con người, của xã hội, thậm chí của Giáo Hội đặt ra? Xin Cha hãy soi sáng cho chúng con. Ý Cha muốn thế nào?

 

67.Suy niệm của JKN2

Câu hỏi gợi ý:

1. Luật Môsê – cũng là luật của Thiên Chúa – buộc phải xử tử những kẻ ngoại tình bị bắt quả tang. Đức Giêsu có tuân theo luật ấy không? Tại sao?

2. Luật mới của Đức Giêsu – luật yêu thương – đòi hỏi những gì? Nếu không biết thông cảm và tha thứ, mà chỉ thích phán xử và kết án, ta có phải là kẻ giữ luật mới của Ngài không?

Suy tư gợi ý:

1. Các kinh sư Do Thái gài bẫy Đức Giêsu

Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp người phụ nữ ngoại tình này để gài bẫy Đức Giêsu hầu tìm ra cớ tố cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không nên ném đá phụ nữ này, thì Ngài đã không tuân luật Môsê. Môsê viết: «Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử tử» (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Mà Ngài đã không tuân luật Môsê, thì họ sẽ tố cáo Ngài trước dân chúng, và dân chúng buộc phải tẩy chay Ngài. Vì giữa luật Môsê và Ngài, thì dân chúng phải tin vào luật Môsê hơn. – Nếu Ngài tuyên bó6 phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài với chính quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma xét xử, vì Ngài đã vi phạm luật Rôma. Theo luật Rôma, người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả (x. Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Ngài chẳng những giúp Ngài thoát cái bẫy này một cách tài tình, mà còn làm ê mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời còn cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.

2. Tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật Môsê?

Luật Môsê là luật của Thiên Chúa (x.2Mcb 7,11; Tv 1,2; Lc 2,23-24). Thời Cựu ước, dân Do Thái ai nấy đều tin rằng đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là luật muôn đời không bao giờ thay đổi. Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu xác định luật này là luật vĩnh viễn cho con người (x. Xh 12,17.24; 27,21; 30,21; Lv 6,11.15; 7,34; Br 4,1; v.v…), là luật chung cho cả địa cầu (x.1Sb 16,14; 2Sm 7,19; Tv 105,7). Và con người phải tuân giữ luật, vì có như thế mới là tôn kính và yêu mến Thiên Chúa (Đnl 17,19; Gs 22,5; Hc 2,16; 15,1). Ai tuân giữ luật thì được hạnh phúc, được sống đời đời (Tv 119,1.165; Cn 29,18; Kn 6,18). Ai không giữ luật thì chính mình và cả con cháu ba bốn đời sẽ Thiên Chúa bị nguyền rủa, trừng phạt (x.1Sb 15,13; Xh 34,7; Er 7,26; Gr 19,15).

Vậy, luật Môsê buộc phải xử tử hình những kẻ phạm tội ngoại tình, tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật ấy mà lại tìm cách tha cho người phụ nữ này? Đức Giêsu không giữ luật? Có phải vì Ngài không muốn vi phạm luật Rôma nên đành vi phạm luật Môsê? Hay Ngài chỉ muốn tìm cách nào thoát khỏi cái bẫy này? Hay Ngài là một nhà làm luật mới?

3. Đức Giêsu đến lập luật mới là luật yêu thương và tha thứ

Nhiều người tưởng rằng hễ đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là thứ luật muôn đời không thay đổi theo không gian và thời gian, nghĩa là luật của Ngài phải được áp dụng cho mọi dân tộc trong mọi thời đại. Nhưng không phải như vậy! Thiên Chúa lập luật cho con người chứ không phải cho Ngài. Luật đó vì con người, nên phải phù hợp với con người. Mà con người thì luôn luôn thay đổi: trình độ tâm linh và sự hiểu biết của con người luôn luôn tiến triển. Nên để phù hợp với con người, luật Chúa cũng phải thay đổi. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy luật cũ của Môsê đã được thay thế bằng luật mới của Đức Giêsu: «Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê» (Rm 3,21; x. Ep 2,15; Dt 7,18). Các tông đồ đã chính thức tuyên bố bãi bỏ luật Môsê (x. Cv 15,28-29).

Con người thời Cựu ước giống như nhân loại còn là trẻ con. Khi ta còn là trẻ con, cha mẹ ta ra luật cho ta, và bắt ta giữ. Nếu ta không giữ thì bị đòn, nếu ta giữ thì được khen thưởng. Động cơ giữ luật của ta là sợ phạt và ham thưởng. Nhưng khi lớn lên, ta không còn giữ những luật đơn sơ ngày xưa nữa, không giữ luật một cách nô lệ nữa. Động cơ khiến ta giữ luật không còn là sợ hãi hay ham thưởng nữa, mà là tình yêu (đối với Thiên Chúa, với chân, thiện, mỹ, với cha mẹ, với mọi người). Khi trưởng thành, ta biết điều nào là đúng, là hợp lý, là phù hợp với tình yêu, và ta biết ta phải hành động thế nào.

Thời Đức Giêsu, nhân loại đã trưởng thành về tâm linh hơn thời Môsê, nên Ngài đã khai mạc một kỷ nguyên mới, với luật mới của Ngài. Luật của Ngài chỉ có một khoản duy nhất: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Vì thế, Ngài cũng như chúng ta, những kẻ theo Ngài, không còn hành xử theo luật Môsê nữa, mà hành xử theo sự thúc đẩy của tình yêu.

4. Luật yêu thương đòi hỏi sự thông cảm và tha thứ

Tình yêu đòi hỏi phải thông cảm và tha thứ… Thông cảm vì bản thân ta cũng như mọi người khác đều rất yếu đuối và bị lệ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh. Kết cuộc, con người «ai cũng phạm tội» (Rm 5,12): «Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không» (Rm 3,10; x.1Ga 1,10). Nếu mình cũng phạm tội, mà mình lại kết án người khác, thì quả thật có chút gì «vô liêm sỉ» ở trong đó.

Đức Giêsu tuy không hề phạm tội (x.1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu hết những tình huống đã dẫn chị ta đến với cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị. Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại vẫn muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thỏa mãn niềm kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án thì càng chứng tỏ mình trong sạch, vô tội.

Đức Giêsu thấy ác tâm của họ, Ngài kêu gọi lương tâm họ, đánh thức tính liêm sỉ trong lòng họ. Ngài bảo họ: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi». Ngài biết đã là con người yếu đuối, nếu không có ơn siêu nhiên giúp, họ không thể nào tránh được tội lỗi. Lời nói của Ngài buộc họ phải tự xét lại chính mình. Và một khi đã tự xét mình một cách thành thật, chắc chắn ai cũng thấy ít nhiều tội lỗi của mình. Ngài đã cho họ một kinh nghiệm tâm linh: hãy thông cảm với tội lỗi của kẻ khác, vì chính bản thân mình cũng có tội.

Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ.

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con cảm thấy mình rất yếu đuối. Nhiều khi con đã phạm tội, và con đã từng phải xấu hổ vì tội của con. Nhưng lạ thay, khi thấy tha nhân chung quanh con phạm tội, nhiều khi con lại mạnh mẽ lên tiếng kết án họ. Khi con phạm tội, con muốn Cha và tha nhân thông cảm và tha thứ cho con. Nhưng khi người khác phạm tội, con lại không muốn thông cảm và tha thứ cho họ. Tại sao con lại mâu thuẫn như vậy? Con là như vậy sao? Trái tim con quả là bằng đá. Xin Cha hãy sửa dạy con. Cho con một trái tim bằng thịt thật sự, biết yêu thương, thông cảm với những yếu đuối của mọi người, và sẵn sàng tha thứ tất cả.

 

68.Ánh sáng ban sự sống

Trên đường đi mua nước a-xít đậm đặc trở về để pha chế làm bình ắc-qui, anh Hiếu, thợ làm bình ắcqui, cố tránh một con chó chạy ngang qua đường, nên anh bị té xe. Những giọt a-xít từ chiếc bình bị vỡ đã bắn tung toé khắp người anh. Khủng khiếp nhất là một vài giọt đã văng trúng vào mắt anh và vĩnh viễn cướp đi đôi mắt của anh. Gặp lại anh trong cảnh mù loà, anh tâm sự: "sống trong cảnh mù loà và tối tăm này thật là khủng khiếp." Anh nói trong sự thất vọng và chán chường những lời như thế. Tôi hiểu được nỗi đau khổ quá lớn của anh và thầm cầu mong cho anh có đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng cơn đau đớn và buồn khổ mà anh đang gánh chịu. Nhưng khi đó, tôi lại suy nghĩ về một sư mù loà lớn lao hơn là sự mù loà về mặt tinh thần. Sống trong cảnh mù loà thể xác đã đau khổ như thế, thì sống trong sự mù loà về mặt thiêng liêng chắc chắn sẽ còn đau khổ hơn gấp nhiều lần. Vì những ai sống trong cảnh mù loà thiêng liêng sẽ không nhìn thấy được sự thật, không nhìn thấy ánh sáng thật mang lại sự sống đời đời cho họ. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ lúc mới sinh. Anh mù này đã gặp được chính nguồn sáng là chính Đức Giêsu. Ngài đã mở mắt cho anh và cứu chữa anh. Từ việc được sáng mắt thể xác, anh đã tiến đến việc sáng mắt tâm tâm hồn: nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhờ ơn Chúa trợ giúp anh. Đức Giêsu chính là Ánh sáng, Ánh sáng phát xuất từ Nguồn Sáng là Thiên Chúa, Ngài là Ánh sáng ban sự sống vĩnh cửu cho con người.

Thấu hiểu sự đau khổ của anh mù, Đức Giêsu đã cảm thương anh và tự nguyện đến cứu chữa anh. Ngài đã giải thoát anh khỏi đau khổ nơi thân xác như dấu chỉ của Sa tan đang đè nặng trên con người của anh. Việc chữa lành người mù từ lúc mới sinh cho ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trên ma quỷ, trên sự tối tăm và sự chết. Đức Giêsu chính là Ánh sáng ban sự sống cho hết mọi người, đặc biệt là cho những ai biết nhận ra Ngài. Câu chuyện của người mù cũng chính là câu chuyện của chính chúng ta hôm nay. Chúng ta tuy không bị mù về thể xác, nhưng rất có thế chúng ta đang bị mù về tinh thần.

1. Mù vì không nhận ra sự thật.

Sự thật đó là:

- Thiên Chúa là Đấng Tạo hoá muôn loài và là Cha của tất cả chúng ta; còn tất cả chúng ta đều là anh em với nhau.

- Con người là hồn và xác được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài

- Đức Giêsu là Con một duy nhất của Thiên Chúa, đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã chịu muôn vàn đau khổ và sỉ nhục chỉ vì yêu chúng ta.

- Tất cả những gì chúng ta đang có đều là hồng ân của Chúa ban.

- Ơn Chúa chính là sự sống của chúng ta.

- Hội thánh Công Giáo do Chúa Giêsu sáng lập chính là người mẹ dịu hiền của tất cả chúng ta.

Những sự thật đó rất nhiều khi chúng ta không nhìn thấy. Như vậy, có thể nói là chúng ta đang sống trong cảnh mù loà về mặt tinh thần và thiêng liêng.

2. Mù vì không sống theo những giá trị Tin Mừng đòi hỏi:

Lời Chúa là sự thật, là ánh sáng soi đường con người tìm về Chân Thiện Mỹ, dẫn đưa con người về sự sống vĩnh cửu. Nhưng nhiều khi vì muốn sống và làm theo ý riêng, vì lười biếng, vì nhát sợ, vì lợi lộc thấp hèn và những thú vui chóng qua ở đời này mà chúng ta đã bỏ qua Lời của Thiên Chúa.

Chấp nhận sống theo Lời Chúa là chấp nhận lội ngược dòng, chấp nhận bước trên con đường chẳng mấy ai đi. Nhưng chắc chắn ở phía cuối của con đường ấy là một tương lai huy hoàng dành cho những ai can đảm và trung tín đến cùng.

Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa chữa cho mắt tâm hồn chúng ta khỏi cảnh mù tối thiêng liêng, để chúng ta biết nhìn ra sự thật, hiểu được giá trị lớn lao của Tin mừng và can đảm sống theo những giá trị đích thực đó. Đừng bao giờ tìm cách huỷ diệt ánh sáng chân lý vì kiêu ngạo hay vì thành kiến như những Biệt phái trong Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu chính là Ánh sáng ban sự sống cho hết mọi người. Hãy hân hoan tìm đến với Ngài để được sống và sống muôn đời.

 

69.Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn

(Suy niệm của FX Phạm Đình Phước)

Thật là một hồng ân lớn khi “đôi mắt” chúng ta chiêm ngưỡng được vẻ đẹp chung quanh, chẳng hạn thấy được những người thân và những người mình yêu mến, chiêm ngắm ánh sáng lấp lánh của mặt trời lúc rạng đông, nếm hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú và chứng kiến muôn hình vạn trạng của cuộc sống. Tất cả vũ trụ như bừng sáng với với chúng ta.

