Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 58
Tổng truy cập: 1361794
CHÚA VỀ TRỜI
CHÚA VỀ TRỜI
Lễ Chúa Giêsu lên trời nói với chúng ta thật nhiều điều.
1/ Trước tiên, con người chỉ có thể sống khi cuộc sống có ý nghĩa đối với họ. Họ phải biết sống để làm gì?.Chết rồi thì đi đâu?. Con đường chúng ta đang đi sẽ dẫn chúng ta đến chỗ nào.
Người ta thống kê rằng cứ mỗi ngày trên thế giới có 5000 người trẻ tự vẫn. Đó là những người có cuộc sống đầy đủ, không cần phải phấn đấu, nhưng họ tìm đến cái chết (như lái xe với tốc độ cao…) vì không biết sống để làm gì, không tìm thấy ý nghĩa cuộc sống.
Lễ Chúa lên trời dạy chúng ta rằng cuộc sống có một ý nghĩa, đường ta đi sẽ dẫn chúng ta đến đâu. Chúa Giêsu lên trời có nghĩa là về với Chúa Cha. Chúa Cha là quê hương của Đức Giêsu, là nơi Người phát xuất và cũng là nơi Người trở về. Chúa Giêsu về trời trước rồi Người sẽ trở lại đón chúng ta, để Người ở đâu chúng ta cũng sẽ ở đó.
2/ Chúa lên trời không phải để xa cách chúng ta, cho bằng là để gần kề chúng ta hơn mỗi khi chúng ta kêu cầu Người. Khi còn sống ở dương gian, Chúa Giêsu bị hạn chế về mặt không gian và thời gian. Nếu Chúa ở chỗ này, thì Người không thể ở chỗ kia. Còn bây giờ khi đã lên trời, Chúa không còn bị giới hạn về mặt không gian và thời gian nữa.
3/ Chúa lên trời để ngự bên hữu Chúa Cha, nghĩa là Người sẽ trở thành Đấng cầu bầu đắc lực cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x. Kinh tiền tụng ngày lễ).
4/ Chúa lên trời để Giáo Hội trưởng thành hơn. Giờ đây, Giáo Hội sẽ tiếp tục công cuộc rao giảng của Người: “Anh em hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng cho mọi loài thụ tạo”. Thời kỳ của Giáo Hội bắt đầu từ đây.
Các môn đệ của Chúa rất ý thức điều đó. Họ đã tuân lệnh Chúa “ra đi rao giảng khắp nơi”, làm cho người ta trở thành môn đệ của Chúa, nghĩa là tin vào Chúa.
5/ Chúa lên trời còn để dọn chỗ cho chúng ta như chính Người đã nói. Mỗi lần sau truyền phép chúng ta đều tuyên xưng: “Trong vinh quang mai Người sẽ đến, đón chúng con lên trời về với Chúa Cha”. Người kitô hữu ý thức rằng quê hương đích thực của chúng ta là ở với Chúa trên trời. Nhưng việc chúng ta có được vào chốn đó hay không, còn tuỳ thuộc vào cuộc sống của chúng ta hôm nay.
Để kết thúc tôi xin kể một câu chuyện. Có một bà chủ nhà kia rất mực giàu có. Bà nuôi một gia nhân để dọn dẹp nhà cửa cũng như chăm sóc vườn hoa. Người này rất chăm chỉ lao động, nhưng bà chủ ác độc la mắng anh ta đủ điều, dầu vậy anh ta vẫn phải ngậm tăm
Thế rồi bà chủ đã chết và được quỉ đưa ngay xuống địa ngục, chốn khóc lóc và nghiến răng. Quỉ chỉ cho bà một túp lều rách nát và bảo rằng đó sẽ là nơi cư ngụ của bà từ đây. Bà chẳng còn biết làm sao nữa, cho bằng răm rắp tuân lệnh.
Một thời gian sau, người nô bộc của bà cũng chết và được thiên thần rước ngay lên trời, chỉ cho anh ta một ngôi nhà sang trọng và nói đó sẽ là nơi cư ngụ vĩnh viễn của anh.
Từ đàng xa, bà chủ thấy anh và lập tức nhận ra đó là người nô bộc của mình. Bà không vui khi thấy anh này được ở trong ngôi nhà xinh xắn. Bà đề nghị đổi túp lều của mình để lấy ngôi nhà sang trọng kia, nhưng thiên thần bảo: “Không được đâu bà. Sở dĩ người kia được ở trong ngôi nhà xinh xắn sang trọng, là bởi vì từ trần gian anh ta không ngừng gởi cho chúng tôi những vật liệu quí giá. Chúng tôi chỉ có việc xây nhà từ những vật liệu anh ta gởi lên mà thôi’. Còn bà, bà chỉ gởi cho chúng tôi những vật liệu tồi tàn và ma quỉ cũng đã dùng chính những vật liệu bà đã gởi xuống, để dựng cho bà một cái chòi rách nát mà thôi”. Bà đừng ghen tị mất công. Số phận của mỗi người tuỳ thuộc khi còn sống người ta đã gởi những vật liệu nào về đời sau.
31.Hãy đi, vì có Thầy ở cùng!--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Có một vấn nạn không dễ gì lý giải: địa điểm Chúa lên trời thực sự ở đâu, Ga-li-lê-a hay Giê-ru-sa-lem, hai địa điểm cách nhau tới vài trăm cây số? Tác giả Luca khảng định rất rõ ràng: tại Giê-ru-sa-lem, địa điểm đó gần Bê-ta-ni-a (Lc 24, 47.50; Cv 1, 4-12), trong khi Mát-thêu lại xác định: một ngọn núi miền Ga-li-lê-a (Mt 28, 16). Tôi đã đặt câu hỏi này cho hướng dẫn viên chuyến hành hương Đất Thánh năm 2005, giáo sư Coffele của đại học UPS và nhận được câu trả lời: ‘truyền thống’ luôn xác định là Giê-ru-sa-lem (lúc đó chúng tôi đang viếng đền thờ Thăng Thiên, do người Hồi Giáo quản lý, có cả tảng đá in vết chân Chúa khi Ngài cất lên trời!) Điều đó cho thấy, khi Kinh Thánh đề cập tới bất cứ biến cố nào thì điều quan trọng nhất cần lưu tâm vẫn là nội dung của sứ điệp hơn là chính sự kiện. Đoạn Tin Mừng hôm nay cũng không nằm ngoài nguyên tắc đó. Về biến cố Đức Giêsu phục sinh thăng thiên thì chỉ có Lu-ca mới tường thuật cách tương đối chi tiết, trong khi các tác giả khác, hoặc không đề cập gì (Gioan, Mátthêu), hoặc chỉ thoáng qua mà thôi (Máccô).
Tin Mừng Mátthêu hôm nay, thay vì mô tả chính biến cố Chúa về trời thì chỉ đơn giản ghi lại những lời căn dặn và trăn trối đầy tâm huyết cuối cùng Chúa gửi gắm tới các môn đệ thân yêu trước khi xa rời họ vĩnh viễn.
