Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 69
Tổng truy cập: 1359515
CHỨNG TỪ CỦA GIOAN TẨY GIẢ
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng loan báo việc Thiên Chúa can thiệp vào trong Lịch Sử loài người.
Is 40: 1-5, 9-11
Thiên Chúa truyền cho ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hãy an ủi dân Ngài trong cảnh cùng khốn và loan báo cuộc giải thoát gần kề.
2Pr 3: 8-14
Thánh Phê-rô nhắc nhở rằng không phải Thiên Chúa lỗi hẹn, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài trì hoãn để chúng ta có đủ thời giờ lập công tích đức trong khi chờ đợi trời mới và đất mới mà Chúa đã hứa cho chúng ta.
Mc 1: 1-8
Gioan Tẩy Giả, vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để dọn đường cho Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Is 40: 1-5, 9-11)
Chúa Nhật I Mùa Vọng vừa qua, chúng ta đã đọc bản văn của ngôn sứ I-sai-a thời hậu lưu đày, được gọi là I-sai-a đệ tam, theo đó dân Do thái đã được cứu thoát khỏi cảnh lưu đày, trở về quê cha đất tổ và đang nổ lực tái thiết đất nước. Trong Chúa Nhật II Mùa Vọng nầy, Bài Đọc I được trích từ hai đoạn văn mở đầu tác phẩm của vị ngôn sứ thời lưu đày, được gọi là I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55). Bản văn này đưa chúng ta đi ngược về quá khứ: thời kỳ dân Do thái vẫn còn bị lưu đày ở Ba-by-lon vào những năm 550-539, cuộc giải thoát chưa xảy đến.
Vị ngôn sứ thời lưu đày nầy không ngừng đem đến những lời an ủi lớn lao cho đồng bào của mình. Vì thế, tác phẩm của ông được gọi “sách An Ủi”. Chúng ta không biết gì về vị ngôn sứ thời lưu đày nầy. Ông thường hằng ẩn mình sau sứ điệp của mình, như bản văn hôm nay cho thấy. Ngay từ đầu, vị ngôn sứ ẩn mình trong “lời Thiên Chúa phán”; đoạn, trong “tiếng kêu” mà không xác định; và sau cùng, trong “một sứ giả báo tin mừng”. Vị ngôn sứ nầy thường được gọi I-sai-a đệ nhị, vì ông thuộc vào những môn đệ đầu tiên của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, và tác phẩm của ông đã được tập hợp chung với tác phẩm của thầy mình.
*1.“Hãy an ủi dân Ta”:
“Hãy an ủi, an ủi dân Ta!”, đó là lệnh truyền mà Thiên Chúa gởi đến cho vị ngôn sứ của Ngài trong khi dân Do thái đang sống kiếp lưu đày vô vọng. “Dân Ta”, lời khẳng định nầy chắc chắn đã làm ấm lòng những người lưu đày, vì họ đã nghĩ rằng Thiên Chúa đã quên họ, không còn đoái hoài đến số phận bi thương của họ. Không phải thế, họ luôn luôn là “dân của Ngài”, dân Chúa chọn mà xưa kia được Thiên Chúa nâng niu chiều chuộng. Cung giọng đầy trìu mến được cất lên ở cuối bài thơ ở nơi hình ảnh người mục tử tận tình chăm sóc đàn chiên của mình, nhất là những con chiên bé bỏng.
“Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem”. Dân thành đã bị trừng phạt vì tội bất trung lâu dài của mình, đây là lần đầu tiên được Thiên Chúa loan báo là Ngài thứ tha tội vạ của dân và cho họ được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Sứ điệp tràn đầy hy vọng.
*2.Thời kỳ Thiên Chúa tha thứ:
“Thời phục dịch của thành đã mãn”. Chúng ta gặp lại hình ảnh nầy trong các đoạn văn Cựu Ước khác như G. 7: 1: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?” . Hình ảnh này được dùng ở đây để diễn tả thời kỳ gian khổ cùng cực.
“Thành đã bị tay Chúa giáng phạt gấp hai so với tội phạm”. Chúng ta có thể hiểu kiểu nói “gấp hai”, nếu chúng ta khảo sát hai thử thách lớn lao mà dân phải gánh chịu: một mặt, cuộc lưu đày ở Ba-by-lon và mặt khác, cuộc tàn phá Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng kiểu nói nầy đơn giản muốn nói đến muôn vàn khổ đau mà dân phải chịu.
Ghi nhận quan trọng nầy sẽ xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị và gợi lên nguồn cảm hứng cho các bài thơ về “Người Tôi Tớ đau khổ”. Dân Chúa chọn, người tôi tớ Thiên Chúa, đã kinh qua một sự thanh luyện. Ơn tha thứ của Thiên Chúa thật sự là nhưng không. Tuy nhiên, qua những đau khổ dài lâu mà dân phải chịu, cũng như qua việc Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài bằng việc cứu thoát dân, những người lưu đày sẽ bày tỏ cho muôn dân thấy “Thiên Chúa đã phán như thế nào, Ngài sẽ thực hiện đúng như vậy”.
Đó là ơn gọi của dân Ít-ra-en, với tư cách là người tôi tớ Đức Chúa, dân chuẩn bị những nẻo đường cứu độ cho muôn dân. Chúng ta thoáng thấy ươm mầm ý tưởng về giá trị của những đau khổ mà những người công chính, nhóm kiên trung còn sót lại, phải chịu để công chính hóa mọi người. Nhóm còn sót lại này, một ngày kia sẽ là “Người Tôi Tớ hoàn hảo”, chính là Đức Ki tô.