Chúng ta thường nói: “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn” nghĩa là đôi mắt phản ánh tâm hồn và tấm lòng con người. Tục ngữ dân gian có câu: “Người khôn con mắt dịu hiền”, “Trán cao mắt sáng phân minh, là người học rộng, công danh tuyệt vời”. Người có tâm hồn thánh thiện thì đôi mắt bao giờ cũng đẹp; nhìn vào đôi mắt của trẻ thơ đã nói lên điều này. Mắt là cửa sổ để qua đó con người chiêm ngắm vẻ đẹp của vũ trụ vạn vật; để nhìn thấy những tấm gương những ngọn đèn soi sáng trong cuộc lữ hành trần thế.

Như thế, khi đôi mắt của ai đó không còn nhìn được nữa, thì lúc đó cảnh vật hết lung linh, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, xung quanh họ tất cả chỉ còn lại một màu đen tối. Đó là nỗi bất hạnh của một con người với đôi mắt không nhìn thấy. Người mù về thể xác là người không thể nhận được các hình ảnh qua thần kinh thị giác và do đó không có ý niệm về mầu sắc. Chúng ta có thể liên tưởng đến sự “mù lòa” về tinh thần do cặp mắt đức tin đã bị che khuất, hay do tự cao tự đại, luôn cho mình là người thông suốt nhìn rõ mọi vấn đề, cho là thánh thiện đức độ hơn người, không nhìn thấy những sai sót của mình.

Tin mừng chủ nhật IV mùa chay năm A thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt cho anh mù từ lúc mới sinh (Ga 9, 1–41). Chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là Thiên Chúa, là Ánh Sáng cho trần gian. Được chữa lành đôi mắt thể xác, đôi mắt đức tin của anh ngời sáng: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 33). Chúa Giêsu khẳng định: “Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống” (Ga 1, 12). Nhận được ánh sáng của Chúa Giêsu qua bí tích thánh tẩy, chúng ta “sống như con cái của sự sáng” theo lời dạy của thánh Phaolô, vì “hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính, chân thật” (Ep 5,8).

“Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”, câu thành ngữ đã diễn tả tầm quan trọng đặc biệt của đôi mắt. Như thế, cầu xin có được đôi mắt sáng là điều cần thiết, nhưng có được một tâm hồn đẹp và sáng ngời còn là điều cần thiết hơn. Xin cho mọi người biết mở mắt và mở lòng ra để thấy được nghĩa vụ mình phải làm cho người khác hạnh phúc, hơn là chỉ thấy quyền lợi và nhu cầu của mình. Mở mắt mở lòng để nhìn thấy cái đẹp, cái tốt nơi người khác; mở mắt mở lòng để sống yêu thương nhau.

Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt,

Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi

Con mù lòa, bên vệ đường hành khất.

Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài.

Cúi lạy Ngài, cho tai con nghe rõ,

Tiếng tha nhân cầu khẩn lượng hải hà.

Họ khổ đau, họ kêu gào than thở,

Đừng để con cứ giả điếc làm ngơ.

Cúi lạy Ngài, xin mở rộng tay con,

Đừng nắm lại giữ khư khư tất cả.

Trước cửa nhà có người nghèo đói lả,

Xin dạy con biết chia sẻ vui lòng.

Cúi lạy Ngài, cho chân con vững chãi,

Để tiến lên dẫu đường sá hiểm nguy.

Nguyện theo Ngài, thập giá đâu quản ngại,

Chúa cầm tay mà dẫn bước con đi.

(Thánh thi Kinh Sách, thứ năm tuần II)

 

70.Để công trình Thiên Chúa được tỏ hiện

(Suy niệm của Giuse Phạm Duy Thạch)

Tin Mừng ghi lại nhiều lần Đức Giêsu làm cho người mù được sáng mắt, nhưng làm cho “người mù từ thuở mới sinh” được sáng mắt thì chỉ có một lần duy nhất và chỉ có Tin Mừng thứ tư ghi lại. là một tình trạng khốn cùng trong thời gian lâu dài và khó rõ căn nguyên. Tình trạng mù từ thuở mới sinh là nền cho câu hỏi nan giải của các môn đệ: “ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta? " (Ga 9,2). Danh ngữ “các môn đệ” (số nhiều) chứng tỏ đây là câu hỏi của một tập thể chứ không chỉ một vài cá nhân. Câu hỏi của các môn đệ phát xuất từ lối suy nghĩ chung của người Do thái vẫn còn tồn tại cho đến thời Đức Giêsu: Mọi bệnh tật hay mọi nỗi bất hạnh đều là hậu quả của tội lỗi của chính đương sự hay của cha mẹ đương sự.

Quan niệm này được trình bày rất rõ trong câu chuyện của ông Job được ghi lại trong sách Job (G 4,7-8). Thật ra, ngày nay người ta cũng có thể thấy một số trường hợp bệnh tật là do chính những lỗi lầm con người gây nên. Người ta cũng phát hiện nhiều căn bệnh bẩm sinh của các trẻ em do chính những sai lầm của cha mẹ của chúng gây nên hoặc do di truyền. Kitô giáo cũng thừa nhận nguồn gốc sự ác, sự xấu là từ tội lỗi của con người (1Cr 15,22). Tuy nhiên, trong trình thuật này Đức Giêsu không hề coi tình trạng của Anh mù là do hậu quả của tội. Ngài không chấp nhận bất cứ một phương án nào do các môn đệ đưa ra. Ngài nói: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3). Đó là một lối trả lời hết sức lạ lùng. Câu trả lời này vừa giúp cho suy nghĩ của các môn đệ về đúng với quỹ đạo của nó, giải thoát cho các môn đệ khỏi một quan niệm tiêu cực vừa giúp cho anh mù thoát khỏi những cái nhìn soi mói, khinh bỉ của người đời.

Từ đầu đến giờ bệnh nhân chưa hề nói một lời nào, anh không xin chữa lành, chỉ có Đức Giêsu và các môn đệ nói về căn bệnh anh ta. Có thể anh ta cũng có cùng suy nghĩ với các môn đệ và những người Do thái khác: “mình bị mù từ thuở mới sinh có thể là do tội lỗi của cha mẹ mình hay ông bà mình”. Nếu thế, thì Đức Giêsu cũng bước đầu giải thoát cho anh khỏi cái suy nghĩ tiêu cực anh đang cùng với người khác khoác lên thân mình. Câu trả lời của Đức Giêsu thật tuyệt vời. Nó không những rũ bỏ tình trạng cùng cực của anh khỏi mọi ý nghĩ tiêu cực mà còn mặc lấy cho nó một ý nghĩa hết sức tốt đẹp: là phương tiện cho công trình Thiên Chúa được tỏ hiện. Từ một người tưởng chừng như không ngóc đầu lên nỗi anh bỗng được khoác lên vinh dự được cộng tác cách đặc biệt vào công việc của Chúa.