Trong giờ phút ly biệt chấm dứt cuộc hiện diện trần thế, Đức Giêsu long trọng công bố Vương Quốc Người chính là quyền lực yêu thương của thập giá đã được vĩnh viễn xác lập và bao trùm: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất”; đồng thời Người căn dặn các môn đệ ở lại, và truyền cho họ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Như vậy Thăng Thiên trước hết phải được hiểu như một mệnh lệnh ‘ra đi’ để mở rộng vương quốc Kitô. Chúa về trời là để tạo điều kiện cho các môn đệ có thể tự do lên đường. “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em hơn” (Ga 16, 7). Chúa về trời là để vương quốc tình yêu của Ngài được mở rộng tới mọi nơi, tới mọi cõi lòng. Hướng nhìn của biến cố ‘Chúa lên trời’ không phải là không gian vũ trụ vô tận, mà là đi sâu vào niềm tin bên trong tâm hồn con người. “Hỡi những người Ga-li-lê, sao còn đứng nhìn trời?” (Cv 1, 11) Sự hùng vĩ và huy hoàng của ‘lên trời’ không phải là một thứ ánh sáng chói lòa của tinh tú hay mây trời, nhưng là “anh em nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em… anh em là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp miền Giu-đê, Sa-ma-ri, và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1, 8). Như vậy việc mừng ‘Chúa lên trời’ đối với các Kitô hữu sẽ đồng nghĩa với việc xác định lại niềm tin vào quyền lực tình yêu của Thầy Giêsu, và khảng định lại quyết tâm mở rộng vương quốc đó tới mọi tâm hồn và cho tới tận cùng trái đất. Do đó Thăng Thiên chính là một biến cố nội tâm sâu xa nhất, một đòi hỏi khắt khe nhất của niềm tin.
“Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”, lời trăn trối tâm huyết làm sao chính vào lúc hình bóng Thầy Giêsu lặng lẽ bị mây trời che khuất. ‘Xa mặt thì cách lòng’, thói thường vẫn thế… Đức Giêsu thì khảng định ngược lại, khi ‘các ông không còn thấy Người nữa’ thì lại là lúc Người ‘cận lòng’ và gần gũi thắm thiết với từng môn đệ hơn bao giờ hết. Thậm chí sự gần gũi thắm thiết này còn được hiện thân hóa bằng cả một nhân vật kỳ diệu được Người sai phái đến: Thần Khí - Đấng Bảo Trợ - Thần Chân lý. Các môn đệ mừng vui là phải bởi vì ‘Chúa về trời’ đâu phải là mất mát, là xa cách. Các ông được lợi, lợi rất nhiều, nhiều tới mức sung mãn nhất: họ được sở hữu Thầy Giêsu cách trọn vẹn và vĩnh viện, qua sự hiện diện phong phú tột cùng của Thánh Thần đổ tràn vào tâm hồn. “Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em…” (Ga 14, 17). Câu Đức Giêsu nói với tông đồ Tô-ma: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20, 29) đang lộ rõ nội dung cụ thể, phong phú và thâm sâu nhất của nó, có giá trị cho hết mọi thời, tới tận thời đại chúng ta hôm nay.
Mừng Chúa Thăng Thiên là như thế; không phải mừng vì Đức Kitô được vinh thăng, mà thực chất là mừng cho người môn đệ là mỗi chúng ta được cất nhắc lên cách kỳ diệu. Niềm vui đó ta có được không phải vì chăm chú nhìn lên trời, cho dầu đó là thiên đàng đi nữa, để mà mơ ước và chờ đợi, nhưng vì đi xâu vào nội tâm, nơi Thần Khí Đức Kitô Giêsu hiện diện và tác động, để nghiệm thấy tình yêu mạnh mẽ của Người, và sẵn sàng để cho tình yêu đó thúc đẩy ta lên đường công bố niềm vui phục sinh cho mọi tạo vật.
“Hãy đi vì có Thầy luôn ở cùng!”
Lạy Chúa Thăng Thiên vinh hiển, con xin được ca ngợi Chúa đã lên trời trong âm thầm lặng lẽ hơn là trong hoành tráng phô trương. Con cảm tạ Chúa đã ra đi vĩnh viễn để niềm tin con tập trung hơn vào Thần Khí đã được Người sai đến và đang ngự trị trong thâm sâu cõi lòng con. Do đó xin cho con luôn xác tín rằng: Chúa hằng ở cùng con, và sức mạnh tình yêu của Thần Khí Người luôn thôi thúc con lên đường. Amen.
32.Hãy đi loan báo Tin Mừng--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo!”
Tôi không muốn coi đây là một lệnh truyền, vì mệnh lệnh bao giờ cũng là điều do vị bề trên truyền xuống, chứ không xuất phát từ bản thân, từ một đòi hỏi thâm sâu của cõi lòng mình. Đối với Nhóm Mười Một, vào thời điểm họ nghe câu nói này, thì có lẽ đúng là họ nghe một mệnh lệnh; đơn giản là vì họ chưa hiểu được rằng các biến cố đang dồn dập xảy ra đích thị là Tin Mừng. Thậm chí họ còn lo âu, họ sợ hãi thì đúng hơn, trong biến cố khổ hình và thập giá đã đành, mà cả trong các lần Đấng Phục Sinh hiện ra với họ; phải đợi tới khi ‘Thần Chân Lý’ đến dạy đỗ trực tiếp, họ mới vỡ lẽ ra từ đáy lòng mình về ý nghĩa đích thực của nó (Ga 14:26; 16:12-13). Chỉ khi đó, phải, chỉ lúc đó mệnh lệnh Chúa truyền trước khi về trời mới trở thành một cảm nghiệm không thể cưỡng, vì nó thôi thúc họ từ bên trong (Cv 2:4).
Đối với Kitô hữu chúng ta hôm nay thì khác hẳn: ta có nhiều thời gian để suy tư, để cử hành biến cố tử nạn và phục sinh như một Tin Mừng đích thực; ta đã được ban ‘Thần Chân Lý’ để dạy cho biết mọi sự; vì thế, nếu là Kitô hữu chân chính của ngày hôm nay, ‘hãy đi khắp tứ phương thiên hạ… loan báo Tin Mừng’ chắc hẳn sẽ không còn là một lệnh truyền từ bên ngoài nữa, mà đã phải là một thúc bách từ niềm tin thâm sâu nhất từ bên trong.
Vậy, nếu Tin Mừng là một thôi thúc từ bên trong, thì quả thực sự hiện diện hữu hình của Đức Giêsu, cho dầu đã sống lại vinh hiển, sẽ không còn là cần thiết nữa. Người có thể yên tâm về trời, và còn nên sớm về trời nữa là đàng khác, với điều kiện làm sao các môn đệ nắm bắt được cuộc sống, sự chết và phục sinh của Người đích thị là Tin Mừng, Tin Mừng cho mọi người và cho từng người; chỉ lúc đó, vâng, chỉ lúc đó, như các Tông Đồ, tôi mới có thể ‘ra đi rao giảng khắp nơi’. Như thế thì sứ điệp chính mà Lời Chúa muốn gởi tới chúng ta hôm nay lại không chỉ là tưởng nhớ tới biến cố ‘Chúa Giêsu được đưa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa’, mà là một yêu cầu gửi tới mỗi người chúng ta làm cuộc tổng kiểm tra về những gì đã cử hành trong suốt hai tháng qua kể từ đầu Mùa Chay; đối với tôi, những cử hành này có phải thật sự là Tin Mừng hay không? Cuộc kiểm tra này càng cần thiết vì đồng thời nó làm cho ta nghiệm ra một điều nữa, đó là, trong tư cách Kitô hữu, ta cần không ngừng gia tăng ý thức về sự hiện diện của ‘Thần Chân Lý’ nơi chính mình, để sống với Người cách sâu xa hơn, và để nhờ Người và trong Người, sức mạnh Tin Mừng sẽ càng tác động tích cực trong thời gian tới của niên lịch phụng vụ (mùa Hiện Xuống).