*3. “Hãy mở một con đường cho Chúa”:
Để trở về quê cha đất tổ, đoàn người lưu đày sẽ phải băng qua hoang địa. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng sẽ ở bên cạnh dân Ngài và đích thân dẫn dắt dân Ngài. Sứ giả hô lớn:
“Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Chúa;
giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng
cho Chúa chúng ta.
Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy,
mọi núi đồi sẽ phải bạt xuống,
núi đồi lồi lõm sẽ hóa thành đồng bằng,
chốn gồ ghề nên vùng đất phẳng phiu” (40: 3-4).
Cuộc hành trình băng qua hoang địa dưới sự che chở và hướng dẫn của Thiên Chúa, viễn cảnh nầy gợi lên rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho những tù nhân Ba-by-lon, như xưa kia Ngài đã thực hiện cho cha ông họ: giải thoát họ ra khỏi cảnh đời nô dịch ở bên Ai-cập và dẫn đưa họ về miền Đất Hứa. Cuộc Xuất Hành mới này sẽ bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Ngài vẫn trung thành với những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ thực hiện những dự định của Ngài. Dân Ít-ra-en sẽ là chứng nhân về ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa:
“Bấy giờ vinh quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện,
và mọi người phàm sẽ cùng được thấy
rằng miệng Đức Chúa đã phán truyền” (40: 5).
*4. “Loan tin mừng”:
“Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao.
Hỡi kẻ loan tin mừng cho Giê-ru-sa-lem,
hãy cất tiếng lên cho thật mạnh.
Cất tiếng lên đừng sợ, hãy bảo các thành miền Giu-đa rằng:
‘Kìa Thiên Chúa các ngươi!’” (40: 9).
Chính ở nơi bản văn nầy mà những Ki-tô hữu tiên khởi đã mượn thuật ngữ “Tin Mừng” để chỉ Mặc Khải Đức Giê-su Ki-tô mang đến. Vì thế, chúng ta ở tận nguồn của thần học về “Tin Mừng” .
Ấy vậy, “Tin Mừng” nầy phải được lớn tiếng công bố từ trên đỉnh non cao để khắp các thành xứ Giu-đa có thể nghe được là gì? Đó là Thiên Chúa đích thân đến cứu dân Ngài, giải thoát những kẻ bị giam cầm, dẫn đưa họ về quê hương đích thật của mình. Ngài không còn dung thứ những điều gian ác mà dân Ngài phải chịu.
Vị ngôn sứ tưởng tượng cuộc hồi hương về Giê-ru-sa-lem như một đám rước khải hoàn. Nhưng ông tô đậm chân dung vị lãnh đạo toàn thắng qua hình ảnh người mục tử ân cần trìu mến đối với đàn chiên của mình. Thiên Chúa tha thứ và dẫn đưa dân Ngài trở về miền Đất Hứa trước hết là vị Thiên Chúa Tình Yêu:
“Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa,
tập trung cả đoàn dưới cánh tay.
Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
bầy chiên mẹ , cũng tận tình dẫn dắt” (40: 11).
Đó là hình thức đầu tiên của Tin Mừng, tiên báo một cuộc giải thoát khác, một sự tha thứ có tính quyết định hơn và phổ quát hơn, và cũng tiên báo một đám rước khải hoàn khác: đám rước của những người được tuyển chọn về thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
BÀI ĐỌC II (2Pr 3: 8-14)
Ngay đầu thư, thánh Phê-rô tự giới thiệu mình: “Tôi là Si-mê-ôn Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô”. Bức thư chắc chắn chứa đựng những lời căn dặn sau cùng của thánh Phê-rô (thánh nhân gợi lên cái chết gần kề của mình). Tuy nhiên, xem ra đây là một di cảo, được một trong số các môn đệ của thánh Phê-rô biên soạn lại và bổ sung để đương đầu với những hoàn cảnh mới.
Quả thật, những đề tài được đề cập đến trong đoạn trích hôm nay được hiểu tốt hơn, nếu như chúng được đặt vào trong bối cảnh muộn thời hơn. Thế hệ của các Tông Đồ và của những môn đệ truyền chân đã qua. Ấy vậy, Đức Ki-tô đã hứa là Ngài sẽ trở lại, nhưng thế hệ Ki-tô hữu hậu Tông Đồ chờ mãi vẫn không thấy ngày Chúa trở lại. Vì thế, họ ngạc nhiên, phản kháng và ngờ vực. Để trả lời cho vấn nạn nầy, một cộng tác viên của thánh Phê-rô đưa ra ba luận chứng:
*1.Khái niệm thời gian:
Thời gian là của Chúa chứ không của chúng ta. Tác giả trích dẫn thích đáng ý Tv 90:
“Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi!” (Tv 90: 4).
*2.Thiên Chúa trì hoãn vì lòng xót thương:
Đức Ki-tô đến chậm vì để cho mọi người có thời gian ăn năn hối cải. Chúng ta cũng gặp lại suy tư nầy của thánh Phao-lô trong thư gởi các tín hữu Rô-ma: “Thưa anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự cho mình là khôn, đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đông đủ” (Rm 11: 25).
*3.Thiên Chúa trung tín với những lời Ngài đã hứa:
Việc Ngài trở lại là điều chắc chắn. Nhưng lúc đó là ngày cùng tận của thế giới (vậy tại sao phải hối thúc chứ?). Tác giả bức thư gợi lên ngày ấy bằng những hình ảnh quen thuộc của truyền thống khải huyền.
Đoạn ông khéo léo kết luận: bởi vì Thiên Chúa sẽ canh tân mọi sự cho những ai được Ngài tuyển chọn, thế nên, “trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải nên tinh tuyền, không gì đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa”.
TIN MỪNG (Mc 1: 1-8)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ phần mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Mác-cô. Sách Tin Mừng Mác-cô không mở đầu với Tựa Ngôn như sách Tin Mừng Gioan, cũng không cuộc đời Thơ Ấu của Đức Giê-su như sách Tin Mừng Mát-thêu và sách Tin Mừng Lu-ca, nhưng với một nhan đề: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su, Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa”.
*1.Nhan đề (1: 1):
Sách Sáng Thế, sách đầu tiên của bộ Kinh Thánh, bắt đầu với diễn ngữ: “Lúc khởi đầu”. Sách Tin Mừng của thánh Mác-cô cũng bắt đầu với “Khởi đầu” để loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su, là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa, Ngài đến để đánh dấu một khởi đầu tận căn, một khởi nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ.
Kiểu nói: “Tin Mừng Đức Giê-su”, vừa có thể hiểu “Tin Mừng của Đức Giê-su”, nghĩa là Đức Giê-su loan báo Tin Mừng, nhưng cũng có thể hiểu “Tin Mừng về Đức Giê-su”, nghĩa là Tin Mừng mà Giáo Hội loan báo là về Đức Giê-su. Với nhan đề nầy, ngay từ đầu, thánh Mác-cô loan báo sách được chia thành hai phần:
-Trong phần thứ nhất (ch. 1-10), thánh Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình cùng với thánh Phê-rô và các môn đệ đến chỗ nhận biết và tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô” (8: 29).
-Trong phần hai (ch. 11-16), thánh Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình tới lời tuyên xưng đức tin sâu sắc hơn, được thốt ra từ miệng viên sĩ quan Rô-ma ngoại giáo, dưới chân thập giá: “Quả thật, người nầy là Con Thiên Chúa” (15: 39).
Như vậy, với nhan đề nầy cho toàn bộ sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô xác định rất rõ rằng sách không kể cho chúng ta “tiểu sử cuộc đời” của Đức Giê-su, nhưng là một “Tin Mừng” về ơn cứu độ loài người được thể hiện cách độc đáo nơi bản thân Đức Giê-su quê Na-da-rét, Ngài là “Đấng Ki-tô” và là “Con Thiên Chúa” qua cái mâu thuẫn của thập giá. Chính Đức Giê-su là “Chúa” đến viếng thăm dân Ngài, không phải trong quyền uy xét xử, nhưng trong cái yếu hèn của một tình yêu trao tặng.
*2.Các sấm ngôn (1: 2-3):
Trước khi giới thiệu cách long trọng sứ mạng của Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Đức Giê-su, thánh Mác-cô trích dẫn hai sấm ngôn:
-Sấm ngôn thứ nhất: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con đến”, được đúc kết bởi hai bản văn Cựu Ước khác nhau: Xh 23: 20 và Ml 3: 1. Trong Xh 23: 20, Thiên Chúa nói với ông Mô-sê: “Nầy Ta sai sứ thần đi trước con, để gìn giữ con khi đi đường…”. Ngôn sứ Ma-la-khi lập lại lời nầy nhưng với một ý nghĩa mới: “Nầy Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (3: 1). Trong sấm ngôn của Ma-la-khi, Thiên Chúa sai “sứ giả” của Ngài đến trước dọn đường để “Ngài đích thân đến với dân Ngài”.
Vị sứ giả trong sấm ngôn nầy là ai? Chúng ta gặp thấy căn tính của vị sứ giả nầy ở Ml 3: 23: “Nầy Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và huy hoàng”. Theo 2V 2: 11, ngôn sứ Ê-li-a không chết nhưng được rước về trời trong một cỗ xe đỏ như lửa với những con ngựa kéo cũng đỏ như lửa. Vì thế, theo truyền thống Do thái mãi cho đến thời Chúa Giê-su, vị sứ giả Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa đến..
-Sấm ngôn thứ hai được trích dẫn từ Is 40: 3 (x. Bài Đọc I), theo đó vị ngôn sứ loan báo cho những những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải thoát họ khỏi kiếp sống tù đày. Thánh Mác-cô cũng đã thấy ở nơi sấm ngôn này tiên báo Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đức Giê-su, ông có sứ mạng đến trước để dọn đường cho Đức Giê-su đến. Ở nơi lệnh truyền nầy: thung lũng sẽ được lấp đầy, núi đồi sẽ phải bạt xuống…, chúng ta gặp thấy cũng lời dạy của Gioan Tẩy Giả, nhưng được tinh thần hóa: phải thay lòng đổi dạ, biến đổi sa mạc tâm hồn thành miền đất thấm đẩm thiên ân, hủy bỏ những quanh co uốn khúc của sự gian tà…
Theo phương cách trích dẫn phổ biến vào thời đó, thánh Mác-cô gán toàn bộ lời trích dẫn nầy cho ngôn sứ I-sai-a, bởi vì chúng có chung một đề tài: “dọn đường để đón tiếp Thiên Chúa”. Như vậy, khi khai mạc sứ vụ của Gioan Tẩy Giả bằng cách trích dẫn các sấm ngôn nầy, thánh Mác-cô muốn người đọc thấy rằng biến cố nhập thể của Đức Giê-su đã được Cha Ngài chuẩn bị trước đó rồi, và ơn gọi của Gioan Tẩy giả, vị Tiền Hô của Con Ngài, được dự kiến lâu lắm rồi trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chính Gioan Tẩy Giả là ngôn sứ Ê-li-a, mà truyền thống Do thái mong đợi, trở lại để dọn đường cho Chúa, và việc ông xuất hiện cho thấy Thiên Chúa vẫn trung thành với những lời Ngài đã hứa. Thời gian đã đến hồi viên mãn.