Công việc đó là công việc gì chưa biết, nhưng chắc chắn là một công việc hết sức khẩn thiết, cao trọng và có ý nghĩa đặc biệt đến sứ mạng của Đức Giêsu. Ngay sau đó Đức Giêsu đã tuyên bố: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy” (Ga 9,4). Động từ “phải” cho thấy tính chất khẩn thiết nếu không muốn nói là bắt buộc Đức Giêsu và các môn đệ phải làm. Việc ấy chắc rất cao trọng và tốt đẹp vì nó không phải của việc riêng của Đức Giêsu hay các môn đệ nhưng là việc của “Đấng đã sai Thầy”. Hơn nữa thực hiện công việc của Chúa Cha chính là lương thực của Đức Giêsu: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.”(Ga 4,34). Ngoài ra, Đức Giêsu còn bộc lộ bản chất của mình khi nói: “Tôi là ánh sáng thế gian”.

Tất cả những đặc tính đó cho thấy Đức Giêsu không thể không làm dấu lạ này dẫu rằng Anh mù chưa từng lên tiếng van xin. Và dĩ nhiên, theo logic của câu chuyện thì việc gì đến ắt sẽ đến. Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ chữa lành anh mù từ thuở mới sinh.

Đến đây, câu hỏi của các môn đệ nhằm tìm căn nguyên của một căn bệnh đã chuyển sang chính công việc của Thiên Chúa qua bàn tay Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đã lấy bùn làm từ nước bọt của Ngài và đất để xức vào mắt anh để anh có thể nhìn thấy lại.

Trong dấu lạ này có một chi tiết phụ nhưng lại rất lý thú. Sau khi đã xức bùn vào mắt anh mù, Đức Giêsu bảo anh đến rửa ở hồ Siloam, sau khi rửa thì anh nhìn thấy được. Tác giả ghi chú: Siloam có nghĩa là “người được sai phái”. Người được sai phái chính là một trong những danh hiệu mà tác giả Tin Mừng thứ tư dùng cho Đức Giêsu. Như thế, đến rửa ở hồ Siloam còn có một ý nghĩa ẩn dụ khác. Đó là rửa trong chính chính Đức Giêsu, người được Chúa Cha sai đến. Đức Giêsu đã chứng tỏ Ngài là ánh sáng thế gian khi ban lại ánh sáng cho anh mù.

Dĩ nhiên, dấu lạ chữa lành anh mù lại chỉ là một tiền cảnh cho một dấu lạ khác có ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Tiến trình chữa lành anh mù trải qua hai gian đoạn chính: (1) hành động của Đức Giêsu: xức bùn vào mắt anh; (2) hành động của chính anh mù: đi rửa ở hồ Siloam. Đó cũng chính là biểu tượng hai giai đoạn cho cuộc chữa lành nội tâm anh mù sau này.

Sau khi Đức Giêsu làm dấu lạ, Ngài dường như biến mất để lại một mình anh mù đối diện với cuộc sống mới thường ngày của anh. Từ một người không ai để ý đến, hoặc chỉ để ý đến với cái nhìn coi thường và khinh bỉ anh bỗng trở nên một nhân vật nổi tiếng khắp kinh thành Giêsu-sa-lem trong những ngày sau đó. Anh đã phải đối diện và trả lời rất nhiều câu hỏi của nhiều nhóm người khác nhau về việc anh nhìn thấy được. Từ những người đi đường, những người xóm giềng, đến những chức sắc giáo hội như nhóm Pharisêu. Từ lúc nhìn thấy được, cuộc đời anh đâm ra rắc rối và trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khi phải đối diện với nhiều nhóm người và phải trả lời nhiều câu hỏi như thế.

Tuy nhiên, tất cả những khó khăn vất vả xen lẫn niềm tự hào, hãnh diện ấy chính là những yếu tố hết sức cần thiết để anh từ từ “rửa trong người được sai phái” để rồi đạt được kết quả tốt đẹp nhất cho cuộc đời mình. Những rắc rối những ngày sau đó đã làm cho anh từng bước nhận ra Con Người (Đức Giêsu) là ai trong cuộc đời mình. Tác giả Tin Mừng đã mô tả hết sức tài tình từng bước khám phá Đức Giêsu của Anh mù.

Bước thứ 1: Trước những chất vấn của “những người láng giềng” (Ga 9,8) và “những người khác” cũng như “những người khác nữa” (Ga 9,9), Anh chỉ cho biết “Người đó tên là Giêsu”.

Bước thứ 2: Trước những chất vấn của những người Pharisêu, Anh ta tiến xa hơn một bước khi nói: “Người ấy là một ngôn sứ” (Ga 9,17).

Bước thứ 3: Một loạt những biện luận rất hợp lý của Anh để chứng minh cho nhóm Pharisêu và người Do thái biết: Đức Giêsu không phải là người tội lỗi (Ga 9,25) vì Thiên Chúa đã lắng nghe Ngài cầu xin (Ga 9,31) và Ngài đã làm được dấu lạ chưa từng thấy: “mở mắt cho người mù từ khi mới sinh” (Ga 9,32). Loạt biện luận ấy dẫn đến kết luận của chính Anh mù: Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (Ga 9,33). Những lời biện luận mạnh mẽ và đầy thuyết phục ấy đã khiến Anh phải trả một giá quá đắt: “họ trục xuất anh ta” (Ga 9,34). Bị trục xuất khỏi hội đường là nỗi ám ảnh rất đáng sợ cho các tín hữu thời sơ khai. Chính vì thế mà cha mẹ Anh mù đã không dám nói gì về sự kiện Anh được chữa lành mà chỉ xác nhận là trước kia anh ta bị mù. Tác giả lý giải nguyên nhân của thái độ này là vì họ “sợ những người Do thái”. Quả thế, những người Do thái quyết định: Những ai tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô thì sẽ bị trở thành “người bị khai trừ khỏi hội đường” (Ga 9,22). Không giống như cha mẹ của mình, Anh mù đã mạnh dạn bày tỏ chính kiến của mình về Đức Giêsu. Đó chính là nguyên cớ khiến cho Anh bị trục xuất. Và đó cũng chính là cơ hội để cho anh đi đến bước cuối cùng trên chặng đường khám phá Đức Giêsu.

Bước thứ 4: Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không? Khi đã biết Con Người chính là “người đang nói với anh” (Ga 9,37) anh ta đã tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin” rồi “bái lạy Người” (Ga 9,38).

Hành trình tìm kiếm Đức Giêsu của Anh mù được tóm gọn lại như sau: “Người đó tên là Giêsu” “Người ấy là một ngôn sứ” “Người ấy đến từ Thiên Chúa” “Thưa Ngài, tôi tin” “bái lạy Người”.

Tin vào Đức Giêsu là điều rất quan trọng trong thần học Tin Mừng thứ tư bởi lẽ nó sẽ là yếu tố quyết định cho sự sống còn hay hư mất của một con người: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3,36).

Như vậy, hai giai đoạn trong dấu lạ chữa lành người mù từ thuở mới sinh của Đức Giêsu được lên đến cao trào khi anh mù tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu. Việc tuyên xưng niềm tin ấy là một dấu hiệu cho thấy anh mù được chữa trị tận căn bệnh của mình. Đức Giêsu đã mở mắt cho anh nhìn thấy con đường dương gian, nhưng trên hết và tuyệt vời nhất là Ngài cho anh nhìn thấy con đường đưa đến sự sống vĩnh cửu. Tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là mở ra cho Anh con đường sống mãi mãi.

Tạm kết

Dấu lạ chữa lành “anh mù tử thuở mới sinh” cho thấy một lối nhìn rất mới mẻ, đầy tích cực của Đức Giêsu trước những đau khổ bệnh tật. Thiên Chúa không hề muốn cho người ta đau khổ nhưng quả thật Ngài có thể “viết thẳng trên những đường cong”; Ngài có thể mặc cho đau khổ những giá trị thật cao vời. Đau khổ mà con người đang mang có thể trở nên một cơ hội tốt để Thiên Chúa làm công việc của Ngài. Thật vậy, việc chữa anh mù từ thuở mới sinh của Đức Giêsu đã cho thấy điều ấy. Có thể nói Đức Giêsu đã từng bước đưa anh từ trong đau khổ tối tăm bước ra cuộc đời đầy ánh sáng huy hoàng.

Lương thực của Đức Giêsu chính là “thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” Tất cả những ai đang chịu gánh nặng của những đau khổ thể xác và đang ở trong sự mù loà về đức tin đều là đối tượng mà Đức Giêsu tìm kiếm và cứu chữa. Tất cả những cứu chữa bệnh tật của Ngài chỉ nhằm một điều: giúp cho người ta nhận biết Ngài, tuyên xưng niềm tin vào Ngài để được sự sống đời đời.

Dấu lạ chữa lành “anh mù từ thuở mới sinh” (9,1-38) cùng với dấu lạ “cho anh La-za-rô sống lại” (11,1-44) là hai dấu lạ cuối cùng, đánh dấu đỉnh điểm công trình của Đức Giêsu qua việc thực thi các dấu lạ. Hai dấu lạ này tỏ lộ rất rõ ràng hai vai trò của Đức Giêsu: là ánh sáng thế gian và là sự sống của thế gian. Cả hai được tóm lại trong câu tuyên bố của Đức Giêsu: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống" (Ga 8,12).

 

71.Niềm tin dẫn lối cuộc đời

(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)

Khi phải đương đầu với nghịch cảnh, bất hạnh, khổ đau, không ít người đã kêu trách: "Thiên Chúa đâu rồi? Nếu có Thiên Chúa, tại sao Ngài lại để cho sự ác hoành hành trên chúng tôi?"

Trước một thảm kịch trong cuộc sống, có những người tức giận chối từ Thiên Chúa, nhưng cũng không ít tâm hồn vươn lên đứng vững trong niềm tin.

Tôi ngạc nhiên vô cùng về thái độ của dân Hoa Kỳ sau biến cố tang thương tại New Yord do bọn khủng bố cuồng tín gây ra trong năm vừa qua. Trước nhưng đổ nát hoang tàn và không khí tang thương bao trùm khắp nước, ấy thế mà người ta, từ già đến trẻ, từ cao sang quan quyền đến nghèo hèn thấp kém, đều cất vang tiếng hát: "God bless America" (Thượng Đế ban phúc lành cho Hoa Kỳ). Tôi tự hỏi: tại sao trước những đống gạch vụn và những xác người bấy nát mà họ lại cất lên được lời ca đó? Họ thấy được gì trong nỗi bất hạnh tột cùng của đất nước? Phải chăng vinh quang Thượng Đế đang tỏa sáng?

Khi sự bất hạnh xảy đến, nhiều người sẽ mau đi tìm nguyên nhân gây ra nó. Cũng như khi thấy người mù từ thuở mới sinh phải lao đao khốn đốn trong bóng tối triền miên cuộc đời, các môn đệ liền thắc mắc với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó, để nó phải sinh ra mù lòa như thế?" Đức Giêsu trả lời: "Không phải nó cũng chẵng phải cha mẹ nó, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ rạng nơi y".

Song để vinh quang Thiên Chúa được rạng tỏ nơi mình, tức là để được thấy ánh sáng tự nhiên và ánh sáng siêu nhiên, người mù đã trải qua một hành trình thử thách gian nan. Sau bao tra vấn, khủng bố, khước từ của nhóm Pharisêu Biệt phái, anh đã dần dần nhận ra dung mạo đích thực của Đức Giêsu. Lúc đầu anh chỉ xem Giêsu như một con người đặc biệt. Có lẽ từ xưa đến nay, anh chưa bao giờ gặp một nhân vật tốt lành như thế. Cho nên khi bị chất vấn "ai đã chữa lành anh?", anh chỉ biết trả lời: "Một người có tên Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo tôi đi rửa ở hồ Silôe. Tôi rửa và thấy được".

Rồi khi được hỏi ý kiến: "Còn anh, anh nói sao về con người Giêsu đó?" Anh liền thưa: "Ngài là một tiên tri". Như thế trong nhận thức của anh mù mới được chữa lành, Đức Giêsu không chỉ là một con người thuần túy, nhưng còn là một con người được Thiên Chúa sai mang sứ điệp đến cho nhân loại.

Vì lời tuyên xưng Đức Giêsu là người của Thiên Chúa mà anh mù đã bị tống xuất ra khỏi hội đường Do thái. Thế nhưng khi người ta loại bỏ anh thì Đức Giêsu lại đón nhận anh, và mạc khải cho anh trọn vẹn hơn dung mạo của Ngài: "Khi nghe họ trục xuất anh mù, Chúa Giêsu gặp anh và nói: ngươi có tin Con Thiên Chúa không? Anh ta thưa: Thưa Ngài, đó là ai để tôi tin Người? Chúa Giêsu đáp: Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh. Anh liền thưa: Lạy Ngài, tôi tin. Nói xong anh liền sấp mình xuống bái lạy Ngài" (Gn 9:35-38).

Trên hành trình tiến đến ánh sáng tự nhiên, người mù đã trải qua ba giai đoạn: được sức bùn, đi rửa mắt, và mắt sáng. Riêng hành trình tiếp cận ánh sáng siêu nhiên, anh mù cũng đã trải qua ba bước nhảy trong việc khám phá chân dung đích thực của Chúa Giêsu: con người, Tiên tri, Thiên Chúa.

Những bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi hành vi quỳ xuống bái lạy. Đây là cao điểm của phép lạ "Chúa Chữa Người Mù": qua việc phục hồi thị giác tự nhiên, Đức Giêsu trao ban ánh sáng đức tin. Chính ánh sáng này sẽ mang lại niềm vui và sự sống trọn vẹn cho người ta.

Đi trong ánh sáng đức tin gọi là "thấy rõ đường đi nước bước", còn ngoài đó, mọi sự chỉ là tăm tối mịt mù. Có niềm tin vào Thiên Chúa, kẻ mù lòa thể lý khốn khó đường đời, hay lao đao cuộc sống, vẫn thấy rõ hướng đi hạnh phúc, tràn đầy hy vọng, và an vui tâm hồn.

Đối với người có đức tin vững mạnh vào Đức Giêsu, mọi tai họa, gian nguy, khốn khó sẽ là dịp giúp họ thấy rõ hơn dung nhan tươi sáng của Thiên Chúa tình yêu trong cuộc đời.

Tin vào Đức Giêsu, người ta sẽ nhận thấy rằng Ngài là Vị Tôn Sư trên tất cả tôn sư. Tin tưởng nơi Ngài, thì dù gian nguy có xảy đến, đối phương có quần thảo tan hoang, ta vẫn sẽ gặp được vinh quang chiến thắng trên mãnh lực của sự ác và sự tội. Bởi như lời thánh Phaolô xác quyết: "Đối với những ai yêu mến Thiên Chúa thì Ngài sẽ đồng công cộng tác biến mọi sự nên lành" (Rm 8:28).

 

72.Con cái sự sáng

Bài Thánh thư và bài Tin Mừng cho phép ta nếu muốn, có thể gọi Chúa nhật hôm nay là Chúa Nhật Ánh Sáng; nhưng như vậy phải tách riêng bài sách Samuel. Và cũng là dịp để ta thấy: không tất nhiên các bài đọc bao giờ cũng phải chung một đề tài. Tuy nhiên Phụng vụ luôn có chủ ý khi chọn những bài đọc khác nhau. Như hôm nay, đang Mùa Chay, cần giáo huấn tân tòng và tín hữu, Phụng vụ có thể đề xuất nhiều đề tài khác nhau để tiến hành việc giáo huấn mau lẹ và đầy đủ hơn. Chúng ta thử nắm hết các lời giáo huấn trong Chúa nhật này.

A. Bài Sách Samuel

Samuel được sai đi xức dầu phong vương cho Đavít. Câu truyện đơn sơ, dễ hiểu và có vẻ thuộc loại văn lịch sử. Nhưng trong Kinh Thánh, nhất là trong Kinh Thánh Cựu Ước, nhiều khi "vẻ" văn lịch sử chưa chắc đã là văn sử. Người xưa thích kể chuyện khi dạy dỗ. Ở đây có lẽ cũng thế. Tác giả kể việc xức dầu phong vương cho Đavít thật rõ ràng. Cả nhà Đavít đều chứng kiến. Thế mà ở đoạn sau đó, tức chương 17,28 sách 1Samuel lại cho ta thấy Eliab, người anh cả của Đavít, lại cư xử với em như với một đứa nhỏ chẳng có giá trị gì. Rồi trong 2Samuel đoạn 2,4 và 5,3 lại nói đến việc xức dầu cho Đavít làm vua Yuđa và Israel như đã không biết gì về việc Samuel đã xức dầu cho Đavít. Như vậy nếu coi bài đọc chúng ta vừa nghe như một bài giáo huấn hơn là một câu chuyện lịch sử, mượn câu chuyện lịch sử Đavít đã được xức dầu làm vua một lần nào đó (và việc này có thật) để đưa ra một lời dạy dỗ, thì ý của tác giả thánh thế nào?

Ông muốn nói rằng: Đavít đã được một tiên tri xức dầu làm vua. Vương quyền Đavít nhận được có ơn tiên tri. Uy quyền của ông bởi Thiên Chúa. Vua Israel là người được Thiên Chúa chọn, là đấng xức dầu của Người, là người được Thần trí Chúa hướng dẫn. Như vậy, trong lịch sử Dân Chúa sẽ có một sự tiếp nối liên tục giữa thời các Thẩm phán và thời các Hoàng đế. Các hoàng đế tuy làm vua nhưng cũng được như các thẩm phán, là những bậc được Chúa chọn để ban Thần trí hầu cứu dân trong một hoàn cảnh rất đặc biệt của lịch sử. Nói tóm lại, Đavít được nhà tiên tri xức dầu làm vua, thì vua Đavít sẽ có Thần trí của Thiên Chúa hướng dẫn và ngài sẽ cứu thế, cứu dân.

Do đó Phụng vụ Mùa Chay thật có lý để dùng bài Cựu Ước này. Đức Kitô Con Vua Đavít, là Đấng đã được xức dầu, thì cũng là Đấng Cứu Thế. Và nếu được phép suy nghĩ tỉ mỉ hơn nữa, dường như Phụng vụ còn muốn nói thêm: như Đavít là em út trong nhà, có bộ mặt khôi ngô sáng sủa đã được chọn một cách chẳng ai ngờ, thì Đức Kitô cũng sẽ cứu thế theo phương thức chẳng ai đoán được. Người sẽ sống khiêm nhu, bé nhỏ và sẽ chết trên Thập giá. Nhưng nhìn vào sự thánh thiện trong sáng của Người, muôn dân đã thấy bừng lên ơn cứu độ.

Một bài học như thế đáng cho chúng ta, tín hữu cũng như tân tòng, suy nghĩ trong Mùa Chay và suốt cả cuộc đời. Chúng ta tin Đức Yêsu Kitô là Vua, là Tiên Tri và là Cứu Thế. Và chúng ta hãy xem trong bài Tin Mừng hôm nay Người đã cứu thế cách nào?

B. Bài Tin Mừng

Người là Đấng, như Chúa nhật trước đã cho ta biết, lấy công việc làm theo Ý Đấng đã sai Người, làm lương thực hàng ngày. Hôm nay Người cũng khẳng định như thế, và nói bao lâu còn là ngày, chúng ta phải lao công vào các việc của Đấng đã sai chúng ta (c.4). Hiện giờ thì còn là ngày, vì "khi Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian" (c.5).

Và sự sáng thì phải soi sáng. Vậy có một người mù từ thuở mới sinh đang đứng đó. Môn đồ không hiểu vì sao có sự kiện ấy. Còn Đức Kitô ý thức mình là sự sáng, nên thấy ngay đây là công việc Chúa Cha gửi đến cho mình. Người chữa anh ta khỏi.

Câu truyện có thể đến đó là xong. Nó đã đủ để chứng minh: Đức Kitô là sự sáng. Nhưng khốn nỗi, không những Người là sự sáng nhưng còn là sự sáng thế gian, sự sáng đến trong thế gian; khiến Yoan phải viết thêm: thế gian đón nhận sự sáng ấy như thế nào? Và đó là ý nghĩa của phần còn khá dài trong bài Tin Mừng hôm nay.

Phần này quảng diễn một khẳng định mà Yoan đã viết ngay ở đầu cuốn Tin Mừng của người: sự sáng rạng trong tối tăm và tối tăm đã không triệt được sáng (1,5). Quả thật, việc Đức Yêsu mở mắt người mù đã như ánh sáng bùng lên trước mặt mọi người. Ai ai cũng bàn tán hỏi nhau (c.8), chẳng làm sao hiểu được. Người ta phải đưa vấn đề trình lên các Biệt phái. Tòa làm việc nhộn nhịp, hỏi cung người mù, đòi chứng của cha mẹ anh ta, hỏi lại anh ta một lần nữa, nỗ lực vùi dập vụ này đi... nhưng đã không triệt được sự sáng. Rõ ràng Yoan muốn ám chỉ: Biệt phái đang mưu mô hại Chúa, nhưng họ sẽ thua. Cuộc tử nạn mà họ muốn Người phải chịu sẽ làm cho họ phải bẽ bàng vì biến cố Phục sinh. Bài Tin Mừng hôm nay, như thế, còn nói lên mầu nhiệm Chúa sống lại của Phụng vụ ngày Chúa nhật và của đích điểm Mùa Chay Thánh.

Chưa hết! Tác giả Yoan còn tiếp tục. Người mù bị các Biệt phái tống cổ ra ngoài. Đức Yêsu được tin. Người đi tìm anh ta, ban cho anh ta được ơn nhận ra Người và thờ lạy Người. Còn các Biệt phái vì tự phụ là người sáng mắt, nên tội lỗi còn nguyên. Đúng như lời Chúa nói: "Ta đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù".

Tác giả Yoan muốn cảnh tỉnh chúng ta đó. Công việc của Thiên Chúa đã hiện tỏ (c.3); mầu nhiệm Phục sinh đã sáng rực. Ai khiêm cung sẽ được soi sáng; còn ai tự phụ sẽ lại đui mù.

Như thế bài Tin Mừng cũng là một bài giáo huấn hơn là một câu chuyện. Đoạn văn trong sách 1 Samuel đã cho chúng ta thấy Đức Yêsu Kitô là Vua, là Tiên tri, là Cứu thế. Bản Tin Mừng Yoan nói thêm: Người đã đến trong thế gian như sự sáng, mà tối tăm không triệt được, để ai mù được thấy, ai sáng sẽ mù; để ai tin Con Người thì được rỗi (c.35) và ai không tin sẽ còn nguyên tội lỗi.

Riêng chúng ta đã tin Chúa rồi thì thế nào?

C. Bài Thánh Thư

Thánh Phaolô đáp: "Xưa kia anh em là tối tăm nhưng nay, trong Chúa, anh em là sự sáng; anh em hãy đi đứng như con cái sự sáng. Mà hoa quả của sự sáng là mọi việc nhân lành, công chính và chân thật".

Những lời ấy đủ để đưa hết thảy chúng ta đi vào con đường của sự sáng. Nhưng không biết chúng ta có nên khiêm tốn hơn không và thú nhận có lẽ mình cũng còn cần phải được soi sáng? Câu cuối cùng trong bài thư Phaolô có vẻ gợi lên điều đó. Và tác giả khuyên chúng ta hãy đứng lên để được Đức Kitô chiếu soi.

Kìa xem người mù, sau khi được Chúa mở mắt cho, đã dần dần trở thành con người có giá trị đến nỗi xứng đáng được Chúa đi tìm để ban thêm ơn đức tin. Anh ta đã biết nói sự thật với tất cả mọi người, và dần dần biết biện phân phải trái, khiến các Biệt phái phải bực tức thốt ra lời thú nhận tự ti mặc cảm.

Chúng ta cũng sẽ tăng thêm giá trị cho chúng ta khi chúng ta để Người chiếu soi. Mà Người thường làm công việc này qua Sách Thánh, qua giáo huấn của Hội Thánh, qua cả việc học tập và suy nghĩ trong yên lặng vì con người có học mới sáng, và có sáng mới làm được những công việc nhân lành, công chính và chân thật.

Như vậy, chúng ta hãy đến xin Đức Kitô soi sáng cho chúng ta không những trong Thánh lễ này, mà còn trong mọi lúc chúng ta suy nghĩ, học hành, đọc sách vở và nhất là Sách Thánh.

 

73.Suy niệm của Lm. Nguyễn Tiến Huân

Anh đã đi rửa rồi trở lại và được sáng

Phép lạ Chúa Giêsu lấy bùn chữa một người mù từ mới sinh cho anh ta xem thấy được trong bài Phúc âm hôm nay có hai hậu quả đối nghịch:

Với bọn Biệt phái thì đó là một phép lạ làm họ điên đầu và dồn họ vào ngõ bí. Vì sự cố chấp mù quáng và thiếu bác ái bọn Biệt phái đã võ đoán:"Chúa Giêsu không phải bởi Thiên Chúa vì không giữ ngày Sabat"(Ga 9:16). Hơn thế nữa họ còn kết án Chúa Giêsu là người tội lỗi: "Phần chúng ta, chúng ta biết đó là một người tội lỗi" (Ga 9:24). Nhưng "làm sao một người tội lỗi mà lại làm được những phép lạ thể ấy?" (Ga 9:16). Họ chia rẽ nhau và đã bí lại càng bí thêm, bí đến độ thành ngu xuẩn vì thành kiến, khiến họ bị người mù mới được khỏi đó, một người ăn xin quê mùa thất học, dạy cho một bài học: "Đó mới thật là lạ: Người đã mở mắt tôi thế mà các ông không biết Người bởi đâu đến! Nhưng chúng tôi biết chắc rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi. Chỉ những ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Người thì kẻ đó mới được Thiên Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì" (Ga 9:30-33). Thật là một bài học hùng hồn, chí lý và hoàn toàn hợp sự thật khiến bọn Biệt phái cắn răng chịu thua không dám nghe phải vội đuổi anh ta ra ngoài (Ga 9:34). Họ là những kẻ có mắt mà mù đúng như lời họ nói: "Thế ra chúng tôi mù cả ư?" (Ga 9:10). Đối với bọn Biệt phái cố chấp và kiêu căng thì như thế.

Nhưng đối với người ăn mày mù đơn sơ và thành tâm này, phép lạ trên lại có một hậu quả khác hẳn. Trước hết đối với mọi người đang hồ nghi và bàn tán, anh tự nhận chính mình đã được Chúa Giêsu làm phép lạ lấy bùn chữa mắt: "Chính là tôi đây..(đã được) Người mà thiên hạ gọi là Giêsu làm bùn xức mắt tôi và bảo hãy đi rửa ở ao Siôe. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy" (Ga 9:9-11). Anh nói lên sự thật để ca ngợi Thiên Chúa. Lại nữa tuy chưa biết Chúa Giêsu là ai, nhưng lòng anh đã rộng mở nên đã nhận ra rằng "Nếu Người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì" (Ga 9:33). Vì thế khi gặp lại Chúa Giêsu và được Người hỏi: "Ngươi có tin Con Thiên Chúa không?" thì anh ta mau mắn thưa lại ngay: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Và khi được Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh đây" thì anh ta liền nói: "Lạy Thầy, tôi tin". Đức tin chân thành ấy còn được chứng minh bằng việc "anh sấp mình thờ lạy Người" (Ga 9:33-38). Chính đức tin ấy đã làm cho anh được sáng cả mắt xác thịt lẫn mắt linh hồn.

Để linh hồn chúng ta được Chúa chữa cho khỏi mù vì tội lỗi, chúng ta cũng hãy bắt chước người mù này vâng lời Chúa mau mắn đi rửa Linh hồn ở ao Silôe tức là nơi tòa Giải tội. Sau đó khi linh hồn được sáng rồi chúng ta hãy "ăn ở như con cái sự sáng" mà "hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành công chính và chân thật" (Eph 5:8-9). Đó cũng chính là tinh thần cải thiện đời sống của mùa Chay.

Lạy Chúa, tuần này con quyết đi tẩy rửa nơi tòa Giải tội để Linh hồn con được sáng.

 

74.Ánh sáng đức tin

(Suy niệm của Lm Bùi Mạnh Tín)

Theo quan niệm chung, người mù là người không thể nhận được các hình ảnh qua thần kinh thị giác và do đó không có ý niệm về mầu sắc. Từ quan niệm này, chúng ta liên tưởng đến chứng mù khác, đó là sự mù lòa tinh thần, như chúng ta thường diễn tả: "nạn mù chữ", "tôi hoàn toàn mù tịt về vấn đề đó", "cặp mắt đức tin đã bị che khuất".

Hiểu như vậy, có những cặp mắt hoàn toàn hư hỏng, nhưng tinh thần lại rất lanh lợi, lương tâm rất bén nhậy và đức tin rất sáng suốt. Và ngược lại, có những cặp mắt không bao giờ phải mang kiếng, nhưng lại mù lòa, ít khi hay không bao giờ nhìn ra những chân lý mà mọi người đã chấp nhận. Điều này được minh chứng qua câu chuyện hôm nay: các anh em Biệt phái luôn tự hào là mình sáng suốt, chỉ có mình mới biết về Đấng Cứu Thế - và như thế, mới có thể hướng dẫn người khác đến với Thiên Chúa. Hơn thế, họ còn coi những người mù về thể lý là người đã mất cặp mắt đức tin do tội lỗi.

Trong khi đó, người mù từ khi mới sinh lại có cặp mắt thật sáng suốt, giúp anh nhận ra người thanh niên thành Nagiarét giữa đám đông là Đấng Cứu Thế, là con Vua Đavít... Thật vậy, khi những anh em Biệt phái nói: "người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến", anh mù đã trả lời: "Đó mới là điều lạ. Người đã mở mắt cho tôi mà các ông không biết người đó bởi đâu". Nói thế, anh muốn quả quyết rằng: một người có đầy quyền năng làm phép lạ, có đầy lòng xót thương để cứu vớt kẻ đau khổ, có chan hoà ánh sáng, chính là người đến từ Thiên Chúa. Các ông bảo các ông sáng, vậy mà các ông không nhận ra người đó là ai. Rồi anh tiếp: "Xưa nay chưa từng nghe nói ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa, thì đã không làm được gì".

Những lời lẽ của anh chứng minh: anh không mù lòa chút nào - trái lại, rất sáng suốt. Trong khi đó, anh em Biệt phái vẫn cho mình là sáng suốt - ít nhất trong trường hợp này, lại mù lòa tới mức độ khó đối diện với Chúa Giêsu và chứng kiến phép lạ của Ngài, vẫn không nhận ra Ngài là ai. Đã thế, họ vẫn không chịu nhận ra mình mù lòa. Đây chính là một chứng mù bất trị, như Chúa Giêsu đã diễn tả: "Vì các ông không nhận mình là mù, cứ nói là mình vẫn xem thấy, nên tội các ông vẫn còn đó".

Cặp mắt đức tin của chúng ta đã được Chúa Giêsu đích thân mở cho, khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Và rồi từ đó, Chúa luôn tiếp tục ban ân sủng, để cặp mắt đó trong sáng hơn, nhìn rõ hơn. Tuy nhiên, khuynh hướng tội lỗi và các hoàn cảnh xấu, như một sự ô nhiễm môi trường, thường tạo nên những bất lợi cho cặp mắt đó, khiến hình ảnh Chúa bị lu mờ dần hoặc biến mất hoàn toàn trong tâm hồn mình, trong tha nhân - và nhiều khi trong cả những sinh hoạt đạo đức nữa. Đã vậy, nhiều khi chúng ta vẫn cứ "an tâm" với những hình thức đạo đức bên ngoài, coi đó là những dấu chỉ tốt, và luôn hãnh diện về những dấu chỉ đó... Nhưng thực ra, cặp mắt đức tin có thể đã yếu kém trầm trọng hoặc đang mang một thương tích nào đó.

Mùa Chay chính là thời gian thuận tiện để chúng ta đến với Chúa Kitô, vị bác sĩ nhân khoa tuyệt vời. Chính Ngài sẽ chăm sóc, trị liệu và cho các toa thuốc cần thiết. Nhờ thế, cặp mắt đức tin của mỗi người chúng ta mới luôn trong sáng và nhìn ra gì Chúa muốn chúng ta nhìn.

 

home Mục lục Lưu trữ