Chính vì ý thức được Tin Mừng, với sức mạnh vô địch của nó, mà ta mới ngộ ra ‘những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin’ thực ra cũng chẳng có gì là lạ, là bất thường cho lắm: ‘trừ được quỉ’ - chẳng qua là hoàn lại sức sống tình yêu của Thiên Chúa cho nhiều tâm hồn; ‘nói được những tiếng mới lạ’ - chẳng qua là nhìn nhận Lời Thiên Chúa chính là Lời tình yêu và từ nhân, tha thứ và không hề luận phạt; ‘cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc thì cũng chẳng sao’ - sẽ là can đảm liều lĩnh gánh vác những công việc mà tự nhiên không ai thèm làm hoặc dám làm; ‘đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khỏe’ - sẽ là thể hiện bằng mọi cách lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa cho những kẻ yếu hèn nhất. Vài dấu lạ được kể ra, cho dầu có gây đôi chút ấn tượng, thì cũng chỉ là vài nét chấm phá của một nội dung vô cùng phong phú Tin Mừng chứa đựng. Tất cả các điều này, kể cả sức mạnh vô địch của Tin Mừng, mỗi chúng ta đều đang được thụ hưởng, nhờ vào ơn gọi Kitô hữu của mình. Trong Thánh Thần, ta đã đón nhận Tin Mừng Đức Kitô Giêsu, Tin Mừng ‘Thiên Chúa hết lòng yêu thương thế gian’. Và một khi đã sở đắc được niềm tin này thì dù Chúa có hiện ra hữu hình hay ẩn mình vô hình, dù có được tận mắt chứng kiến phép lạ mặt trời quay cuồng như tại Fatima năm nào hay chỉ âm thầm sống tin yêu trong tăm tối như Mẹ Tê-rê-xa Can-cút-ta… thì cũng không mấy quan trọng. Sự lạ thì vẫn là sự lạ… nhưng chỉ tác động được bên ngoài nhất thời mà thôi. Chỉ có Tin Mừng mới có sức thúc đẩy ta ‘đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo’. Mẹ Tê-rê-xa đã không ngừng loan báo Tin Mừng cho những người hấp hối cùng cực nhất của thành phố Can-cút-ta bằng phục vụ âm thầm… chỉ vì Mẹ luôn thâm tín rằng: ‘Chúa thương yêu tôi không phải vì tôi tốt lành, nhưng tôi cố gắng trở nên tốt lành hơn vì biết rằng Chúa thương yêu tôi!’
Phải, chỉ duy những ai thấu hiểu được Tin Mừng tình yêu mới có thể lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân, bằng nhiều phương tiện và nhiều cách thức rất khác nhau.
Lạy Chúa, nếu trước khi về trời Chúa hứa ban cho con một điều ước, thì con sẽ ước gì đây? Con sẽ không ước được thấy Chúa đôi lúc hiện ra hữu hình, con sẽ không ước được khôn ngoan, lợi khẩu, được làm phép lạ hay gì gì khác nữa. Điều ước duy nhất của con phải là được ở lại sâu hơn trong tình thương của Chúa; được thấu hiểu sâu hơn Tin Mừng Chúa yêu thương. Xin đổ tràn Thánh Thần Tình Yêu vào tâm hồn con, để - vì thâm tín rằng mình được Thiên Chúa yêu thương - con sẽ lên đường loan truyền Tin Mừng tình yêu cho mọi người. Amen.
33.Cùng đích cuộc đời chúng ta là Nước Trời--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Xã hội chúng ta đang sống, người ta tự xưng mình là những người vô thần, tức là không tin vào thần thánh, không tin hồn thiêng bất tử, và cũng không tin vào sự sống đời sau, cũng chính vì thế họ đã tự tạo ra một tinh trạng trống rỗng về tôn giáo, về tinh thần trong xã hội trong tâm hồn con người. Cho đến hôm nay, dường như người ta nhận ra rằng, con người không thể thiếu vắng những giá trị thiêng liêng, tôn giáo như thế, và thế là họ đã tạo nên những thứ thần linh và những thứ tôn giáo để lấp đầy khoảng trống đó trong xã hội và trong tâm hồn của nhiều người. Chính vì vậy mà trong những năm gần đây những hình thức lễ hội mang tính tôn giáo, các thứ cúng bái dân gian, kể cả những thứ tin kiêng vớ vẩn dường như đang được ủng hộ, khuyến khích trong xã hội chúng ta.
Trong khi đó niềm tin tôn giáo và đặc biệt đức tin Kitô giáo hướng chúng ta đến cùng đích của cuộc đời con người đó là hạnh phúc nước trời, cũng chính vì niềm tin và hy vọng này mà mỗi người chúng ta dù đang sống và làm việc trên trần gian này, nhưng lòng chúng ta luôn hướng về trời là quê hương thật của chúng ta.
Mừng lễ Chúa Giêsu về trời chúng ta không chỉ mừng một sự kiện đã xảy ra hoặc một cuộc chia tay, mà còn là dịp Giáo Hội nhắc cho chúng ta rằng: Chúa về trời để mở đường cho chúng ta và mời gọi chúng ta luôn yêu mến và tìm kiếm nước trời như là lẽ sống là mục đích cuộc đời. Nước trời mà hôm nay Chúa Giêsu trở về, không hẳn là một nơi chốn, cũng không phải là Ngài trở về một hành tinh xa xôi nào đó, nhưng là Ngài trở về với địa vị danh dự của một vị Thiên Chúa, trở về với tình trạng hạnh phúc cùng với triều thần thiên quốc. Sự kiện Chúa lên trời cho chúng ta nhớ rằng quê hương đích thực của chúng ta là nước trời, và cùng đích cuộc đời của mỗi người phải là tìm kiếm hạnh phúc nước trời, chính niềm hy vọng này thục đẩy và chi phối cuộc sống hiện tại của chúng ta, và làm cho chúng ta khác với những người vô thần.
Chúa Giêsu đến thế gian, Ngài đã hoàn tất việc khai sinh Giáo Hội, hoàn tất chương trình cứu chuộc nhân loại và chỉ ra cho nhân loại con đường về trời, con đường đó chính là con đường của Tin Mừng, con đường của Tám Mối Phúc, con đường của thập giá, là con đường đưa con người đến sự giải thoát và siêu thoát. Nay, Chúa Giêsu về trời, Ngài muốn trao phó cho chúng ta tiếp nối sứ mạng mà Ngài đã thực qua mệnh lệnh Chúa truyền cho các Tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay: Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem,… chính anh em là chứng nhân của những điều này. Như vậy, sự kiện Chúa về trời còn là để để mở ra cho Giáo hội một giai đoan mới, giai đoạn Giáo hội phải lên đường, phải ra đi, ra khỏi tình trạng co cụm sợ hãi để mạnh dạn đến với mọi người mọi dân và làm chứng về Tin Mừng của Chúa, làm chứng cho niềm hy vọng về Nước trời mai sau.
Để lại sứ vụ rao giảng cho Giáo Hội, Chúa không để Giáo hội làm việc một mình, nhưng Ngài còn hứa sẽ ban Thánh Thần là Đấng bảo Trợ, Đấng an ủi đến với các tông đồ, Ngài sẽ là Thần Sức Mạnh, là Đấng soi sáng dẫn dắt cho mọi hoạt động của Giáo Hội. Trong cuộc chia tay này, không còn là cuộc chia tay buồn bã như trong bữa tiệc ly, song Thánh Luca muốn nhấn mạnh cho thấy, các tông đồ đã hoàn toàn ý thức và tin Thày của các ông đã được tôn vinh như một vị Thiên Chúa, nên trong lúc lãnh nhận sự chúc lành từ nơi Thày, các ông đã bái lạy Người như bái lạy Thiên Chúa, sau đó các ông trở về Girusalem lòng đầy hân hoan vui mừng.