*3.Hoạt động của Gioan Tẩy Giả (1: 4-5).
Chúng ta lưu ý rằng khi trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, thánh Mác-cô đã tự ý thay đổi vài từ và ngắt câu cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của Gioan Tẩy Giả. Để giới thiệu Gioan Tẩy Giả cho rõ hơn, thánh Mác-cô thay đổi: thay vì “Có tiếng hô” thì “Có tiếng người hô”, và túc từ chỉ nơi chốn “trong sa mạc” thay vì bổ nghĩa cho câu sau, thì bổ nghĩa cho câu trước: “Có tiếng người hô trong hoang địa”. Quả thật, Gioan Tẩy giả đã ẩn cư trong hoang địa ngay từ thuở thanh xuân để chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng và chiêm niệm cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en (x. Lc 1: 80). Đây là hoang địa Giu-đa có dòng sông Gio-đan chảy băng qua và đổ vào Biển Chết. Hoang địa là nơi ẩn cư quen thuộc của những nhà thần bí vĩ đại thời Cựu Ước và là nơi ưu tiên cho những cuộc gặp gở với Thiên Chúa, như ông Mô-sê, ngôn sứ Ê-li-a, vân vân. Cũng như chính trong hoang địa mà dân Ít-ra-en đã trải qua những kinh nghiệm tôn giáo hình thành nên những mốc điểm lịch sử của dân tộc mình.
Lời kêu gọi sám hối là đề tài thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Gioan Tẩy Giả là vị ngôn sứ cuối cùng tiếp tục truyền thống nầy, nhưng ông thêm vào đây phép rửa. Không phải trong hoang địa mà nước mặc lấy tất cả giá trị và ý nghĩa tròn đầy của nó sao? Nước đem lại sự sống và biểu tượng ơn cứu độ.
*4.Cách sống của Gioan Tẩy Giả (1: 6):
Gioan Tẩy Giả sống theo lối sống khổ hạnh: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt đai lưng bằng da, ăn châu chấu và mật ong rừng”. Qua việc mô tả cách ăn mặc của Gioan giống như ngôn sứ Ê-li-a (1V 1: 8), thánh Mác-cô muốn thông báo rằng Gioan Tẩy Giả chính là ngôn sứ Ê-li-a tái xuất hiện mà mọi người đang mong đợi. Ngoài ra, qua việc mô tả tỉ mỉ cách sống khổ hạnh của Gioan Tẩy Giả trong hoang địa cô tịch, thánh Mác-cô ngầm trình bày hình ảnh tương phản với Đức Giê-su: Ngài giao tiếp với mọi người, gần gũi với đủ hạng người ở ngoài xã hội, cùng ăn cùng uống, cùng chia sẻ cuộc sống vui, buồn, sướng khổ với họ. Chính ở nơi tính chất rất là người nầy, thánh Mác-cô có ý định dẫn đưa người đọc vào mầu nhiệm của Đức Giê-su, Đấng Ki-tô và Con Thiên Chúa. Còn Gioan Tẩy Giả, thánh nhân không chỉ rao giảng sám hối, nhưng còn hiện thân của sự sám hối qua cuộc sống khổ hạnh của mình.
*5.Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8).
Chứng từ của Gioan Tẩy giả về Đức Giê-su là điểm nhắm của đoạn Tin Mừng hôm nay. Sứ điệp của ông làm xáo động lòng người. Uy tín của ông quá lớn đến độ dân chúng khắp nơi tuôn đến với ông. Tuy nhiên, ông ý thức sâu xa về sự cao vời khôn ví của Đức Giê-su. Ông công bố quyền năng vượt bậc của Đấng mà ông có sứ mạng chuẩn bị cho việc Ngài đến khi sử dụng hình ảnh rất tương phản để diễn tả sự bất xứng của mình như người nô lệ trước mặt chủ, cả đến việc cúi xuống cởi dép cho Ngài ông cũng chẳng xứng đáng nữa: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cỏi dép cho Người”. Hình ảnh này rất sinh động, vì để chịu phép rửa của Gioan trong dòng sông Gio-đan, người ta phải cởi giày dép trên bờ.
Nhất là ông nhận biết sự khác biệt căn bản giữa phép rửa của ông và phép rửa của Đức Giê-su: ông chỉ “làm phép rửa trong nước”; Đức Giê-su mới là Đấng “làm phép rửa trong Thánh Thần”. Điều làm cho Đức Giê-su trổi vượt hẳn vị Tiền Hô của Ngài, đó là Ngài là Đấng sở hữu Thánh Thần (x. 1: 10).
Danh tiếng của Gioan Tẩy giả vào thời đó không thể nào chối cải. Sách Công Vụ nói với chúng ta rằng ngay cả sau khi ông đã qua đời rất lâu sau đó, các cộng đoàn môn đệ của ông vẫn tồn tại (Cv 18: 24-25; 19: 1-7). Họ đề cao ông là “Đấng Mê-si-a” (Ga 1: 19-34). Như thế ngay từ trang đầu tiên Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô đã đặt Gioan Tẩy Giả vào đúng vị thế của ông: sứ mạng của ông chỉ là loan báo và chuẩn bị cho Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su mới là Tin Mừng mà Gioan có sứ mạng loan báo cho hết mọi người.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
TÍCH CỰC CHUẨN BỊ ĐÓN CHÚA- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Is 40,1-5.9-11) : Ngôn sứ Isaia kêu gọi “Hãy mở một con đường cho Chúa”
– Đáp ca (Tv 84) : “Công lý mở đường đi trước Chúa, Cứu độ cùng theo vết chân Người”
– Tin Mừng (Mc 1,1-8) : “Có tiếng người hô trong hoang địa : Hãy dọn sẵn con đường cho Chúa”
– Bài đọc II (2 Pr 3,9-14) : “Anh em mong đợi ngày của Thiên Chúa và làm cho ngày đó mau đến”
- DẪN VÀO THÁNH LỄ
Mùa vọng là thời gian chúng ta chờ đợi Chúa đến viếng thăm tâm hồn mình. Nhưng chờ đợi không phải là thụ động không làm gì, trái lại phải tích cực chuẩn bị cho cuộc viếng thăm đó. Hôm nay, Giáo Hội dùng lại lời của Thánh Gioan Tẩy giả để kêu gọi chúng ta “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Chúng ta hãy đáp ứng lời kêu gọi này.
- GỢI Ý SÁM HỐI
– Tâm hồn chúng ta từ bấy lâu nay như một ngôi nhà không quét dọn, đầy dẫy rác rến, bụi bậm, không xứng đáng được Chúa đến thăm.
– Cuộc đời chúng ta như một con đường chỗ lồi chỗ lõm chỗ quanh co khiến Chúa khó đến với chúng ta.
– Bấy lâu nay chúng ta chỉ lo đến bản thân mình, không nghĩ đến việc mời Chúa đến thăm.
III. LỜI CHÚA
- Bài đọc 1: Is 40,1-5.9-11
Đoạn này nằm trong phần thứ hai sách Isaia (các chương 40-45), được soạn bởi một đệ tử của ngôn sứ Isaia mà người ta gọi là Đệ nhị Isaia. Phần này được soạn vào cuối thời lưu đày. Do nội dung, nó cũng được đặt tên là Sách An Ủi.
Trong đoạn này, có 3 ý tưởng đáng lưu ý :
a/ “Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá”. Ngày xưa, vì dân do thái phạm tội nên Thiên Chúa đã cho họ bị lưu đày. Nhưng nay đã tới lúc Thiên Chúa ân xá tội lỗi cho họ và chấm dứt thời nô lệ của họ. Vì thế, tác giả bảo “Hãy an tâm, hãy an tâm”.
b/ Tác giả còn kêu gọi “Hãy dọn đường. Hãy sửa đường Chúa chúng ta trong hoang địa”. Sau khi kết thúc thời lưu đày, dân sẽ trở về quê hương theo một hành trình qua sa mạc, giống như một cuộc xuất hành mới qua sa mạc để về Đất Hứa. Bởi thế, cũng như ngày xưa trong cuộc xuất hành thứ nhất, Thiên Chúa đã đi trước dẫn đường, thì trong cuộc xuất hành này, Thiên Chúa cũng sẽ dẫn đường cho họ. Vì thế mà phải dọn đường, phải sửa đường. Hành trình qua sa mạc không phải chỉ là thời gian thử thách, mà còn là thời gian thanh luyện.
c/ Tác giả mô tả Thiên Chúa như một mục tử. Thiên Chúa chẳng những là Đấng giải thoát, Đấng dẫn đường, mà còn là Đấng yêu thương : “Ngài ẵm chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng trong lòng và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ”.
- Đáp ca: Tv 84
Tv 84 là một ca khúc hân hoan hát lên niềm vui thoát cảnh lưu đày và trở về quê hương đất hứa. Tác giả nghĩ tới thời kỳ mà “Lòng từ bi và chân lý sẽ gặp nhau, công lý và hòa bình sẽ hôn nhau”.
Phụng vụ Giáo Hội lặp lại những lời ca đầy tràn hy vọng ấy và cầu xin cho thời ấy mau đến : “Lạy Chúa, xin tỏ lòng từ bi Chúa cho chúng tôi và ban ơn cứu rỗi cho chúng tôi”.
- Tin Mừng: Mc 1,1-8
Tất cả những niềm hy vọng ấy của Cựu Ước được thực hiện nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Đấng Messia. Ngài sắp đến. Bởi thế, Thiên Chúa đã sai Gioan Tẩy giả làm tiên hô dọn đường cho Ngài, thực hiện lời kêu gọi của Isaia ngày xưa.
Việc Đức Giêsu là Đấng Messia và Ngài sắp đến là một tin rất quan trọng sẽ mang lại niềm vui cho dân do thái, bởi vì họ đã chờ đợi điều này từ rất lâu. Bởi thế, ngay từ câu đầu tiên của đoạn này và cũng là của cả quyển sách, thánh Mác cô đã dùng từ “Tin Mừng” : “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”.
Đấng Messia là một nhân vật quan trọng mà Cựu Ước chờ đợi bấy lâu nay. Vì thế phải có một sứ giả đi trước để dọn đường cho Ngài. Isaia chỉ nói tới việc dọn đường và người dọn đường. Đoạn Tin Mừng này cho biết rõ thêm : người dọn đường là Gioan Tẩy giả, và ngài kêu gọi dọn đường một cách cụ thể bằng việc sám hối và lãnh nhận phép thanh tẩy.
- Bài đọc II: 2 Pr 3,9-14
Lá thư được gọi là thư thứ hai Phêrô thực ra không phải do Thánh Phêrô viết, mà do một người mượn danh ngài viết ra, vào khoảng cuối thế kỷ I.
Hoàn cảnh và lý do : Vào cuối thế kỷ I, các kitô hữu không mấy tin vào việc Chúa lại đến, từ đó họ cũng chẳng thiết tha gì đến việc dọn đường cho Ngài.
– Do thời gian chờ đợi hơi lâu nên nhiều người nản lòng. Nhưng tác giả giải thích rằng sở dĩ Chúa chậm đến là vì Ngài nhẫn nại, ban thêm thời gian cho những người tội lỗi có dịp sám hối.
– Tác giả khẳng định lại rằng chắc chắn Chúa sẽ lại đến. Và khi đó sẽ là “trời mới đất mới”.
– “Vì vậy, anh em càng phải sống thánh thiện và đạo đức biết bao khi mong chờ ngày Chúa đến”.
- GỢI Ý GIẢNG
* 1. Tấm gương của Gioan Tiền hô
Thời Cựu Ước, ngôn sứ Đệ nhị Isaia đã kêu gọi “Hãy don đường Chúa, hãy sửa đường Chúa chúng ta trong sa mạc”. Thánh Gioan Tiền hô là người thực hiện lời kêu gọi này. Ngài cũng là người làm gương cho chúng ta noi theo để thực hiện lời kêu gọi này.
a/ Gioan đã đi vào sa mạc : Trong lịch sử cứu độ, sa mạc luôn là khung cảnh thuận tiện cho ân sủng hoạt động. Ở đó, Thiên Chúa đã giáo dục dân Ngài qua 40 năm của cuộc xuất hành ; ở đó, Thiên Chúa đã thanh luyện dân Ngài trước khi cho họ trở lại quê hương sau khi thoát khỏi cảnh lưu đày…
Chính vì thế, Giáo Hội muốn chúng ta sống 4 tuần lễ Mùa Vọng này như sống trong sa mạc : bình tâm hơn, ăn uống đạm bạc hơn, cầu nguyện nhiều hơn và suy nghĩ nhiều hơn để biết rõ ý Chúa…
b/ Gioan đã đi trước Chúa để dọn đường cho Ngài : Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Gioan đã giúp người ta sám hối, thú tội và lãnh nhận phép thanh tẩy. Rồi khi Đức Giêsu xuất hiện, chính Gioan giới thiệu Ngài cho dân chúng biết.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn còn cần những người tiền hô, những kẻ dọn đường ; Tin Mừng của Ngài vẫn còn cần những người nhiệt tình mang đến giới thiệu cho người khác.
* 2. “Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng“
Bài Tin Mừng được chọn đọc trong Chúa nhật II mùa vọng này đề cập đến con đường. Thánh Gioan Tiền hô bảo “Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng”.
– Con đường là một phương tiện giao thông liên lạc, nối kết hai người ở hai nơi xa cách nhau để hai người, hai nơi đó có thể đến được với nhau. Nếu không có con đường thì không đến được với nhau, hoặc nếu có con đường nhưng đường đó đã hư hỏng thì cũng không đến với nhau được.
– Dĩ nhiên khi nói đến con đường nối kết thì không phải chỉ là con đường vật chất bằng đất, nhựa hay xi măng, không phải chỉ là con đường trên mặt đất, trên sông biển, trên vòm trời… Mà còn là những con đường tinh thần, những con đường trong lòng người. Con đường tinh thần, con đường trong lòng mới là quan trọng. Ông Nguyễn Bá Học có nói “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông”. Con đường tình yêu cũng thế “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua”.
– Bây giờ ta hãy trở lại với Lời rao giảng của thánh Gioan tiền hô. “Hãy dọn đường Chúa cho ngay thẳng”. Lễ Giáng sinh là dịp Chúa muốn đến với mỗi người chúng ta. Mùa vọng là mùa mỗi người chúng ta chuẩn bị để có thể đến gặp Chúa. Như vậy là cần phải có một con đường. Chúa là Chúa, ta là người phàm, tự nhiên là xa cách nhau, cần phải có một con đường để Chúa có thể qua đó mà đến với ta và ta qua đó mà đến với Chúa. Lời của Gioan Tiền Hô đặt cho ta hai câu hỏi : 1/ Đã có con đường ấy chưa ? 2/ Con đường đó có thể đi lại được hay không ?
1/ Giữa Chúa và mỗi người chúng ta, đã có một con đường liên lạc nào hay chưa ?
Chắc chắn rằng đối với một số người thì chẳng có một con đường nào nối kết họ với Chúa cả. Đó là những người chỉ biết có làm ăn sinh sống, vui chơi, thỏa mãn mọi nhu cầu thế tục. Họ có nhiều con đường lắm, đường dẫn tới chỗ làm ăn, đường dẫn đến chỗ vui chơi, đường dẫn tới những chỗ hẹn hò yêu đương. Nhưng không có con đường nào dẫn họ đến với Chúa cả. Còn đối với chúng ta, chắc là nhiều người nghĩ rằng mình đã có sẵn con đường nối kết với Chúa rồi, đó là con đường đưa ta từ nhà mình đến nhà thờ này. Đến nhà thờ là đến với Chúa rồi chứ gì nữa, phải không ? Chưa chắc ! Đành rằng đã có con đường dẫn đến nhà thờ, nhưng con đường đó có khi trời mưa ta không đi, có khi vì bận rộn hay vì một thứ gì đó ta ham thích hơn nên ta cũng chẳng thèm đi, và có khi dù ta có đến nhà thờ ta vẫn không gặp được Chúa !
– Như vậy con đường phải có để Chúa và ta có thể gặp nhau là con đường gì ?
Thưa là con đường cầu nguyện : đến nhà thờ mà có cầu nguyện thật sự thì mới gặp được Chúa. Khi chưa phải là Chúa nhật hay khi trở ngại không đến nhà thờ được, nhưng nếu ta có cầu nguyện riêng, cầu nguyện ở nhà, cầu nguyện trong mọi biến cố cuộc sống, thì ta vẫn gặp được Chúa. Vì thế trong những tuần Mùa vọng này, ta hãy cầu nguyện nhiều hơn, cầu nguyện sốt sắng hơn. Cầu nguyện ở nhà thờ, cầu nguyện ở nhà riêng, cầu nguyện trước những biến cố của cuộc sống. Khi đã gặp được Chúa trong cầu nguyện, Chúa sẽ chỉ dẫn tiếp cho ta biết phải làm gì để cuộc sống mình ngày càng tốt hơn.
– Khi mình cầu nguyện sốt sắng thì Chúa sẽ chỉ dẫn mình. Nói như vậy nghĩa là còn một con đường thứ hai nữa : đó là thực hiện thánh ý Chúa. Thánh ý Chúa rất nhiệm mầu, nhiều khi mình không hiểu và không muốn tuân theo. Nhưng luôn luôn thánh ý Chúa là con đường tốt nhất cho mỗi người chúng ta. Chỉ bằng cách đi theo con đường thánh ý Chúa, thì chúng ta mới bình an, hạnh phúc thật. Cưỡng lại thánh ý Chúa, đời mình luôn áy náy, khổ sở.
Chúng ta còn nhớ chuyện ông Giona không ? Ý Chúa muốn ông đi đến thành Ninivê để vạch tội của dân thành ấy và bảo họ phải ăn năn sám hối. Ông thì coi việc đó là khó khăn, không thích. Nên ông cũng xuống tàu, nhưng xuống tàu để đến một thành khác, Tarsis. Trời nổi cơn giông, biển động. Các thủy thủ đã làm đủ cách, các hành khách đã khẩn cầu với đủ thứ thần linh, thế mà nguy hiểm chìm tàu vẫn không chấm dứt. Lúc đó Giona hi? về lòng nhân hậu của Thiên Chúa đã tuôn đổ phúc lộc xuống trên cuộc đời anh. Anh mạnh mẽ xác quyết : “Các bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời, lãnh cả triệu đôla mỗi năm, nhưng khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của các bạn lại, thì các bạn cũng như tôi. Mọi người đều như nhau. Tôi không cần những gì các bạn đang có, nhưng tôi chắc chắn rằng các bạn cần một điều mà tôi luôn có, đó là Đức Giêsu Kitô”.
*
Suốt chiều dài lịch sử Cựu Ước, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho con người đón tiếp Đức Kitô. Và khi đến thời gian đã định, Thiên Chúa dùng Gioan Tiền Hô, một tiên tri vĩ đại gạch nối giữa Cựu và Tân ước để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế : “Có tiếng kêu trong hoang địa : Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”(Mc.1,3).
Gioan không làm cách mạng, ngài không bắt người ta phải thay đổi cuộc sống, thay đổi địa vị xã hội, cho dù là thu thuế hay binh lính, hai hạng người mà thời bấy giờ bị coi khinh và xem thường. Nhưng Gioan chỉ nhắc nhở, thúc giục mọi người hãy cải thiện đời sống, đổi mới tâm hồn để sẵn sàng chờ đón Chúa đến.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể làm gì khác Gioan, sống khó nghèo và đơn sơ trong cách ăn mặc và lối sống.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể sống buông thả, theo tính khoe khoang và tự mãn.
Để gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta không thể không học nơi Gioan lòng khiêm nhường, luôn qui hướng mọi vinh quang về cho Chúa.
Chính nhờ có Đức Kitô mà Cordell Brown trong câu chuyện trên đây cảm thấy hạnh phúc tràn đầy. Hạnh phúc ấy chỉ có được bằng giá của sự từ bỏ liên tục. Ludovic Giraud đã viết : “Sống không phải chấp nhận tất cả, mà là chọn lựa, là cắt bỏ, là hy sinh. Nhựa cây chỉ dẫn đến cành khi được cắt tỉa và nó chỉ sống được khi ngành cây tầm gởi không bóp nghẹt nó”.
Mùa Vọng là thời gian của hy vọng. Con thuyền hy vọng của người tín hữu Kitô luôn chất đầy tin tưởng và phó thác :
– Tin tưởng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, nên chúng ta cũng đừng thất vọng về chính mình.
– Phó thác cho Thiên Chúa Tình yêu, nên dù tội lỗi có ngập tràn, khổ đau có chồng chất, chúng ta vẫn một niềm cậy trông.
Tin tưởng và phó thác là đôi mắt của người tín hữu nhìn thẳng vào Chúa mà hy sinh và từ bỏ.
*
Lạy Chúa, xin giúp chúng con chuẩn bị đón Chúa với thái độ của người lữ hành trong sa mạc : dẹp đi những cồng kềnh vướng bận. Xin cho chúng con biết khổ chế nơi thân xác và chay tịnh trong cõi lòng, cho tâm hồn chúng con được thanh thoát, đón mừng Chúa đến ban nguồn vui Ơn Cứu độ. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 5. Đừng tưởng
Những người thuộc phái Pharisêu và Sađóc là những thành phần đạo đức và sốt sắng nhất thời đó. Bởi thế họ nghĩ rằng cho dù ai đó có bị mất phần rỗi thì họ vẫn chắc chắn sẽ được cứu rỗi thôi. Nhưng Gioan bảo họ : “Đừng tưởng thế… Hãy sinh hoa kết quả”
Chúng ta tuy không đạo đức sốt sắng như những người pharisêu và sađóc, nhưng chúng ta không bỏ lễ Chúa nhựt nào, không bỏ kinh hôm kinh mai ngày nào, không phạm tội trọng nào cả. Thế thì chúng ta cũng có thể được hưởng ơn cứu độ chứ. Gioan cũng nhắc chúng ta “Đừng tưởng thế”. Một cái cây sum xuê lá cành mà không sinh hoa kết quả thì cũng vô ích và phải bị chặt đi thôi !
- Hãy an tâm, hãy an tâm!
Trong số biết bao lời trong Thánh Kinh, chắc hẳn đây là một trong những lời dễ nghe chịu nhất : “Hãy an tâm, hãy an tâm ! Thời nô lệ đã chấm dứt, tội lỗi đã được ân xá, Chúa đã ban ơn nhiều gấp hai lần tội lỗi”.
Thực ra, lời ngọt ngào này Thiên Chúa không chỉ nói một lần duy nhất qua miệng ngôn sứ Đệ nhị Isaia. Ngài đã nói thế không biết là bao nhiêu lần bằng những lời lẽ khác. Hãy đọc lại những chương đầu của sách Sáng thế, ta sẽ thấy rằng sau mỗi lần con người phạm tội và bị phạt thì Thiên Chúa đều tỏ một cử chỉ yêu thương : mặc áo cho hai nguyên tổ đang xấu hỗ vì trần truồng, ghi dấu trên trán Cain để bảo vệ anh, tự tay đóng cửa chiếc tàu Noê trước khi cơn hồng thuỷ ập xuống… Hãy nhìn lại dòng lịch sử cứu độ, ta lại thấy lịch sử cứu độ là một lịch sử tha thứ : con người phạm tội không biết là bao nhiêu lần, và Thiên Chúa vẫn rộng lượng tha thứ không biết là bao nhiêu lần.
Đức Giêsu đến trần gian cũng chỉ để nói lên lời ngọt ngào đó. Hãy đọc lại Tân Ước và đếm xem bao nhiêu lần Đức Giêsu bảo người ta “Đừng sợ”, bao nhiều lần Ngài âu yếm nói “Tội con đã được tha”. Khi muốn mượn một hình ảnh để giúp người ta hiểu về mình, Đức Giêsu đã ví mình như một mục tử lặn lội đi tìm con chiên lạc và khi tìm được rồi thì trìu mến ẵm chiên trong lòng…
Bởi thế, thông tin về việc Ngài đến chính là một Tin Mừng.
Chúng ta hãy làm theo lời kêu gọi của Isaia trong bài đọc I hôm nay : “Hỡi những kẻ đưa Tin Mừng, hãy trèo lên núi cao, hãy mạnh dạn cất tiếng, hãy nói cho các dân rằng : Đây Chúa là Thiên Chúa sẽ đến !”.
- Tiếng kêu trong hoang địa
Tiếng của Gioan Tẩy giả là một tiếng kêu trong hoang địa, nhiều người không nghe thấy.
Ngày nay cũng có nhiều tiếng kêu trong hoang địa :
– Hiện giờ ở đâu đó một đứa trẻ đang kêu. Em cần tình thương, hay đơn giản hơn chỉ là một miếng bánh.
– Hiện giờ ở đâu đó một người trẻ đang kêu. Anh cần một đôi tai lắng nghe, hoặc một con tim thông cảm.
– Hiện giờ ở đâu đó một người già đang kêu. Ông cần ai đó đến thăm, hoặc con cái nói một lời.
Hàng ngàn hàng vạn tiếng kêu đang vang lên nhưng không ai nghe thấy trong thế giới bất công này.
Lạy Chúa, xin giúp con lắng nghe những tiếng kêu trong hoang địa.
Nhất là xin giúp con nghe được tiếng Chúa, đang thì thầm trong hoang địa của lòng chúng con. (Viết theo Flor McCarthy)
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam