Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 38

Tổng truy cập: 1356235

CHUẨN BỊ CHO BỮA TIỆC LY

CHUẨN BỊ CHO BỮA TIỆC LY (14,12-16).

 

Trình thuật này làm độc giả ngạc nhiên bởi vì được mô tả khá chính xác. Trước hết nó cho biết thời gian và ý nghĩa của bữa ăn tiệc ly Chúa Giêsu dùng chung với các môn đệ. Về thời gian, Maccô cũng như Matthêu (26,17-19) và Luca (22,7-13) cho rằng bữa tiệc của Chúa Giêsu xảy ra trùng hợp với bữa tiệc Vượt Qua của người Do Thái, được tổ chức vào đêm trước lễ Vượt Qua (c.12a), và Chúa Giêsu cũng rất ít có được khả năng ăn mừng lễ Vượt Qua Do Thái. Bởi vì hôm sau, ngay chính lễ Vượt Qua, Ngài sẽ chết. Nhưng theo luật tòa án hồi bấy giờ, người ta không thể kêu án và xử án bất kỳ ai một khi lễ Vượt Qua đã bắt đầu. Về phương diện lịch sử, trình tự thời gian mà Gioan ghi lại có vẻ hợp lý hơn. Năm ấy, lễ Vượt Qua Do Thái xảy ra vào ngày thứ Bảy, ngày Sabbat (Ga 19,31). Chúa Giêsu bị đóng đinh vào trước hôm đó, ngày thứ sáu, vào giờ mà người ta cắt tiết chiên để ăn mừng lễ (Ga 18-28). Như thế, Chúa Giêsu dùng bữa tiệc ly cùng với các môn đệ vào ngày thứ Năm. Sự xê xích thời gian này rất quan trọng. Dù sao đi nữa, chính vì lễ đã quá gần nên mới có bữa tiệc này, và người ta nhận ra ngay là cả ba Tin Mừng nhất lãm đều biến bữa tiệc này thành tiệc Vượt Qua. Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu gắn liền với “lễ Vượt Qua mới”: việc giải thoát khỏi ách sự Ác và sự Chết-Phaolô là người đầu tiên có thể nói lên: “Đức Kitô, Chiên Vượt Qua của ta, đã bị sát tế. Ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ… nhưng với bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật” (1Cr 5,7-8)..

Bản tường thuật tiếp tục với một văn phong gần như kiểu chuyện “thần kỳ”. Các môn đệ hỏi Ngài về địa điểm dọn tiệc, Chúa Giêsu trả lời khá kỳ cục (c.13-15). Có hai điểm nổi bật trong đoạn này. Điểm thứ nhất là các môn đệ sẽ gặp một người đội vò nước. Lẽ thường thì chỉ có phụ nữ mới đi lấy nước. Như vậy, Chúa Giêsu đã mặc cho đặc điểm kỳ lạ này một dấu chỉ trù định trước. Điều kỳ cục thứ hai, đó là việc tìm được một căn phòng “đã sắp sẵn” cho bữa tiệc. Hình như Thiên Chúa đã quan phòng hết mọi sự, và Chúa Giêsu được coi như là một tiên tri biết hết mọi chuyện sẽ xảy ra, biết từng chi tiet một. Làm sao giải thích điều này? Hầu chắc là Maccô đã được linh hứng khi viết những trang này, theo kiểu viết Kinh Thánh thông thường hồi đó. Trong sách Samuel thứ I, tiên tri Samuel đã thấy trước được những lần gặp gỡ (theo thánh ý Chúa) và chàng trai trẻ Saul. Những cuộc gặp gỡ này phải chứng tỏ được rằng Thiên Chúa đã chọn chàng trai trẻ này để làm vua Israel (1S 10,1-10). Cũng tương tự như thế, cuộc gặp gỡ được báo trước hai môn đe với người đàn ông đội vò nước sẽ là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đã quyết chọn Chúa Giêsu làm Vua -Mêsia. Đoạn này còn được xác quyết chắc chắn bằng một đoạn khác của Maccô: đoạn kể về việc Chúa Giêsu vào Giêrusalem (11,1-11). Ở đó, Chúa Giêsu cũng phái hai môn đệ đi trước để tìm gặp con lừa con. Biến cố này rõ rệt là mang tính chất Mêsia và lần nào thì sự việc cũng xảy ra y như những lời dặn dò trước cả. Mọi sự đều diễn ra phù hợp với nhận định tiên tri của Thầy (c.16).

Ta kết thúc đoạn này bằng cách lưu tâm đến việc lặp lại tới hai lần tính từ “Vượt Qua” (c.12b và 12d) và danh từ “vượt qua” (c. 14,16) là nhằm mục đích kêu mời độc giả chú trọng đến ý nghĩa tối hậu của bữa tiệc Chúa Giêsu sắp tham dự. Nó là dịp lễ mừng nhắc nhở lại việc ra khỏi Ai Cập, đồng thời chính là dịp loan báo sự chết và sống lại của Đấng Mêsia cứu thế.

THIẾT LẬP BÍ TÍCH THÁNH THỂ (14,22-26)

Có lẽ ai cũng muốn biết tường tận những việc xảy ra trong bữa tiệc ly của Chúa Giêsu với các môn đệ. Nhưng thay vì tả lại dài dòng và đầy đủ chi tiết, Maccô cũng như Matthêu (26,26-29) và Luca (22,19-20) – đã kể lại vắn tắt và rất giản lược. Tựa như thế đó chỉ là một văn bản phụng vụ đã có sẵn. Ông chỉ dùng rất ít từ cô đọng để nêu lên ý nghĩa của các cử chỉ và lời nói của Chúa Giêsu trong bữa tiệc Thánh đó.

Chúa Giêsu đã làm một cử điệu mang tính nghi thức rất quen thuộc đối với người Do Thái khi họ cử hành bữa tiệc mừng lễ (c.22). Như người cha trong gia đình chủ tọa bữa ăn, Ngài cầm lấy bánh và chúc tụng Thiên Chúa về những ơn phúc Ngươi đã ban cho. Lời kinh “tán tụng” của người Do Thái không phải là một lời cầu chiếu lệ, trái lại rất trang trọng bởi vì qua đó dân Israel dâng lên Thiên Chúa lời cảm tạ Ngài đã giải thoát họ. Trong kinh Haggada mừng lễ Vượt Qua (nghi thức ăn mừng đại lễ Vượt Qua), người ta cũng đọc thấy “Ta mắc nợ này: là phải cảm tạ, ngợi khen (…) chúc tụng Đấng đã ban cho cha ông chúng ta và cả cho chúng ta hằng hà dấu chỉ. Ngài đã kéo ta ra khỏi ách nô lệ đến nơi tự do, từ cõi u sầu đến miền hoan lạc, từ chốn tan tác vào nơi vui vẻ, từ tối tăm ra ánh sáng và từ chỗ bị áp bức tới nơi giải phóng. Và trước nhan Ngài ta hãy hát lên bài ca mới Alleluia”. Sau khi đã hát xong lời nguyện, Chúa Giêsu bẻ bánh. Ngài phát cho các vị đồng bàn mỗi người một miếng và vừa phân phát, Ngài vừa nói: “Hãy cầm lấy, đây là Mình Thầy”. Trong tiếng Arain, ngôn ngữ Chúa Giêsu dùng, tiếng “Mình” không phai chỉ nói riêng đến phần thân xác, mà là đến toàn bộ “con người” như thế Chúa Giêsu không chỉ ban phát thân xác của Ngài làm của ăn cho chúng ta – như kiểu giải thích duy vật của Tây phương. Ngài loan báo rằng toàn bộ thân mình của Ngài sẽ được giải thoát khỏi sự chết và ta sẽ được thông phần vào việc giải thoát ấy.

Ý nghĩa của món quà tặng này còn được Ngài làm rõ hơn ngay sau đó, qua cử chỉ và lời nói của Ngài khi cầm lấy chén. Ngài trịnh trọng tuyên bố: “Đây là Máu Thầy, máu để lập giao ước, đổ ra cho nhiều người” (c.23-24). Mọi lời nói ở đây đều cô đọng lạ thường. Chúa Giêsu cầm lấy chén rượu nho lên, rồi chúc tụng “tạ ơn” Thiên Chúa một lan nữa. Chính từ ngữ Hy Lạp này đã phát sinh ra từ “cucharistic” (hành động tạ ơn) trong tiếng Pháp, rồi từ đó người ta dùng để chỉ về toàn bộ các nghi thức liên quan đến việc này. Khi đọc bản tường thuật trên đây, ta nên lưu ý đến sự kiện khó hiểu này, các tông đồ đã uống trước khi Chúa Giêsu loan báo ý nghĩa và làm phép. Những tiếng “Máu của Thầy” trong ngôn ngữ Do Thái có nghĩa là “cuộc đời Thầy” (Lv 17,14). Khi uống rượu đã được thanh hiến, các môn đệ không phải là đã uống Máu Người. Họ đâu có phải là những kẻ ăn thịt người. Họ thông phần với con người Đức Kitô, Đấng đã hiến dâng mạng sống mình trên thập giá (1Cr 11,17-34). Những lời Chúa Giêsu nói tiếp theo sau đó đã giải thích rất minh bạch ý nghĩa cái chết của Ngài. Máu Ngài đổ ra sẽ là “máu của giao ước”. Thuở xưa trên núi Sinai, Thiên Chúa đã kết ước với dân Israel, dân được tuyển chọn. Sau khi đọc lề luật của Thiên Chúa cho dân Israel nghe xong, Môsê đã ghi dấu giao ước đầu tiên này bằng máu của những bò tơ (Xh 24,3-8). Lúc này, qua cái chết của mình, Chúa Giêsu sẽ thiết lập điều mà Phaolô (1Cr 11,25) và Luca (22,20) gọi rất chính xác là giao ước “mới” giữa Thiên Chúa và toàn thể loài người. Thực vậy, Chúa Giêsu hiến mình chịu chết đã đem lại một ý nghĩa “cứu độ” và phổ quát. Máu Ngài “đổ ra cho nhiều người”. “Nhiều người” là một lối nói trong tiếng Do Thái để chỉ về toàn thể loài người và lối nói này đã ám chỉ chắc chắn đến người tôi tớ đau khổ sắp lãnh nhận cái chết để hòa giải các dân thiên hạ với Thiên Chúa như các tiên tri đã loan báo trước đó (Is 53,12).

Như thế, Chúa Giêsu đã nâng sự chết Ngài sắp phải chịu lên một tầm mức cứu độ phổ quát. Ngài hiến thân xác và mạng sống của mình để cứu chuộc thế giới. Rồi khi kết thúc bữa ăn, Thầy đã mở ra một viễn cảnh hạnh phúc (c.25). Ở đây, Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ chiến thắng sự chết. Ngài hứa hẹn Nước Chúa sẽ đến qua hình ảnh một bữa tiệc, ở đó rồi ra mọi người sẽ được ăn no uống đủ. Ở đó, “rượu mới” sẽ tuôn tràn cho mọi người, một khi sự chết đã bị tiêu diệt (chướng ngại vật tối hậu!) thì hết thảy mọi dân nước trên địa cầu này sẽ thông phần với Thiên Chúa hằng sống (Is 25,6-9).

Các cộng đoàn Kitô hữu đều có sử dụng đến các cau trích dẫn từ bản tường thuật trên. Maccô đã cho ta thấy rằng Chúa Giêsu đã thiết lập phép Thánh Thể. Đối với các Kitô hữu, bữa tiệc này đã được lập lại để “tưởng nhớ” sự chết và sự sống lại của Đấng Cứu Độ. Khi cùng nhau “bẻ bánh” và “uống rượu chúc tụng”, người Kitô hữu ý thức được họ phải loan truyền cho anh em biết đến các biến cố cứu độ này. Họ biết rằng bí tích này phải thực thi sống động mầu nhiệm Chúa Kitô đã chết va đã sống lại. Cũng như các anh em Do Thái cử hành lễ Vượt Qua thế nào, thì các môn đệ Chúa Giêsu cũng lập lại những lời nói, nghi lễ này thế ấy, đó là “từ thời nay tớ thời khác, khi con người ra khỏi đất Ai Cập, họ đã mắc nợ. Ta hãy chúc tụng Thiên Chúa chí thánh, Đấng không chỉ giải thoát cha ông chúng ta mà cả chúng ta nữa. Trong Ngài, chúng ta được cứu thoát!.

Bữa tiệc ly Chúa Giêsu dùng với nhóm Mười Hai kết thúc như mọi bữa tiec khác của người Do Thái (c.25). Người ta hát phần thứ hai bài ca “Hallel”, trích từ Thánh Vịnh 115-118. Khi kết thúc bài ca tán tụng này, người ta hát “Alleluia”: “Hãy ca tụng Thiên Chúa”. Rồi Chúa Giêsu cùng các môn đệ lên núi Cây Dầu. Đó là cách thầy trò dễ dàng tìm được nơi nương náu an toàn, tránh được các đe dọa đang rình rập họ ở trong thành.

 

61.Chú giải của Noel Quesson

Hôm ấy nhằm ngày thứ nhất trong tuần bánh không men là ngày giết chiên mừng lễ Vượt qua, các môn đệ thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.

Đức Giêsu đã bị “hành quyết” vào một ngày thứ sáu, rất có thể năm ba mươi hay ba muơi ba, vào lúc những con chiên được giết để mừng lễ Vượt qua trong khuôn viên đền Thánh (Ga 19,14).

Nhưng người ta không biết rõ Chúa Giêsu đã theo lịch nào để dùng bữa ăn cuối cùng của Người. Điều chắc chắn là Người đã mặc cho bữa ăn này một đặc tính “vượt qua”.

Lễ Vượt Qua là một lễ lớn của người Do Thái: Người ta ăn mừng cuộc “giải phóng”. Trong một bữa ăn cổ truyền được tổ chức tại nhà, trong gia đình, người cha phải giáo huấn con cái mình nhớ lại việc tổ tiên của họ đã được giải thoát khỏi ách nô lệ như thế nào. Vì thế, dân Do Thái luôn ý thức mình là một dân tộc “nguyên là nô lệ” nhưng bấy giờ được “tự do! Chúa đã can thiệp, ủng hộ sự nổi lên của họ chống lại kẻ áp bức, giúp họ ra khỏi đất Ai Cập, để vào miền đất hứa.

Mỗi năm tại Nagiarét, Đức Giêsu cùng với Thánh Giuse và Đức Maria, đã cử hành bữa tiệc mừng lễ này. Người đã thuộc lòng mọi diễn tiến theo nghi thức trong bữa ăn: Bánh miến, rượu nho, thịt chiên, rau đắng, kinh nguyện, thánh vịnh. Nhưng tối hôm đó, Người sẽ cho bữa ăn cổ truyền này một nội dung mới! Hôm nay chính người là đấng giải phóng!

Đó là lễ vượt qua! Công cuộc giải phóng! Một bữa tiệc mừng, một bữa ăn giải thoát dân khỏi ách nô lệ.

Chúng ta quá coi thường điều đó! Các Thánh lễ của chúng ta có nguy cơ bị nhạt nhẽo và nhàm chán lặp đi lặp lại biết bao Thánh lễ xem ra có phần bi thảm! Điều quan trọng là trước hết chúng ta phải lo lắng “cử hành những buổi lễ” và “tôn trọng các nghi thức”! Chúng ta có hay quên rằng mình luôn luôn cần phải được “giải phóng” và “cứu rỗi không”. Thưa quý ông bà, vâng quý ông bà vẫn còn là những “nô lệ”. Quý vị hãy xét kỹ lại cuộc đời của mình và hãy tỏ ra sáng suốt. Hãy ý thức tất cả những gì đang xiềng xích quý vị, lúc bấy giờ quý vị sẽ xin Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy muốn chúng con dọn bữa ăn lễ vượt qua cho Thầy, bữa ăn giải phóng ở đâu?”. Vâng xin Chúa giải phóng chúng con thoát khỏi tội lỗi và sự chết.

Người liền sai hai môn đệ đi mà dặn họ: “Các anh đi vào thành, rồi sẽ gặp một người mang vò nước, cứ đi theo người đó.”

Bầu khí lúc bấy giờ trở nên nặng nề. Đức Giêsu là một người bị săn đuổi. Những lãnh tụ Do Thái đã quyết định giết hại người. Vì thế Đức Giêsu làm như ra tín hiệu cách kín đáo. Ngừơi có bạn hữu, nhưng phải liên hệ cách vụng trộm. Người đã chuẩn bị tất cả – tôi hình dung ra hai môn đệ đang đi theo người mang vò nước – cái chết của đức Giêsu, việc Người rời khỏi thế giới này, phải chăng đối với chính người trước tiên, là một việc vượt qua, một cuộc giải thoát. Đó là “Lễ vượt qua của Chúa”: người sẽ được giải thoát.

Người đó vào nhà nào, các anh đi theo và thưa với chủ: “Thầy hỏi ông dành cho Thầy phòng nào để ăn lễ vượt qua với các môn đệ?”. Ông ấy sẽ chỉ cho các anh một phòng rộng rãi trên lầu, sẵn sàng đầy đủ tiện nghi. Các anh dọn tiệc cho chúng ta ở đó.

Đức Giêsu đã tiên liệu tất cả. Người cảm thấy tầm quan trọng. Chính Người là chủ mời. Dó là “bữa ăn của Người”. Lát nữa, chính Người sẽ là chủ toạ. Những môn đệ là “khách được mời”.

Người dùng quyền sắp đặt và chuẩn bị. Chúng ta ngạc nhiên vì sự quan trọng của chi tiết này. Đúng vậy, ngày nay, bất cứ một buổi lễ nào cũng phải được chuẩn bị. Chúng ta hằng nghĩ đến những buổi lễ tại làng thôn hay trong khu xóm, những bữa ăn mừng rước lễ lần đầu, lễ đính hôn hay kết hôn. Chúng ta rất muon buổi lễ được thành công, và như thế chúng ta phải rất cực nhọc.

Còn những Thánh lễ của chúng ta thì sao? Chúng ta có chuẩn bị tử tế không? Biết bao Thánh lễ đã được cử hành cách vội vã, đọc cho qua lần, cử hành cho mau xong. Như Đức Giêsu chúng ta cần quyết định biến các Thánh lễ của chúng ta thành buổi lễ thực sự, cần dành thời giờ để “chuẩn bị", và trước hết phải đến đúng giờ và nếu cần, hãy lập lại những bài Thánh ca trước khi cử hành Thánh Thể, như phần cốt yếu của buổi lễ. Đức Giêsu, tối hôm ấy đã chuẩn bị tất cả để cho buổi lễ được tốt đẹp và trang trọng.

Hai môn đệ ra đi - Vào đến thành các ông thấy mọi sự y như người đã nói, và các ông dọn tiệc vượt qua.

Thánh Máccô nhấn mạnh về điểm này. Ngài muốn đề cao uỷ quyền và vẻ nghiêm trọng của Đức Giêsu. Người đã tiên liệu tất cả, Người đã quyết định tất cả. Người là "Chúa”, không ai chối cãi được. Đức Giêsu biết rằng đó là buổi hội họp cuối cùng của Người với các bạn hữu, "giờ" đã nghiêm trọng rồi: Thánh Gioan sẽ nói là "giờ" của Người". Việc gì đã xảy ra? Chúng ta được đưa vào một hồi kịch quan trọng, biến cố sắp xảy ra... sẽ thay đổi lịch sử của hành tinh, của nhân loại. Cái chết và sự Phục sinh của Đức Giêsu là sự giải phóng thế gian tội lỗi.

Khi tôi đi dự lễ Chúa Nhật, tư tưởng của tôi như thế nào? Tôi chuẩn bị tâm hon ra sao? Đó có phải là một “biến cố" trong tuần sống của tôi không? Tất cả có hội tụ và hướng về đó không? Hay đó chỉ là một thời gian nhỏ bị "đánh cắp" cách lén lút trong những công việc quan trọng khác của tôi? Mot thứ "dấu ngoặc"?

Đang bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy tấm bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra trao cho các môn đệ

Chúng ta có 4 trình thuật về cảnh này. Thánh Maccô, Thánh Luca, Thánh Matthêu và Thánh Phaolô (I Cr 11, 23-25). Bốn trình thuật này đều như nhau về điểm cốt yếu, nhưng trình bày cho chúng ta những công thức khác nhau trước những "lời" Chúa phán. Đức Giêsu đã không quá câu nệ là nghi lễ, và cả Giáo Hội tiên khởi cũng thế. Điều quan trọng là phải lưu ý sự kiện hiển nhiên này để giải thoát chúng ta khỏi một quan niệm, “duy vật" về các bí tích, cứ như là Người dính liền với những từ ngữ, theo kiểu phù thủy - Thực ra người ta không biết rõ "từng chư" Đức Giêsu đã nói tối hôm đó như thế nào - Bốn trình thuật không phải là những phóng sự, mà là những bản văn phụng vụ khác nhau. Đã được dùng trong những cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Người ta có thể đoan chắc rằng những cộng đoàn đó, vì gần với biến cố vừa qua, đã tôn trọng ý định và cả những công thức của Đức Giêsu.

Trước tiên chúng ta cần tưởng tượng những "cử chỉ" của Đức Giêsu. Người "cầm lấy" bánh? Tôi thấy tay Người đưa ra với lấy chiếc bánh trên bàn. Tôi nhìn tay của Người, cầm chiếc bánh không men, "một thứ bánh của người nghèo mạt", vì tại Ai Cập, tổ tiên chúng ta đã không có thì giờ để cho lèn men. Người "đọc lời chúc tụng" đó là lời tạ ơn. Về chén rượu Thánh Máccô dùng chữ "Eueharitèsas" có nghĩa là "đang khi tạ ơn", do đó có từ Thánh Thể. Tôi lắng nghe Đức Giêsu cầu nguyện, nói lời "tạ ơn" Chúa Cha, trong thái độ vui mừng. Tôi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu, khi Người nói chuyện với Chúa Cha. Chúng ta có thể quên được Thánh lễ là một lễ Tạ ơn sao?

Người "bẻ bánh", cử chỉ này không phải là mới lạ. Người cha trong gia đình cũng làm cử chỉ này để phân phát phần cho mỗi người, nhưng cử chỉ tượng trưng này rất đẹp: Mọi người đều ăn cùng một tấm bánh. Điều này nhấn mạnh việc "đồng bàn mà sẽ thành một ý lực trong những cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Thánh lễ là một thách thức muốn bứng tận gốc rễ những khuynh hướng vị kỷ của chúng ta. Nếu ta vẫn giữ những bức tường ngăn cách mà Đức Giêsu đã phá đổ, thì chúng ta đã nhạo báng Mình thánh Chúa vậy (Pr 2,14). Tôi nhìn Đức Giêsu bẻ bánh. Họ đã nhận ra Người qua cách bẻ bánh" Người "trao" bánh này. Khi tôi rước lễ, tôi có ý thức được rằng chính Đức Giêsu đưa miếng bánh cho tôi không? Đó là cử chỉ thánh thiêng và đầy ý nghĩa huyền bí. Lạy Chúa, đây là tay chúng con đưa ra để đón Chúa!

Và Người nói: "Anh em hãy cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy".

Sau nhiều thế kỷ, tranh cãi, mà trong thời gian đó từ trên đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau, nhiều cộng đoàn họp lại thành Hội Đồng Đại Kết các Giáo Hội năm 1974, đã đồng ý về bản văn chung sau đây: "Bữa ăn bánh miến và rượu nho này là một bí tích, dấu chỉ hữu hiệu và quả quyết sự hiện diện của chính Đức Kitô, Người đã hy sinh mạng sống mình cho tất cả loài người và đã tự hiến thân mình làm bánh hằng sống. Vì lẽ đó, bữa tiệc Thánh Thể là Bí tích Mình và Máu Thánh của Đức Kitô. Bí tích của sự hiện diện thực sự của Người. Chính Thánh Thần trong Thánh Thể cho Đưc Kitô thực sự và hiến thân trong bánh và rượu. Khi đọc lời truyền phép. Dĩ nhiên chúng ta luôn đứng trước một mầu nhiệm. Thánh Thomas Aquino, nhà thần học vĩ đại về Bí tích Thánh Thể ở thời Trung cổ đã viết: "Sự hiện diện thực sự" này không có nghĩa là giới hạn Đức Kitô ở trong bánh và rượu mà thôi hay gây ra một sự biến đổi vật lý hóa học nào của những chất này. Tất cả những vẻ bên ngoài vẫn không thay đổi (Tổng luận thần học cuốn III 76/3-5. 77/5-8).

Con người thời nay cần phải lặp lại những chân lý cổ truyền này. Thánh lễ về "Lễ Mừng kính Thiên Chúa" đã được Thánh Thomas Aquino soạn ở Orvieto vào năm 1264. Cùng với toàn thể Giáo Hội tiên khơi, Thánh Thomas “đã tin” nhưng không theo một cách đơn giản. Thánh Phaolô phải chăng là người đầu tiên đã nói rằng, cần phải có đức tin mới "nhận thấy được Mình và Máu Thánh Chúa sao?" (1 Cr 11,23-29).

Vâng, lạy Chúa, chúng con xin tin!

Người lại cầm chén rượu, dâng lời tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ và tất cả đều uống. Người bảo họ: "Đây là Máu Thầy, Máu để lập Giao ước đổ ra vì muôn người”.

Đó là bản dịch chính xác đoạn văn Hy Lạp của Thánh Maccô. Đức Giêsu biết người sắp chết, và chết cách nào. Người thế chỗ cho con chiên vượt qua (mà người ta không nói đến tí nào trong bữa ăn vượt qua này, trong khi món này là chính trong nghi lễ Israel). Ở đây Đức Giêsu làm cho ta nhớ đến người tôi tớ của Đức Giavê (đã hy sinh mạng sống của mình cho muôn dân) (Is 53,11). Đó là một "Giao ước". Thiên Chúa trở nên một thực tại duy nhất với nhân loại, một người trong "đồng minh". Và điều này đã được định nghĩa với những gì là mật thiết và sống động nhất trong chúng ta; "Máu”.

Thầy bảo thật anh em: "Chẳng bao giờ Thầy còn uống rượu nho này nữa cho đến ngày được uống thứ rượu mới trong nước Thiên Chúa". Hát Thánh Vịnh xong, Đức Giêsu và các môn đệ đi lên núi Ôliu.

 

62.Chú giải của Fiches Dominicales

NÀY LÀ MÌNH TA – NÀY LÀ MÁU TA

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI

1. Bữa tiệc Vượt Qua" của Người

Các câu từ 12 đến 16, làm thành phần thứ nhất của bài Tin Mừng hôm nay, tập trung vào việc chuẩn bị lễ Vượt Qua của Đức Giêsu, lễ Vượt Qua "của Người”. Những miêu tả rất chi tiết không phải để thoả mãn óc hiếu kỳ của ta, nhưng để dẫn ta vào ý nghĩa sâu xa của những biến cố sắp diễn ra.

-Cũng như Matthêu và Luca, Máccô biến bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu với các môn đệ thành một bữa tiệc Vượt Qua, bữa tiệc Vượt Qua "của Người”. "Ngày thứ nhất trong tuần lễ bánh không men, lúc người ta sát tế chiên vượt qua, các môn đệ Đức Giêsu hỏi người: Thầy muốn chúng con dọn lễ Vượt Qua của Thầy ở đâu?”.

Chắc chắn lối ghi chép tuần tự theo dòng thời gian của Gioan đúng hơn (xem chương trình "Corpus Christi" phát hình trên kênh "Arte" suốt Tuần Thánh 1997), nhưng dù sao, tác giả Tin Mừng muốn độc giả chú ý đến ý nghĩa của bữa ăn cuối cùng của Đức Giêsu: bữa ăn Vượt Qua của người Do Thái, tưởng niệm biến cố lập quốc của dân Israel, phát triển thành một lễ Vượt Qua mới, cái chết, sự sống lại của Đức Giêsu, từ đó phát sinh một dân tộc mới. Trong bài tường thuật về bửa tiệc của Đức Giêsu với các môn đệ, không thấy có chỗ nào nhắc đến con chiên Vượt Qua, vì theo đức tin Kitô hữu, như thánh Phaolô đã viết: "Đức Kitô là chiên Vượt Qua đã bị sát tế" (1 Cor 5, 7).

Nếu bài Tin Mừng mở đầu bàng cuộc vận động của các môn đệ, đoạn kế tiếp lại nhấn mạnh đến sáng kiến của Đức Giêsu. Cũng như ngày người long trọng vào thành Giêrusalem như Đấng Cứu Thế, Người đã sai hai môn đệ dắt về một con lừa non (Mc 11,1-6), Đức Giêsu cử hai môn đệ đi chuẩn bị lễ Vượt Qua:

+ Không những Người đã thấy trước "căn phòng”.

+ Mà Người còn đưa ra một dấu hiệu để nhận ra ông chủ nhà: "một người đàn ông mang vòi nước”, cử chỉ rất khác lạ ở miền Trung Đông nơi phụ nữ phải làm công việc múc nước.

+ Thậm chí ca đến một mật hiệu: "Thầy chúng tôi hỏi ông: Căn phòng Thầy ăn lễ Vượt Qua với các môn đệ ở đâu?”.

Cũng như trong đoạn trước, Đức Giêsu "hành xử như một tiên tri, có khả năng biết những sự việc ẩn giấu”. (M.E.Boismard, trong "Đức Giêsu, một người Nagiarét, Cerf, 1 996, trang 150).

2. Bữa tiệc Vượt Qua mới cho một dân tộc mới.

Bỏ qua các câu 17-21 loan báo việc Giuđa phân bội, bản văn dùng trong lễ hôm nay kể ngay đến việc lập phép Thánh Thể. J. Hervieux nói trước: ‘truyện kể vắn tắt, sắp xếp gọn gàng’. Hiển nhiên đó là một băn văn phụng vụ đã thành hình. Trong những từ ngữ ít ỏi, rất cô đọng, bản văn chỉ nhắm làm sáng lên ý nghĩa của các động tác va các lời nói của Đức Giêsu trong Bữa Dạ Tiệc (Cena tiếng Latinh có nghĩa là ‘bữa ăn tối’) (Tin Mừng Máccô, Centurion, 1991, trang 208).

- Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ, Đức Giêsu đã lặp lại hai cử chỉ theo nghi thức nơi người Do Thái để mở đầu và kết thúc bữa tiệc: "chúc phúc" trên bánh mì; "chúc phúc" trên rượu.

+ Đầu bữa ăn, vị chủ toạ cầm bánh dâng lời chúc tụng Thiên Chúa: Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con, chúc tụng Chúa, Vua vũ trụ, Chúa đã tạo ra bánh từ ruộng đất! Rồi ông bẻ bánh, chia cho mỗi người đồng bàn một miếng; khi ăn bánh, mọi người đều nhận biết đó là một quà tặng của Thiên Chúa.

+ Cuối bữa ăn, người ta mang tới cho vị chủ toạ một ly rượu có pha nước. Ông cầm ly rượu trong tay, nâng lên, rồi, trong một lời đối thoại theo nghi thức, ông mời gọi các khách tham dự cũng tạ ơn Chúa: "Nào ta hãy tạ ơn Chúa, Người đã nuôi dưỡng ta no thoả! Mọi người đáp lời: "Chúc tụng Đấng đã dùng sự phú túc nuôi dưỡng ta và dùng lòng nhân hậu làm cho ta được sống!”. Rồi ông xướng kinh "chúc tụng". Tạ ơn vì sự sáng tạo, vì giao ước và vì quà tặng Đất hứa, đồng thời cầu nguyen cho hiện tại và tương lai của Giêrusalem. Sau đó ông chuyển ly rượu cho mọi người tham dự.

+ Khi làm lại những cử chỉ nghi thức của dân Người: chiều hôm ấy Đức Giêsu đã ban cho những cử chỉ ấy một ý nghĩa tuyệt đối mới mẻ, đặt chúng trong tương quan với mầu nhiệm phục sinh của Người.

+ "Này là Mình Ta” Người nói khi trao bánh đã bẻ ra cho các môn đệ. Như thế, Người xác định, theo nhân chứng học Do Thái, không có tách biệt giữa xác và 'hồn, nhưng toàn bộ con người của Người: Này là chính Ta (tự hiến). Phải hiểu như thế.

M. Autané bình luận: “Đối với một người Do Thái như Đức Giêsu, chẳng có phân biệt giữa "nhục thể” (sarx) và "xác thân" (sôma) như đối với người Hy Lạp. Xác thân hay nhục thể cũng là trọn vẹn con người. Khi nói: "Này là Mình Ta" Đức Giêsu chỉ có ý nói "Đây là tất cả bản thân, sự sống của tôi”. Như người chủ gia đình, trong bữa ăn Vượt qua, cắt nghĩa rằng banh không men là "bánh nhục nhằn" (Tl 16,3), Đức Giêsu giải thích bánh của bữa tiệc vượt qua mới bằng cách đồng hoá bánh với chính bản thân Người. Người trao cho các môn đệ không chỉ có bánh để ăn, nhưng là chính bản thân Người" ("Hồ sơ Kinh Thánh" số 14).

+ Cũng vậy, sau khi đã chuyền ly rượu đầy, Người tuyên bố: “này là Máu Thầy, Máu giao ước, đổ ra cho mọi người" (nghĩa là "cho toàn thể nhân loại"), để công bố ý nghĩa của cái chết của Người.

M. Autané nói tiếp: "Máu ‘giao ước’ gợi nhớ đến Xuất Hành 24,3-8, khi Môsê ký giao ước với Thiên Chúa bằng việc rảy máu con vật tế hiến lên bàn thờ rồi trên dân chúng. Giao ước mới ra đời nhờ chính mạng sống của Đức Giêsu, sự sống được tượng trưng bằng máu đổ ra để cứu chuộc số đông nhân loại. Đức Giêsu, khi sắp bị địch thù tuyên án tử, đã để lại cho cộng đoàn của Người Thánh Thể như một lễ vượt qua mới. Như thế, trong bữa an này, các môn đệ vừa cảm nghiệm được sự giải phóng - không phải giải phóng khỏi tay người Ai Cập, nhưng khỏi những lực lượng sự chết- và nếm trước bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, khi thời gian chấm dứt.

Ta chẳng bao giờ biết được lời lẽ chính xác của Đức Giêsu trong bữa Tiệc Ly. Nhưng ta biết chắc rằng các môn đệ đã lưu giữ, dạy dỗ, và lưu truyền những gì các ngài cho là chính yếu: sự trao tặng của Đức Giêsu, sự trao tặng chính mạng sống của Người vì tình yêu. Và điều họ phải ghi nhớ đó là sự hiện diện mới của Đức Giêsu: Đấng Phục sinh đã đảo lộn đời họ và Người còn tiếp tục biến đổi thế giới qua Giáo Hội " (Sđd, trang 19).

BÀI ĐỌC THÊM

1. Vĩnh viễn ta chỉ bập bẹ về bí tích Thánh Thể

(Đức Cha L.Daloz, trong "Vậy Người là ai?". DDB. trang 90-91).

Chỉ bằng một cử chỉ đơn sơ và duy nhất, Đức Giêsu trao phó cho các môn đệ kho tàng Mình và Máu Người. Bằng những lời lẽ vắn tắt và long trọng Người tuyên đọc di chúc của Người. Đó sẽ là trung tâm của các cộng đoàn Kitô hữu, và sẽ thẩm định các cộng đoàn dọc dài suốt lịch sử, cho tới ngày các môn đệ Người sẽ uống rượu mới trong Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu truyền lại cho các môn đệ những cử chỉ và những lời lẽ của phép Thánh Thể, dấu chỉ của thân thể và máu giao ước. Người nộp mình vào tay chúng ta. Vào thời điểm Người sắp bước vào cuộc khổ nạn và hoàn tất thời hiện diện hữu hình. Người có ý tiếp tục bằng sự hiện diện vô hình và tầm vóc phổ quát của hiến tế đời người. "Chén mà ta sắp uống, các ngươi sẽ uống”, Đức Giêsu đã loan báo như thế (11,39). Người lên tiếng, cầm lấy chén và trao cho ta. Nhờ bánh và rượu này, ta thục sự dấn bước theo Người lên con đường khổ nạn và phục sinh của Người. Ta không chỉ dừng lại ở việc gợi lại lịch sử và thử bắt chước Người. Chúng ta bị lôi kéo vào cuộc phiêu lưu của Người và thành những kẻ tham dự vào số phận của Người. Lời lẽ bất ngờ chưa từng thấy: "Hãy cầm lấy, này là Mình Thầy, Này là Máu Thầy”. Thật ra, người này là ai mà dám nói những lời như thế? Người đã khai mở lỗ hổng nào nơi nhân tính chúng ta để cho giao ước có thể đi vào, thấm nhập vào đến tận thâm tâm của mỗi người? Ta có thể làm gì khác hơn là linh cảm được điều đó trước khi uống chất rượu mới của Nước Trời? Vĩnh viễn ta chỉ biết bập bẹ nói về phép Thánh Thể.

2. Những bài tường thuật nền tảng về việc cử hành Thánh Thể

(M.Scouarnec, trong “Hồ sơ Thánh Kinh" số 41, "Phép Thánh Thể", trang 24).

Giáo Hội coi những bài tường thuật bữa ăn tối là nền tảng của việc cử hành Thánh Thể. Luca (cũng như Phaolô) tường thuật lệnh truyền của Chúa: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Lệnh truyền mới tương quan với giao ước mới. Dẫu việc soạn thảo bản văn có những khác biệt, vẫn thấy xuất hiện những nét chính yếu:

(1) Bài ca tiếp liên trọng tâm của phép Thánh Thể:

Đức Giêsu cầm lấy bánh, rồi cầm lý rượu.

Người tạ ơn, hoặc dâng lời chúc tụng.

Người bẻ bánh.

Người trao cho các môn đệ.

Bốn động từ, 4 hành động diễn ra trong nghi thức của phép Thánh Thể: chuẩn bị và trình bày những quà tặng, kinh nguyện tạ ơn long trọng, cử chỉ bẻ bánh và rước lễ.

(2) Trong cử chỉ cuối cùng, cử chỉ trao ban, Đức Giêsu đã nói những lời này: "Này là mình Thầy”. Như vậy, đó là chìa khoá để hiểu toàn bộ hành động. Đức Giêsu ban tặng mình và máu Người. Mạng sống của Người, chính bản thân Người. Cái chết của Ngươi, hy tế của Người là một quà tặng cụ thể chính bản thân Người: một hành vi tạ ơn dâng trước cho Chúa Cha và một quà tặng bản thân Người cho anh em.

(3) Một khung cảnh Vượt qua. Dù có những mâu thuẫn giữa Gioan và các Tin Mừng Nhất Lãm về ngày giờ chính xác của bữa Tiệc Ly, ta vẫn thấy ý định của các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm là ghi lại bài tường thuật về việc lập phép Thánh Thể trong khung cảnh lễ Vượt Qua của người Do Thái và của Giao ước, và cho biến cố một nội dung Vượt qua: Đức Kitô vượt qua từ sự chết đến sự sống, thực hiện công cuộc giải phóng mới khỏi tội lỗi nhờ Đức Kitô - Tôi Tớ, cho mọi người chứ không riêng cho dân Israel.

(4) Cử hành ngày Chúa nhật: ngày dân Chúa làm nên một thân thể hữu hình (Thư các Đức Giám Mục gởi người Công giáo Pháp, Cerf, 1 996, trang 93-94).

Còn về phép Thánh Thể, các cộng đoàn đã tiến bộ trong nhận thức tầm quan trọng của bí tích ấy đối với đời sống Giáo Hội. Nhưng vẫn phải luôn luôn đổi mới ý nghĩa việc cử hành ngày Chúa nhật như thời gian dân đã được Rửa tội kết thành thân thể hữu hình, khi đáp lại lời mời gọi mà Đức Kitô ngỏ với các môn đệ với mục đích cho họ tham dự vào việc tặng bản thân của Người cho sự sống của thế giới.

Tất cả chúng ta đã có kinh nghiệm về những buổi cử hành đầy tinh thần đón tiếp nồng ấm khiến cho ta như cảm được ơn cứu độ Thiên Chúa ban tặng, đến phục hồi sức lực cho ta giúp ta tiếp tục rong đuỗi đường dài. Đó không phải và một lý tưởng không đạt tới được đối với các cộng đoàn của ta, nhất là nếu tất cả những ý thức và những truyền thống thiêng liêng chấp nhận điều tiết những đòi hỏi sau đây mà đôi khi người ta chống báng vì sai lầm: sự tôn trọng truyền thống phụng vụ, lời kêu gọi mọi người tích cực tham dự, sự đóng góp của những diễn tả khac nhau về thẩm mỹ vả nghệ thuật.

Một thực hành Thánh Thể như thế không thể tách rời khỏi ý thức về những tác vụ được loan truyền vì sự sống và vì sự xây dựng Thân Thể Giáo Hội.

 

home Mục lục Lưu trữ