Bài đọc một hôm nay là đoạn mở đầu của sách Tông Đồ công Vụ, thuật lại sự kiện Chúa Giêsu lên trời như là sự kiện đánh dấu sự khời đầu cho sứ mạng của Giáo Hội với sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần. Tác giả đã cho thấy sự kiện lên trời của Chúa Giêsu như là sự kiện Thiên Chúa Cha tôn vinh Con của Ngài: Ngài được cất lên trời trước mặt các tông đồ, và có đám mây che phủ khiến các ông không thấy Ngài nữa. Hình ảnh Ngài được cất lên và đám mây che phủ là hình ảnh muốn nói lên vinh quang của một vị Thiên Chúa, và kể từ đây, không phải Chúa Giêsu lìa bỏ các tông đồ, Ngài vẫn đang hiện diện qua quyền năng và Thánh Thần được ban cho các ông, chỉ có điều vì mắt các ông bị mây che phủ nên các ông có thể không thấy Ngài.
Điểm tiếp theo mà sách Tông Đồ Công Vụ muốn diễn tả, đó là trong lúc các tông đồ còn đăm đăm nhìn theo Người, thì có hai người mặc áo trắng đứng bên cạnh nói với các ông: Hỡi những người Galilea, sao còn mải đứng nhin trời? Đức Giêsu Đấng vừa lìa bỏ các ông để lên trời, cũng sẽ ngự đến như các ông đã thấy Ngài lên trời. Lời này cho thấy, chúng ta được mời gọi hướng về quê hương trên trời, lấy nước trời làm mục đích của cuộc đời, nhưng chúng ta không mãi ngước nhìn trời để rồi quên lãng bổn phận trần thế, trái lại phải trở về với cuộc sống, phải nhìn xuống đất để thấy được những thực tại trần thế và những vấn đề của nó. Trở về cuộc sông thường ngày, là trở về với những lo toan những công việc, để đương đầu với những khó khăn thử thách, và biết giải quyết mọi vấn đề trong ánh sáng của Tin Mừng, trong niềm hy vọng và đợi trông nước trời. Đồng thời chúng ta còn được mời gọi làm việc không phải chỉ cắm mặt vào công việc, hoặc chỉ tìm kiếm vất chất và thế gian, nhưng còn phải luôn ở trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Chúa Giêsu sẽ trở lại.
Thưa quý OBACE, như đã nói ở trên, chúng ta khác với những người xưng mình là vô thần không có niềm tin, đối với họ cuộc sống trên trần gian này chỉ là tìm kiếm cái ăn cái mặc hoặc là thu vét cho có nhiều của cải, thỏa mãn cái bụng mà không biết chung cuộc đời mình sẽ như thế nào, và đâu là niềm hy vọng hạnh phúc đời đời. Chúng ta đang sống trên trần gian nhưng lòng chúng ta lại hướng về trời cao, chúng ta vẫn đang làm việc nhưng chúng ta không chỉ làm việc vì cơm áo gạo tiền, mà chúng ta đang làm việc trong sự trao phó của Thiên Chúa và trong sự đợi chờ ngày chúa trở lại đem chúng ta về trời với Ngài, chính vì niềm hy vọng đời chờ này, lại thúc đẩy chúng ta phải sống và làm việc một cách tích cực hơn và tốt đẹp hơn.
Trong ngắm thứ nhất mùa mừng chúng ta đọc: Thứ nhất Chúa Giêsu lên trời, ta hãy xin cho được yêu mến những sự trên trời, điều này đặt ra cho chúng ta suy nghĩ xem chúng ta có thực sư yêu mến những sự trên trời hay chúng ta yêu mến những sự dưới đất hơn những sự thuộc về trời? Chúng ta sẽ trở thành giống như người không có niềm tin khi chúng ta chỉ biết yêu mến và tìm kiếm những sự dưới đất mà bỏ qua việc tìm kiếm những giá trị thiêng liêng và tìm kiếm nước trời về cho mình và cho con cái, khi chúng ta tự mình giải quyết những khó khăn của cuộc sống mà quên sự hiện diện và nâng đỡ của Thiên Chúa. Các bậc làm cha mẹ hãy biết dành ưu tiên cho việc tim kiếm Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài về cho gia đình và người thân của mình, hãy chu toàn bổn phận làm vợ chồng, cha mẹ trong niềm hy vọng Chúa sẽ trở lại và đưa chúng ta về trời, đừng biến gia đình mình trở thành một gia đình mất đi niềm hy vọng ấy, cũng đừng để gia đình mình bị những mây mù của tật xấu của đam mê, lười biếng làm cho các thành viên không còn nhìn nhận ra sự hiện diện của Chúa nữa.
Nhiều người trẻ ngày hôm nay đang sống như thể không có Chúa hiện diện, và không xác định được cùng đích cuộc đời của mình là gì, không biết rồi mình sẽ đi đâu, nên nhiều người đã sống không có định hướng, sống chộp giật, sống vội, sống như thể không có đời sau,… Chúng ta là những người tin Chúa, chúng ta phải sống trong hy vọng và phải sống khác với những người ấy. Chúng ta không thể buông mình cho dòng chảy của xã hội đưa đẩy, mà trái lại chúng ta được mời gọi phải sống làm chứng, và nói cho mọi người biết về Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài và nói về niềm hy vọng của chúng ta cho mọi người chung quanh; Chúng ta cũng vẫn phải làm việc như mọi người, nhưng chúng ta sẽ phải sống tốt hơn và làm việc tốt hơn, vì chúng ta làm việc trong sự thúc đẩy và vì lời mời gọi của nước trời.
Giáo hội chọn ngày hôm nay là ngày Truyền thông Quốc tế, để cầu nguyện cho những người làm công tác truyền thông biết nói lên sự thật và biết bênh vực cho sự thật, biết dùng những phương tiện truyền thông để phục vụ cho nhu cầu hạnh phúc và lợi ích của cộng đồng, nhất là qua những phương tiện này, họ biết nói về Thiên Chúa quyền năng và tình yêu thương của Ngài cho mọi người.
Xin Chúa giúp chúng ta biết chuẩn bị cho nước trời mai sau bằng việc sống thật tốt, thật tròn đầy ngày hôm nay. Amen.
34.Lên Trời: Ước mơ cao đẹp--Lm. Bùi Quang Tuấn
Mới đây, trong những ngày đầu tiên của thiên niên kỷ, một chuyến du lịch đã làm sửng sốt nhiều người vì sự tốn kém khủng khiếp của nó: chuyến du lịch của Denis Tito, một nhà triệu phú Hoa Kỳ, người đã trả 20 triệu đô la cho tấm vé du lịch 6 ngày trên không gian.
Từ thuở bé, khi nhìn ngắm trời sao ban đêm, Tito mơ ước một ngày ngào đó mình sẽ được bay vào trời cao. Thế rồi lớn lên, ông đi học và trở thành kỹ sư làm việc cho NASA, cơ quan Hàng không Vũ trụ Quốc gia Hoa kỳ. Tito chuyên về thiết kế các đường bay thám hiểm Hỏa tinh và Kim tinh. Sau đó ông chuyển qua đầu tư và trở thành triệu phú.
Tuy làm triệu phú nhưng Tito vẫn không mất đi ước mơ bay vào vũ trụ, dầu rằng ông biết rõ giấc mơ ấy rất mong manh. Bởi vì hầu hết các phi hành gia đều xuất thân từ những phi công máy bay phản lực với nhiều tài năng và thể lực tốt, trong khi kích thước và trọng lượng cơ thể của ông lại rất khiêm tốn: cao 5"5 và nặng 140 cân Anh (pounds).
Nhưng khi cơ quan Hàng không Vũ trụ Nga chịu bán cho Titô một ghế du lịch giá 20 triệu, và sau bảy tháng trời huấn luyện không ngừng, giấc mơ của Tito đã thành sự thật. Ông phát biểu trước chuyến bay: " Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống. Tôi muốn thực hiện hết những giấc mơ lành mạnh và hợp pháp của mình."
"Chúng ta chỉ có một cuộc đời để sống", và trong cuộc đời đó có biết bao ước mơ được đan dệt. Nhưng thử hỏi ước mơ của tôi có lành mạnh và hợp pháp không? Các mơ ước của tôi tốt đẹp cao sang hay tầm thường hèn hạ? Chúng nâng tôi lên hay nhận chìm phá hủy?
Nói đến ước mơ là nói đến những mục tiêu chưa có trong hiện tại. Mục tiêu tuy nằm trong tương lai, nhưng lại chi phối đời sống con người từ ngày hôm nay. Khi một bạn trẻ mong rằng mai kia mình sẽ có tấm bằng cao học, trong hiện tại họ đã phải thức khuya dậy sớm, thu tích bao kiến thức cần thiết để một ngày nao chiếm được mảnh bằng như lòng ước mong. Thành ra, ước mơ hướng con người đến với tương lai, nhưng đã làm nên cung cách sống trong hiện tại.
Nhìn vào ngày mai để ngày hôm nay ta sống trọn vẹn hơn chính là lối đường khôn ngoan mà lễ Đức Giêsu Lên Trời muốn nói.
Không ít người bị quan niệm vật chất chi phối nên khi nói "Chúa Giêsu lên trời" người ta mau liên tưởng đến hình ảnh Ngài bốc mình khỏi mặt đất, bay vào một nơi nào đó trên trời cao. Điều này khiến cho có kẻ cứ lầm tưởng thiên đàng là một chốn nào đó trong không gian. Yuri Gagarin, phi hành gia đầu tiên của Nga, sau khi bay lên vào vũ trụ đã trở về tuyên bố: " Tôi nhìn khắp cùng không gian, nhưng chẳng thấy Chúa đâu. Vậy mà người có Đạo lại nói "Lạy Cha chúng con ở trên trời"".
Nghe thế, nhiều người bị lung lay niềm tin vì cứ tưởng Chúa ở trên trời cao xanh, bây giờ các khoa học gia lên trời và dùng cả viễn vọng kính tối tân tìm kiếm mà chẳng thấy ai, nên nghĩ là không có Chúa.
Có người lại lầm tưởng trên thiên đàng người ta vẫn sống như đời thường, tức cũng ăn uống ngủ nghỉ, cưới vợ, lấy chồng, sinh con đẻ cái. Thế nên mới có cảnh bè phái Sađucêô đặt vấn đề: một bà lấy bảy anh em, thế khi về trời bà ta là vợ của ai.
Nếu thiên đàng là một cõi vật chất nào đó trong không gian thì nó cũng sẽ suy tàn như bao vật chất khác. "Lên thiên đàng" không phải là bay lên trời xanh kia, song là bước khỏi thế giới hữu hình để đi vào mối liên hệ vô hình, không bị chi phối bởi thời gian, không gian, hay giác quan, song là yêu thương bao trùm tất cả.
Thế nên khi nói "Chúa Giêu lên trời" có nghĩa là Ngài đi trở về với mối liên hệ vô hình trong tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn của Thiên Chúa.
Trên thế gian, khi yêu nhau con người phải dùng đến sự vật hữu hình để diễn tả và cảm nhận. Không ai thấy hình thù của tình yêu nên người ta phải bày tỏ qua cánh hoa, vòng tay, ánh mắt, nụ hôn... Nói yêu nhau mà không có hành động diễn tả thì chẳng ai có thể cảm nhận được. Ấy là vì con người bị giới hạn trong thế giới vật chất hữu hình. Thế nên, khi Thiên Chúa tỏ tình với nhân loại, Ngài cũng phải diễn tả qua những gì người ta thấy, sờ, nghe và cảm nhận được. Cao điểm của lời tỏ tình ấy là việc Thiên Chúa làm người để sống giữa con người.
Thế nhưng qua việc "lên trời", Chúa Giêsu đã khẳng định rằng con người không bị thế giới vật chất hữu hình chi phối mãi. Sẽ đến một ngày người ta thoát khỏi thế giới đó, chấm dứt những liên hệ trong không gian và thời gian để đi vào mối liên hệ tinh tuyền của tình yêu.
Chắc hẳn ước mơ cao quí nhất của đời người là ước mơ hạnh phúc. Nhưng có hạnh phúc nào lại thiếu vắng tình yêu. Tình yêu càng tinh tuyền, hạnh phúc càng trọn vẹn. Tình yêu tinh tuyền và trọn vẹn nhất chỉ có trong vương quốc Thiên Chúa.
Trước khi về trời, Đức Giêsu mời gọi các môn đệ hãy tập sống tình yêu đó ngay trên thế gian. Ngài bảo các ông: "Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân", "các con là chứng nhân của Thầy". Nhưng giảng dạy và chứng nhân cho điều chi nếu không phải là Tình yêu Thiên Chúa ban cho con người. Lời giảng dạy chân thực nào cũng cần kèm theo đời sống chứng tá. Chắc chắn không mấy ai dám tin nhận lời dạy của các môn đệ khi thấy các ông bê bối xấu xa, vợ nọ con kia, đam mê vật chất, gian dối hận thù, tranh giành quyền lực đánh chí choé. Người ta có tin là vì các ông đã tập sống như lời Đức Giêsu căn dặn: "Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau."
Thành ra việc mừng lễ Chúa Giêsu lên trời lại khai mở trong tôi một thái độ sống: sống trong cuộc đời nhưng phải hướng về quê trời. Sự hướng mình lên cao đó giúp tôi vược thắng những tình cảm thấp hèn của xác thịt, thế gian, vật chất hầu đi đến một tình yêu cao cả hơn. Đó là tình yêu chân lý, yêu sự sống, yêu những giá trị thiêng liêng, với khả năng nâng tôi lên cao hơn trong tình Chúa và tình người.
35.Ta ở với các ngươi mãi mãi--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’
Chúng ta không có một chỉ dẫn nào về vị trí ngọn núi xứ Galilêa, nơi Chúa Giêsu hẹn các môn đệ. Bài tường thuật của thánh Matthêu được viết theo dàn bài thông thường của các cuộc hiện ra. Chúa Giêsu tỏ mình, Ngài đánh tan sự nghi ngờ, Ngài ban một sứ mạng cho các môn đệ. Bài Phúc Âm hôm nay bao phủ một sự phong phú ý nghĩa đặc biệt. Chúa Giêsu trao cho các môn đệ mệnh lệnh rao giảng Phúc Âm, uỷ thác cho các ông quyền làm phép rửa tội, Ngài hứa tiếp tục có mặt bên các ông. Chúa Giêsu còn hiện diện với Giáo Hội, thay mặt ở đây bởi mười một tông đồ, đặc biệt trong bí tích rửa tội và trong công cuộc truyền bá Phúc Âm.
1) Chúa Giêsu hiện diện trong phép Rửa tội.
Ta biết rằng người chịu phép rửa tội được tham dự vào mầu nhiệm hiệp thông với sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Phép rửa tội đặc biệt là bí tích của sự kết hợp vượt qua với Đức Kitô, vì phép ấy cho ta đạt tới sự sống qua khỏi sự chết. Điều ấy chỉ thành sự thật nhờ tin vào Chúa Giêsu. Chúng ta sẽ không biết gì cả về Ba Ngôi Thiên Chúa nếu không có Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta. Đối với các tông đồ đã như thế, đối với chúng ta cũng như vậy. Chúa Giêsu còn hiện diện để dạy dỗ chúng ta bằng cách nào? Người hướng dẫn chúng ta đến phép rửa tội ra sao? Và sự hiện diện của Ngài tỏ ra đặc biệt gần gũi và tác động nơi linh hồn người chịu phép rửa tội như thế nào? Để trả lời những câu hỏi ấy cần viện đến sự kiện Giáo Hội và đến mầu nhiệm bên trong của đời sống Kitô hữu. Chúa Giêsu hiện diện để dạy dỗ người ta bởi Giáo Hội của Ngài. Chính Giáo Hội là điểm gặp gỡ giữa Đức Kitô và loài người và chính ở điểm gặp gỡ ấy nảy sinh đức tin. Do đó ta thấy tầm quan trọng của việc theo sát những vị có sứ mạng uỷ quyền giảng dạy trong Giáo Hội, những vị thừa kế các tông đồ. Mặt khác, qua ân sủng bí tích rửa tội, Đức Kitô tiếp tục nơi chúng ta công cuộc mặc khải Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ngược lại, lòng sẵn sàng tuân theo Chúa Thánh Thần và đón nhận Chúa Cha giúp ta tiến tới trong việc hiểu biết Chúa Con. Đây là một cái gì sống động không thể diễn tả bằng lời nói được. Đức tin vào Chúa Giêsu Kitô cho chúng ta cảm nhận được thực tại sống động của bí tích rửa tội.
2) Đức Kitô hiện diện trong công việc truyền bá Phúc Âm.
Trước hết cần nhớ rằng, bổn phận truyền bá Phúc Âm thuộc mọi môn đệ của Đức Kitô, nghĩa là thuộc mọi người chịu phép rửa tội với những phương tiện riêng (bắt đầu bằng kinh nguyện). Chúa hiện diện nơi công việc của các tông đồ Ngài bằng hai cách chính. Trước hết Ngài hiện diện nơi công việc của người chiến sĩ Phúc Âm bằng sự hiện diện nơi chính người chiến sĩ. Như vậy có nghĩa là người chiến sĩ cần phải để tâm gặp gỡ riêng Chúa mình. Người môn đệ chỉ loan báo Đức Kitô cách hữu hiệu trong mức độ chính mình sống thân thiết bên trong và riêng biệt với Chúa. Sau đó hãy nhớ lời dạy quan trọng: nơi nào nhiều người tụ họp lại nhân danh Ta, có Ta ở giữa họ. Chúa hiện diện với các môn đệ khi họ đoàn kết. Thiếu đoàn kết giữa các Kitô hữu là nguyên do chính của việc thiếu hữu hiệu trong công việc truyền bá Phúc Âm. Đừng nói chi đến sự chia rẽ bi đát giữa các Giáo Hội. Hãy nghĩ đến mức độ chúng ta trong cách suy nghĩ, trong lời nói, trong các quyết định, trong cách hành động, chúng ta có lo lắng liên kết và hiệp nhất với các anh em tín hữu gần gũi nhất với chúng ta không? (xứ đạo, khu xóm, xưởng làm, phong trào Công Giáo Tiến Hành…). Nếu có, Đức Kitô hiện diện nơi công việc tông đồ của chúng ta.
36.Ái mộ những sự trên trời--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Thủ lãnh của một bộ tộc nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người thân cận đến và nói: Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi thiêng liêng của chúng ta và mang về đây cho bộ tộc một món quà quý giá nhất.
Người thứ nhất mang về một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về một viên ngọc quý. Người thứ ba trở về tay không.
Ngạc nhiên, vị tù trưởng hỏi: món quà quý giá của ngươi đâu?
Anh điềm tỉnh trả lời: khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể có một cuộc sống sung túc tốt đẹp.
Thủ lãnh nói: Ngươi sẽ nối nghiệp ta vì ngươi đã mang về món quà quý gía nhất là một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
Chúa Giêsu về trời mở ra một viễn tượng tương lai tốt đẹp là hạnh phúc thiên đàng. Người đi trước mở đường và dẫn chúng ta lên theo Người.
Tin Mừng thuật lại hai sự kiện song hành: Chúa Giêsu lên trời và lệnh truyền rao giảng Tin Mừng. Sự kiện Chúa Giêsu lên trời, Tin Mừng thánh Marcô ghi lại rất vắn tắt: Chúa lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Tin mừng Matthêu nói đến lệnh truyền: Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, là phép rửa cho họnhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần.Còn theo sách Công vụ Tông đồ, Chúa Giêsu lên trời sau khi sống lại được 40 ngày, và nơi lên trời là núi Cây dầu. Thực ra khi Chúa Giêsu sống lại, Người đã lên trời rồi theo kiểu nói của Kinh Thánh, nghĩa là Người bước vào cõi vinh quang của Chúa Cha, Người ngự bên hữu Chúa Cha,mặc lấy vinh quang và quyền năng của Chúa Cha. Trong 40 ngày sau sống lại, Chúa Giêsu hiện ra nhiều lần để dạy dỗ và cũng cố đức tin của các Tông Đồ. Giáo hội đã được thiết lập nay được cũng cố để được sai đi. Như vậy sự kiện lên trời mà phụng vụ Giáo Hội kính nhớ hôm nay có ý nghĩa sâu xa. Nó chấm dứt thời gian Chúa hiện diện giữa nhân loại bằng thân xác, chấm dứt thời gian huấn luyện các Tông Đồ. Một thời điểm có tính cách quyết định của lịch sử cứu độ là Chúa Giêsu ban những giáo huấn cuối cùng,trao những chức vụ phải thi hành trong Giáo hội, chuẩn bị cho các Tông đồ thi hành sứ mạng chứng nhân của Đấng phục sinh trong thế giới. Từ nay trở đi, Người sẽ hiện diện với chúng ta một cách vô hình. Với quyền năng của Chúa Thánh Thần, thân xác Chúa Giêsu đã được thần khí hoá và đi vào cõi vĩnh hằng của Chúa Cha. Sự hiện diện này thâm sâu hơn và hiệu năng hơn. Khi còn ở trong thân xác, Chúa Giêsu chỉ ở bên cạnh một số người thôi. Từ nay, với quyền năng Thánh Thần, Người sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người. Chúa Giêsu lên trời. Điều đó dạy ta biết ngoài cõi đời này còn có một nơi chốn khác. Ngoài cuộc sống này còn có một cuộc sống khác. Ngoài những giá trị đời này còn có những giá trị khác. Trời là nơi hạnh phúc không còn khổ đau. Trời là nơi cuộc sống vĩnh viễn không bị tiêu diệt. Trời là nơi tất cả mọi giá trị đạt đến mức tuyệt đối. Trời là nơi con người trở thành thần thánh, sống chung với thần thánh. Như thế trời là niềm hy vọng của con người. Con người không còn bị trói chặt vào trần gian. Định mệnh của con người không phải chỉ là đớn đau sầu khổ. Số phận con người không phải sinh ra để rồi tàn lụi. Trời cho con người một lối thoát. Trời mở ra cho con người một chân trời hạnh phúc. Trời cho con người cơ hội triển nở đến vô biên.Trời nâng cao địa vị con người. Có trời, con người không còn bị xếp ngang hàng với loài vật. Loài vật sinh ra để tàn lụi. Con người sinh ra để triển nở, để vượt qua số phận, để đạt tới địa vị con Thiên Chúa. Có trời, con người sẽ được nâng lên ngang hàng thần thánh.
Tuy nhiên, trời không phải xây dựng trong mây trong gió, nhưng được xây dựng trong cuộc sống trần gian. Trời không phải là cõi mơ mộng viển vông, nhưng đã bắt đầu ngay trong thực tế cuộc đời hiện tại. Chính vì thế mà hai thiên thần áo trắng đã bảo các môn đệ đừng đứng nhìn trời mãi làm chi, nhưng phải trở về mà lo chu toàn nhiệm vụ. Chính vì thế mà trước khi lên trời, Chúa căn dặn các môn đệ hãy đi làm việc cho Nước Chúa. Sống và làm việc ở trần gian, đó là một nhiệm vụ phải chu toàn. Hoàn thành nhiệm vụ ở trần gian, đó là điều kiện để đạt tới hạnh phúc nước trời. Chính Chúa Giêsu cũng đã chu toàn nhiệm vụ ở trần gian rồi mới lên trời. Nhiệm vụ đó là đi gieo Tin Mừng khắp nơi. Đi đến đâu là thi ân giáng phúc đến đó. Đi đến đâu là làm cho hạt yêu thương nảy mầm lên màu xanh sự sống đến đó.
Người môn đệ của Chúa sống giữa trần gian, yêu mến trần gian, xây dựng trần gian. Vì trần gian là nơi Chúa sai ta đến làm việc.Tuy nhiên ta làm việc ở trần gian mà lòng vẫn hướng lên quê trời. Yêu mến trần gian vì nước trời. Yêu mến trần gian để biến trần gian thành nước trời. Sống giữa thế gian, chúng ta “ái mộ những sự trên trời” như lời kinh hạt: “Thứ năm thì ngắm, Đức Chúa Giêsu lên trời. Ta hãy xin cho được ái mộ những sự trên trời”. Nhưng vẻ đẹp trên trời là vẻ đẹp của tâm hồn, tình yêu Thiên Chúa và tha nhân, vẻ đẹp nghèo khó Phúc Âm, khiêm nhường, đơn sơ, thanh tịnh. Đây là vẻ đẹp và sự quyến rũ của nhân đức, một vẻ đẹp hoàn toàn khác với những vẻ đẹp và sự quyến rũ thuộc trái đất. Nhiều người đã bỏ ra hằng trăm, hàng ngàn, hàng vạn Mỹ kim để làm đẹp, để khoa trương sự giàu có và để được người khác ca tụng. Nhiều người không sợ trải qua những cuộc giải phẫu nguy hiểm, đau đớn cốt sao để thấy mình đẹp, mình hơn người là thoải mái, và hạnh phúc. Nhiều người đã sẵn sàng chấp nhận những thách đố lớn lao để chạy đua vào những chiếc ghế quyền lực. Nhưng ít ai bỏ ra một giờ, một ngày, một tuần, một tháng, hoặc một năm để lo tu sửa và chỉnh trang lại vẻ đẹp của tâm hồn.
Trên thực tế, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, đức nghèo khó, đức đơn sơ, và đức trong sạch là những đòi hỏi rất cần thiết để đem lại hạnh phúc cho mỗi người, mỗi cộng đoàn, mỗi dân nước. Đó là những gì cụ thể có thể giúp con người chiếm hữu được vĩnh hằng. Rất tiếc, đó cũng là những gì mà nhiều người từ khước, bởi vì chúng không phù hợp với nhãn quan và suy tư của con người.
Giáo Hội đã thôi thúc và khuyến khích mỗi Kitô hữu hãy tìm kiếm và yêu mến những sự trên trời. Cầu xin cho được ơn ái mộ là cầu xin Thánh Linh khai mở tâm hồn và trí tuệ để chúng ta có thể nhìn, và có thể hiểu được vẻ cao quí của những giá trị tinh thần ấy. Nhận thức về thế giới tâm linh là một nhận thức ngoài tầm hiểu biết của trí tuệ tự nhiên con người. Những gì thuộc về thần linh là thần linh. Con người cần được soi dọi và khai mở bởi sức mạnh huyền nhiệm của Thánh Thần. Chỉ khi nào trí óc ta, trái tim ta được Ngài khai mở, lúc ấy ta mới nhận ra, mới hiểu thấu thế nào là sự cao xa, dài rộng của vẻ đẹp tinh thần, của những giá trị đạo đức.
Chúa về trời, không phải chỉ để dọn chỗ mà còn là mở ra một viễn tượng hạnh phúc của trời cao. “Xin cho chúng con ái mộ những sự trên trời”, để chúng con không bị chôn bám vào thế gian chóng qua và phù du này. Và để chúng con biết tìm kiếm những giá trị cao quí của tinh thần, và để chúng con yêu mến và sống với cuộc sống ấy. Vì đó là những gì mà chúng con có thể tìm kiếm, mua sắm và đem vào được nơi vĩnh hằng. Nơi mà chúng con sẽ gặp được Chúa là nguồn mạch sự sống, hoan lạc, và hạnh phúc viên mãn của chúng con. Amen.
37.Khát vọng lên trời!--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Vào đời Vua Hùng Vương Thứ Sáu, có nạn giặc Ân bên Tàu. Chúng cậy thế mạnh nên hay sang quấy nhiễu nước ta. Vua truyền hịch đi khắp nơi để tìm người tài giỏi giúp nước diệt giặc.
Bấy giờ ở làng Phù Đổng, có một cậu bé đã 3 tuổi mà chỉ nằm ngửa, không nói được một lời nào. Nghe sứ giả nhà vua rao hịch tìm người tài diệt giặc, cậu liền nhờ sứ giả xin với Vua, đúc cho cậu một cây roi sắt và cấp cho cậu một con ngựa bằng sắt, để cậu đi đánh đuổi ngoại xâm.
Nghe lời người hiền tài nhắn gởi, vua thuận ý.
Cậu bé liền vươn vai thành người to lớn, khỏe mạnh. Cậu đứng dậy, cầm roi sắt, nhảy lên yên ngựa, oai phong đi đánh giặc Ân.
Dẹp xong giặc, cậu phóng ngựa lên núi Sóc Sơn, rồi về trời.
Vua nghĩ là thiên thần của trời cao xuống trần cứu giúp, nên liền xây một đền thờ, gọi là đền Phù Đổng Thiên Vương, để tạ ơn và tưởng nhớ.
Câu chuyện huyền sử nói lên khát vọng của một dân tộc nhỏ bé luôn bị ngoại bang quấy nhiễu. Một tiểu quốc hiền hòa trước một đại hán bá quyền bành trướng. Vì thế mà ước mơ có được sứ thần từ trời cao đến cứu giúp. Một khát vọng ngàn đời, được tự do và độc lập, được công lý và dân chủ.
Con người mọi thời đại luôn khát khao bay lên trời. Đi dưới đất, ngược xuôi trên biển trên sông, con người luôn ước vọng, phải làm sao lên được trời cao. Vì thế, ngày 04 tháng 06 năm 1783, lần đầu tiên, hai anh em Montgolfiers, bay lên trời bằng khí cầu được 500 mét trước hàng ngàn người chứng kiến. Ngày 12 tháng 04 năm 1961, Gagarine, phi hành gia đầu tiên, bay ra khỏi tầng khí quyển của trái đất trong phi thuyền Vostok I của Liên Xô. Đến ngày 16 tháng 07 năm 1969, hai phi hành gia người Mỹ là Armstrong và Aldrin, bay lên tới mặt trăng.
Cả thế giới đã hồi hộp theo dõi những phi hành gia bay vào vũ trụ. Và chuyến bay nào rồi cũng phải trở về trái đất.
Hôm nay, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu lên trời. Người trở về nhà Cha, sau khi đã hoàn tất sứ vụ Chúa Cha trao phó. Sau thời gian 33 năm xa nhà, Người hồi hương trong vinh quang phục sinh và “được đưa về trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (Mc 16,19).
Chúa Giêsu lên trời, một cảnh tượng thật huyền diệu. Thân xác Người nhẹ bay lên cao. Tay Người ban phúc lành cho các tín hữu. Dáng Người nhỏ dần và hòa biến vào không gian vô tận.
Trên trời cao, các thiên thần và triều thần thiên quốc đang tụ họp tổ chức nghi lễ đón tiếp Đấng Cứu Thế khải hoàn. Tác giả Thánh vịnh 23 đã chiêm ngưỡng và mô tả cuộc nghinh đón đó bằng ca khúc bất hủ: “Hỡi các khải hoàn môn và các vệ binh thiên quốc, hãy cất cao đầu lên. Hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu, hãy mở rộng ra, để Vua vinh hiển và đoàn tùy tùng tiến vào. Vua vinh hiển là ai? Thưa là Đức Giêsu uy hùng lẫm liệt, là Chúa oai phong chiến thắng. Hỡi các khải hoàn môn, hỡi các cửa triều đình vĩnh cửu hãy cất cao đầu lên, để Vua vinh hiển tiến vào, Vua vinh hiển là ai? Chính là Thiên Chúa hùng dũng uy linh”.
Đoàn tùy tùng theo Chúa về trời: đông vô kể, các thánh thời Cựu Ước, các tổ phụ, các tiên tri, các người công chính… đang hoan hỉ vui mừng đi theo Chúa. Đặc biệt có thánh cả Giuse, thánh Gioan Tiền hô, Tổ phụ Abraham, Giacop, Môisê, thánh Gióp, vua Đavid, các tiên tri, hân hoan cung nghinh Đấng Phục Sinh khải hoàn về thiên quốc.
Trên núi Cây Dầu, cả cộng đoàn môn đệ đang ngây ngất chiêm ngưỡng, tâm trí như mất hút vào không gian vô tận, lòng rộn rã hân hoan: “Hãy vỗ tay, hãy reo mừng Thiên Chúa. Hãy trổi cao kèn sáo, đàn ca lên dâng Người khúc ca tuyệt mỹ, Chúa là Vua khắp muôn dân, ngự trên tòa uy linh cao cả” (Tv 47, 2-3, 6-9).
Chúa về trời, một cuộc tạm biệt, chứ không ly biệt. Chia tay để rồi sẽ gặp lại nhau trong một tương quan mới.
Chúa về trời, gợi lên trong tâm hồn chúng ta một khát vọng quy hướng về Người, để rồi đối với chúng ta, không còn hạnh phúc nào lớn hơn là được ở trong Người, đón nhận sự sống sung mãn Người ban tặng.
Nhận thức được niềm hạnh phúc ấy, đời sống cầu nguyện của chúng ta sẽ có một sự thú vị ngọt ngào. Nơi thiên cung, mọi đau khổ, bệnh tật, chiến tranh, khủng bố không còn nữa. Ở đó, chỉ có thanh bình, công bằng, và hạnh phúc viên mãn, nhân phẩm và nhân vị con người hoàn toàn được phục hồi trong ánh sáng phục sinh của Chúa Kitô.
Từ nay trở đi, Chúa Kitô Phục Sinh sẽ hiện diện trong lòng con người, trong tâm hồn tất cả những ai tin vào Người.
Khi hai người yêu nhau thì luôn muốn sống bên nhau, nhưng tới một giây phút nào đó, họ cảm thấy sống bên nhau vẫn chưa đủ. Xuân Diệu đã diễn tả chân lý ấy cách sâu sắc: Hai người tình ngồi sát bên nhau, ôm lấy nhau mà vẫn còn thấy rất xa xôi. Những người yêu nhau muốn sống trong nhau, nhưng điều đó không thể xảy ra giữa loài người được vì dẫu sao thân xác của mỗi người vẫn tạo ra một ngăn cách. Điều con người không thể làm được thì Thiên Chúa đã làm. Chúa Giêsu, một khi ngự bên hữu Chúa Cha, đã hoàn toàn mặc lấy quyền năng Chúa Thánh Thần, Người đến ngự trong tâm hồn của mỗi chúng ta. Chính Người đã nói “ Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến nó và chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).
Để chúng ta hiểu hơn về sự hiện diện này, Chúa đã dùng dụ ngôn cây nho và cành nho: “Thầy là cây nho, các con là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5).
Thiền sư Suzuki rất tâm đắc với huyền nhiệm này khi viết: Thiên Chúa ở trong con người và con người ở trong Thiên Chúa. Chúa là người và người là Chúa, mà Chúa vẫn là Chúa và người vẫn là người. Quả thật, đó là điều kỳ bí nhất của Tôn Giáo, một nghịch lý thâm u nhất của triết học.
Bài Tin mừng hôm nay kết thúc Phúc Âm Matthêu, nhưng thực ra là một sự khởi đầu, một sự khai mở. Đó là khai trương công cuộc truyền giáo toàn cầu. Hình thức của việc truyền giáo được chỉ định rõ ràng: Làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Thầy. Làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy truyền cho anh em. Nhờ việc sai đi và uỷ quyền cho các Tông đồ, qua các Tông đồ, rồi đến các môn đệ, Chúa Giêsu trở thành người sống đương thời với chúng ta: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Chúa đã dùng Giáo Hội như đôi tay để tiếp tục công cuộc cứu rỗi của Chúa Giêsu. Sứ mệnh của Chúa Giêsulà sứ mệnh thiêng liêng. Nhưng sứ mệnh đó phải được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động bên ngoài. Giáo Hội thực thi sứ mệnh đó trong khung cảnh hữu hình, nhờ những phương tiện cụ thể. Nhờ những sinh hoạt hữu hình và đôi tay cụ thể của Giáo Hội mà Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền chân lý, trao ban sự sống, dẫn đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Mỗi Kitô hữu là chi thể của Giáo Hội, thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Mỗi người chúng ta cũng là những cánh tay mở rộng của Chúa Kitô, nhờ đó Người không ngừng trao ban tình thương, ơn cứu độ và hạnh phúc cho mọi người.
Chúa về trời, chúng ta vào đời làm chứng nhân của Tin Mừng Cứu Độ và loan báo Tin Vui, mai này chúng ta cũng sẽ về nhà Cha trên trời.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam