Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 44

Tổng truy cập: 1363991

CÓ CHĂNG SỰ SỐNG BÊN KIA CÁI CHẾT

CÓ CHĂNG SỰ SỐNG BÊN KIA CÁI CHẾT

 

Vì biết cuộc sống này chóng qua, nên nhà thơ Xuân Diệu đã nhắc nhở mình phải “vội vàng” kẻo không còn kịp nữa:

“Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm, Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn: Ta muốn riết mây đưa và gió lượn, Ta muốn say cánh bướm với tình yêu, Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều. Và non nước, và cây, và cỏ rạng, Cho chếnh choáng mùi thơm,cho đã đầy ánh sáng, Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Tuy nhiên cũng có người thấy chán ngán cuộc đời, muốn bỏ cuộc đời này đi:

“Ta muốn bđi bỏ cuộc đời

Quay lưng nhìn lại chẳng mỉm cười

Còn gì thương nhớ còn lưu luyến

Cứ thế mà đi bỏ cuộc chơi

Thế sự quay cuồng chẳng còn chi

Có chăng mộng mị cõi hồn si

Tâm tư trống rỗng ôi chán ngán

Cười, khóc, buồn, vui...để làm gì?

Ta đã bđi bỏ cuộc chơi

Bđi phiền muộn bỏ sầu rơi

Mình ta lê bước mình ta bước

Mỉm cười nhàn nhạt hỡi ta ơi...!

(Thơ chán đời, Vô danh)

Từ hai khuynh hướng đó cho chúng ta thấy cuộc đời này sẽ qua đi. Có người cố bám víu, có người muốn thoát khỏi… nhưng chung quy vẫn là sự tạm bợ của cuộc sống trần gian; dù có níu kéo hoặc chối từ thì nó cũng sẽ qua đi.

Nhưng sau cuộc sống đời này là gì? Có người cho rằng: không là gì cả. Vì vậy bao lâu còn sống phải lo hưởng thụ kẻo không kịp như nhà thơ Cao Bá Quát: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy những nực cười. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời, tiêu khiển một vài chung lếu láo”.

Còn đức tin dạy cho chúng ta như thế nào về sự sống đời sau? Phụng vụ lời Chúa hôm nay là một câu trả lời rõ ràng nhất.

I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

1. Bài Đọc I: (2 Mcb 7, 1-2. 9-14)

Đoạn sách Macabê kể về câu chuyện bắt đạo thời vua Antiôkhô. Một người mẹ và bảy người con thà chịu chết chứ không chối bỏ niềm tin của mình. Đoạn này kể về cái chết anh dũng của bốn người con đầu. Nhà vua muốn dùng những cực hình khủng khiếp nhằm làm cho họ sợ mà bỏ Chúa, đồng thời cảnh cáo cho những người sau. Ví dụ người con thứ ba: “Vừa được yêu cầu, anh ta thè lưỡi, can đảm đưa tay ra và khẳng khái nói: “Tôi có được lưỡi này, tay này là do Chúa Trời ban. Nhưng vì luật Chúa Trời, tôi coi khinh những thứ đó” (2Mcb, 7, 11). Tuy nhiên dù hình phạt, dù giết chết vẫn không làm họ sợ. Họ vẫn mạnh dạn tuyên xưng niềm tin của mình. Đâu là lý do để họ mạnh mẽ như vậy? Thưa vì: “Thà chết vì tay người đời đang khi dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại”(2Mcb, 7, 14). Nghĩa là họ tin tưởng vào hạnh phúc đời sau mà Thiên Chúa hứa ban cho họ, nên họ không sợ điều gì hết, kể cả cực hình và cái chết.

2. Tin Mừng: Lc 20, 27-38

Luca kể câu chuyện những người Sađốc không tin có sự sống đời sau, nên đến hỏi Chúa Giêsu về một điều luật của Môsê. Luật này thực ra đã bị bãi bỏ vào TK I, đó là luật nối dõi tông đường. Luật này cho phép người ta cưới chị dâu khi anh mình chết mà không có con, với mục đích để anh mình có người nối dõi. Vấn đề mà những người Sađốc đặt ra để bắt bẻ và cười nhạo Chúa Giêsu là có bảy anh em trai cùng cưới một người đàn bà, vì hễ người nào cưới xong cũng chết. Vậy thì nếu có sự sống đời sau, thì người đàn bà đó là vợ của ai? Quả thật một vấn đề hóc búa!

Qua câu hỏi này thể hiện được cái nhìn của một nhóm người, rằng không có sự sống đời sau. Và giả dụ có thì sự sống đời sau cũng tiếp nối sự sống đời này. Cũng cần sinh sản để lưu truyền nòi giống. Cũng có cưới vợ lấy chồng và mọi sinh hoạt giống như ở trần thế. Một câu hỏi khó đối với con người, nhưng với Đấng “là sự sống và là sự sống lại” thì không có gì là khó khăn.

Trước hết Chúa Giêsu khẳng định có sự sống lại, vì “Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Apraham, Isaac và Giacop” (Lc 20, 37). Thiên Chúa đã ký kết giao ước với những tổ phụ đến muôn đời, chẳng lẽ lại chấm dứt vào lúc họ chết sao? Vì vậy cái chết chỉ là chấm dứt một giai đoạn thôi, chắc chắn sẽ có sự sống đời sau, sự sống mới. Vì chúng ta tin: “Chúa vẫn trung thành mãi, dù thời gian bao năm biến thay, dù lòng ta nghi nan hững hờ, thì muôn ngàn đời, Chúa vẫn trọn tình thương”.

Điều thứ hai mà Chúa Giêsu tiết lộ là đời sau không như đời này: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không cưới vợ và cũng chẳng lấ chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại” (Lc 20, 34-36). Chính vì đời sau bất tận, chúng ta sẽ sống muôn đời nên không cần đến việc lưu truyền nòi giống nữa. Mà không cần lưu truyền nòi giống nên chẳng cần phải cưới vợ, lấy chồng nữa. Quá hợp lý!

Có người sẽ đặt vấn đề về hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Nếu không cưới vợ lấy chồng nữa thì làm sao hạnh phúc? Thưa khi đối diện với Thiên Chúa thì không còn hạnh phúc nào có thể sánh bì. Bài giảng trên núi của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rằng, chỉ Nước Trời, chỉ Đất Hứa, chỉ Thiên Chúa mới đem lại hạnh phúc đích thật, còn tất cả niềm vui, hạnh phúc từ tiền bạc, của cải, danh vọng, dục vọng chỉ có ngần có hạn và không phải là vĩnh cửu. Hay như lời Thánh vịnh đã nói: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi an bình”, và “ngoài Chúa ra, đâu là hạnh phúc, đâu là an vui”.

Qua phụng vụ lời Chúa hôm nay, qua tuyên tín của Giáo hội, chúng ta tuyên xưng lại: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”. Có sự sống đời sau, và hạnh phúc đích thật của sự sống đời sau là được ở bên Chúa.

II. SỐNG NIỀM TIN VỀ SỰ SỐNG LẠI

Chúng ta xác tin điều đó, thì chúng ta phải sống làm sao để khi chấm dứt cuộc sống này, mình được bước vào sự sống đời sau với niềm hạnh phúc bên Chúa. Muốn được hạnh phúc bên Chúa ở sự sống đời sau thì ngay từ bây giờ chúng ta phải sống gắn bó với Chúa và gắn bó với con người, vì “ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay”.

1. Gắn bó với Chúa

Dân Do Thái trước khi vào vùng Đất Hứa phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm. Đó là thời gian để dân Do Thái biết rõ về tương quan của họ với Thiên Chúa, Đấng đã chọn và yêu thương họ, để coi họ có thực sự tin tưởng Người hay không. Chính trong sa mạc dân Do Thái đã gắn bó mật thiết với Thiên Chúa hơn. Thánh Phaolô nói: "Hành trình trong sa mạc của dân Israel cũng là một biểu trưng cho hành trình của chúng ta đến với Thiên Chúa".

Vậy thì trong hành trình đức tin nơi trần thế, giống như dân Do Thái lang thang trong sa mạc, chúng ta cũng phải gắn bó với Thiên Chúa. Nghĩa là nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời ta và quy hướng mọi sự về Ngài. Những khi dân Do Thái chạy theo một thần minh nào khác là rõ ràng họ không gắn bó với Thiên Chúa của mình. Những khi dân Do Thái nổi lên đòi làm theo ý riêng mình là rõ ràng họ không gắn bó với Thiên Chúa. Và cụ thể nhất khi sụp lạy trước con bò vàng là họ đang chối từ Thiên Chúa. Khi đòi quay trở lại Ai Cập là họ đang bắt Thiên Chúa làm theo ý mình…

Sự gắn bó với Chúa trong đời sống của Kitô hữu được thể hiện qua việc họ có nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời họ không? và có sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa không?

a. Nếu nhìn nhận Ngài là chủ tể cuộc đời, thì mọi ưu tiên trong cuộc sống họ phải dành cho Ngài. Những giờ phút cầu nguyện, những thánh lễ, nhất là ngày Chúa Nhật, việc học hỏi Giáo lý và suy niệm lời Chúa, những việc đạo đức như lần chuỗi, cầu lễ… phải luôn chiếm ưu tiên trong cuộc đời họ. Nếu nhìn nhận Ngài là chủ tể thì phải sẵn sàng từ bỏ những thú vui, những lôi kéo khác như bài bạc, rượu chè, sắc dục…

Thánh Augustinô là tấm gương rõ ràng nhất về việc dành mọi ưu tiên cho Chúa. Tuy với quá khứ đầy dẫy những đam mê, những tội lỗi, nhưng từ khi biết Chúa, yêu Chúa thì Ngài đã sẵn sàng từ bỏ tất cả và đã thốt lên: “Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng”.

Vì vậy giả dụ có những ai còn những đam mê khiến họ không thể dành ưu tiên cho Chúa được, thì hãy nhớ rằng không phải là không được, mà vì chúng ta chưa yêu Chúa đủ.

b. Nếu sẵn sàng làm theo thánh ý Thiên Chúa thì phải “vác thập giá mình hằng ngày mà theo”. Có những đau khổ, những buồn phiền, những bệnh tật, những trái ý xảy ra, chúng ta cứ van xin hoài mà không thấy theo ý mình. Hãy biết rằng, chúng ta chỉ thấy những cái trước mắt, còn Chúa thấy cả cuộc đời chúng ta. Nếu trong những hoàn cảnh như vậy mà chúng ta chán nản, thất vọng, thậm chí bỏ Chúa luôn thì rõ ràng chúng ta không chấp nhận vác thập giá theo Chúa. Mà nếu không có thập giá thì sẽ không có Phục Sinh.

2. Gắn bó với con người

Nếu gắn bó với Thiên Chúa là yêu mến Ngài “hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn”, thì gắn bó với con người là “Yêu người như mình ta vậy”.

Yêu người như chính bản thân ta là muốn họ cũng được như ta, cũng hạnh phúc ở đời này và đời sau. Vì vậy vừa phải quan tâm đến họ trong cuộc sống này, nhưng nhất là phải quan tâm đến phần hồn phần rỗi của họ.

a. Quan tâm đến người khác trong cuộc sống này là tình người dành cho nhau. Thánh Phaolô đã nói: “Vui với người, khóc với người khóc”. Nghĩa là cùng chia sẻ với nhau mọi hoàn cảnh. Nhưng phải coi chừng đó là sự chia sẻ hay sự tò mò để thỏa mãn tính hiếu kỳ của chúng ta.

Trong thời gian qua, cả xã hội sôi sục với việc đi tìm thi thể chị Lê Thị Thanh Huyền, nạn nhân vụ phi tang xác của thẩm mỹ viện Cát Tường. Thi thể của chị Huyền thì vẫn chưa thấy đâu, tuy nhiên đã có 6 cái xác khác bị nghi là của chị. Cùng trên sông Hồng, cùng trong một địa bàn tìm kiếm, cùng là những người không may mắn, nhưng sự đối xử của xã hội với họ lại không như nhau. Có những người xung quanh vô cảm với những cái xác đó bởi vì không phải là điều mà họ đang mong đợi. Có vẻ mọi người cũng không chú ý đến những nhân vật phụ này lắm. Biết đâu trong số các thi thể trôi sông kia, ai đó cũng là nạn nhân của một vụ án dã man như chị Huyền? Nhiều người trong chúng ta đang quên đi nỗi đau của người khác mà chỉ chăm chăm đến mục đích của mình. Chúng ta đang lo lắng cho con người, lo lắng đến các giá trị của xã hội hay chúng ta chỉ đang thỏa mãn sự tò mò những câu chuyện giật gân thôi? Hãy quan tâm đến người khác, chứ đừng tìm thỏa mãn tính tò mò của bản thân mình.

b. Nhất là chúng ta phải quan tâm đến phần hồn, phần rỗi của người khác. Khi còn sống, phải nhắc nhở nhau để sống đạo tốt. Khi đã qua đời, hãy tha thứ những gì có thể tha thứ để anh chị em chúng ta giảm bớt thời gian thanh luyện.

Nói tóm lại, phụng vụ Lời Chúa hôm nay thật thích hợp khi chúng ta đang sống trong tháng 11, tháng cầu nguyện cho các Linh hồn. Chúng ta tin rằng có sự sống đời sau, để ngay từ bây giờ chúng ta lo gắn bó với Chúa và gắn bó với con người để có thể được hạnh phúc viên mãn ở sự sống đời sau, trong Nước Chúa.

 

22.Sự sống đời sau sẽ như thế nào?

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

Kính thưa quý OBACE

Gần đây từ Miền Bắc đến Miền Nam, xuất hiện nhiều người tự xưng mình là những “nhà ngoại cảm” có khả năng tiếp xúc với vong hồn, cõi âm, cũng từ đó rộ lên phong trào tìm hài cốt người thân. Không chỉ như thế, nhiều nhà ngoại cảm đã biến mình trở thành những thứ thày bói, thày thuốc, chữa bệnh và bói bệnh cho nhiều người, chữa bệnh bằng cách đào nhà để tìm cốt. Trong số này có cả một vài linh mục tu sĩ biến mình trở thành ông thày bà cốt. Có một thời gian Bộ Thương Binh Xã hội cũng cậy nhờ những người này để truy tìm hài cốt các liệt sĩ, tuy nhiên một vài tuần gần đây báo đài đồng loại đưa tin và lật tẩy cảc chiêu lừa của các nhà ngoại cảm này. Qua xét nghiệm ADN, thì đa số đều không chính xác, có khi là xương hoặc răng thú vật. Điều này đang khiến dân chúng hoang mang nửa tin nửa ngờ. Việc bốc cốt tìm cốt này nó không chỉ tác động trên đời sống người dân, mà nó còn tác động trên đời sống đức tin của nhiều tín hữu, và điều nguy hiểm hơn nữa là nó đang làm sai lệch giáo lý của Giáo Hội Công Giáo về Bốn Sự Sau: Sự chết, Phán xét, Thiên Đàng và Hỏa ngục.

Cho đến hiện nay thì cả những người xưng mình là vô thần, cũng không thể phủ nhận được niềm tin linh hồn bất tử và sự hiện hữu của một cuộc sống sau khi chết. Trước đây, có một thời những người duy vật, vô thần cực đoan đã phủ nhận Thiên Chúa và tất cả các thực tại thiêng liêng, và họ cho rằng con người chỉ là vật chất, chết là hết. Thế nhưng ngày nay trong thực tế, chính những người này lại đang tin vào thế giới vô hình, thế giới của các linh hồn, và tin rằng thế giới ấy đang ảnh hưởng trên thế giới trên cuộc sống hiện tại và còn ảnh hưởng trên tương lai sự nghiệp của họ. Chính vì vậy mà họ cúng bái, tin kiêng, yểm bùa và không dám xúc phạm đến xác chết, đến mồ mả của người chết.

Quả thực nếu chết là hết theo quan niệm của những người chủ trương duy vật vô thần, thì con người không khác chi con vật. Nếu con người không có linh hồn, thì cái chết của con người cũng không khác chi cái chết của con chó, và người ta cũng không cần thắp nhang tôn kính người qua đời. Niềm tin tôn giáo chỉ cho chúng ta biết rằng, con người có xác có hồn. Đặc biệt đức tin Kitô Giáo còn cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng: Cái chết chỉ là một giai đoạn tạm thời, là giai đoạn chờ đợi, rồi tất cả chúng ta sẽ có ngày sống lại khi Đức Kitô trở lại.

Niềm tin kẻ chết sống lại là một niềm tin đã có từ lâu nơi các dân tộc, đặc biệt nơi những người Do Thái. Họ tin rằng những ai trung thành với lề luật của Thiên Chúa, thì sẽ được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Câu chuyện trong sách Macabê cho thấy những người Do Thái đã kiên cường với đức tin của cha ông, chấp nhận mọi đau khổ cực hình, can đảm chấp nhận cái chết, vì tin tưởng và hy vọng, Thiên Chúa sẽ trả lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn. Câu chuyện sách Macabê thuật lại có bảy anh em cùng chịu chết một cách đau đớn nhưg họ không sợ hãi vì tất cả họ tin rằng sau một giây lát chịu cực hình họ sẽ được gặp lại Thiên Chúa, và vì thế họ thà chịu chết chứ không chịu lỗi luật của thiên Chúa.

Trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xứng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Niềm tin vào sự sống lại đời sau vẫn là một thách thức đối với nhiều người, khiến họ không dễ gì chấp nhận. Thời Chúa Giêsu cũng có một nhóm người thuộc phải Xadốc không chấp nhận niềm tin này, nên họ mới đặt vấn đề với Chúa Giêsu: Có một người cưới bảy anh em trai, mà cuối cùng chết đi không ai có con, thì sau này nếu như sống lại người ấy là vợ của ai trong số họ? Nhân cuộc tranh luận này, Chúa Giêsu sửa lại lối suy nghĩ của họ về cuộc sống đời sau, vì họ nghĩ rằng cuộc sống đời sau hoàn toàn giống như cuộc sống tại thế, cũng dựng vợ gả chồng, cũng xây nhà cửa, cũng có của cải vật chất…, Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cuộc sống đời sau trổi vượt hơn hẳn cuộc sống đời này và hoàn toàn khác với cuộc sống đời này. Cuộc sống mai sau là cuộc sống không còn đau khổ chết chóc, không còn dựng vợ gả chồng, không còn tìm thú vui thể xác nữa, mà trái lại mọi người sống siêu thoát, sống hạnh phúc trong thế giới của Thiên Chúa giống như các thần linh, và họ hạnh phúc vì được ở cùng Thiên Chúa. Hạnh phúc ở đời sau mới là hạnh phúc đích thật của con người và là niềm khao khát của mọi người, khao khát được trở nên như thần linh, được gặp gỡ Thiên Chúa là cội nguồn cuộc đời của mình,

Cũng trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu cho thấy, Thiên Chúa dựng nên con người vì yêu thương và Ngài muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc mãi mãi, và vì thế, Ngài đã “thổi hơi” thở thần linh của Ngài cho con người, hơi thở ấy chính là sức sống của Thiên Chúa được thông chia cho con người, ban tặng cho con người. Chính vì thế, những ai thuộc về Thiên Chúa, giữ gìn mối dây sự sống với Thiên Chúa thì sẽ không bị hủy diệt. Thiên Chúa mãi là Thiên Chúa của kẻ sống, và các tổ phụ như Apraham, Isaac, Giacop, hay tất cả mỗi chúng ta, là những người đón nhận sự sống từ Thiên Chúa họ vẫn đang sống, song vì sự hiện diện của họ khác chúng ta nên chúng ta không nhìn thấy họ, nhưng họ vẫn đang nhìn thấy chúng ta.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác tin một cách chắc chắn rằng, chúng ta sẽ không bị hủy diệt vĩnh viễn, nhưng nhờ kiên trì theo Chúa ở thế gian này, chúng ta sẽ được sống mãi mãi bên Chúa, và ngày sau hết chúng ta sẽ từ bụi đất sống lại. Đồng thời xin cho chúng ta biết thể hiện niềm tin vào cuộc sống mai sau bằng cách ngay từ hôm nay sống tốt và sống đầy tràn tình yêu thương mỗi ngày, vì chúng ta chỉ có thể sống trong vương quốc của tình yêu thương khi hôm nay chúng ta biết yêu thương, và nhờ đời sống của mỗi tín hữu chúng ta làm chứng cho mọi người về niềm tin vào sự sống mai sau của chúng ta.

Thưa quý OBACE, chính vì muốn biết sự sống bên kia cái chết sẽ như thế nào nên con người từ cổ tới kim vẫn đang cố gắng để giải thích và diễn tả cuộc sống ấy, có điều là nhiều người đã không tin và không dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa, mà muốn tự mình hoặc là cho mình có khả năng để biết và tiếp xúc được với thế giới ấy. Những câu chuyện về ma quỷ là những câu chuyện hấp dẫn và được thêm bởi nhiều tình tiết cho ly kỳ và gợi lên sự tò mò cho nhiều người, đặc biệt gần đây những câu chuyện về vong hồn dường như đang có sức ảnh hưởng đến nhiều người.

Là kitô hữu, chúng ta tin rằng tất cả những ai trung thành với giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống công chính thánh thiện, thì sau khi chết họ sẽ được vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa, sống hạnh phúc đời đời, còn nhưng ai chưa xứng đáng thì phải trải qua một thời gian thanh luyện để nên xứng đáng hơn. Còn những người khi sống đã quyết liệt từ chối Đức Kitô và ân sủng của Ngài thì sau khi chết họ sẽ không được gặp Đức Kitô, không được bước vào nhà của Ngài, mà phải rơi vào nơi đầy hận thù, thất vọng và chết chóc. Như thế, thì sẽ không thể có những linh hồn đi lang thang, và cũng không ai có thể nói chuyện được với vong hồn, vì hai thế giới hoàn toàn khác nhau.

Chúng ta đừng quên rằng, ma quỷ là tên luôn gieo sự nghi ngờ, ngay từ đầu, nó đã gieo nghi ngờ cho Adam - Eva, và đến nay nó tìm mọi cách quấy phá và làm lung lạc đức tin của chúng ta. Nó có thể mượn các hình thức của vong hồn, mượn miệng của người sống để nói về đủ điều, kể cả những điều tốt lành, hoặc những điều ghê sợ để gieo vào trong chúng ta sự nghi ngờ về sự hiện diện, và quyền năng của Thiên Chúa, và khuyến khích chúng ta tin vào quyền năng và sự ly kỳ của nó, cuối cùng là chạy theo nó.

Chúng ta cũng cần nhớ rằng, ma quỷ nó không cám dỗ chúng ta ngay một lúc, nhưng nó dùng các câu chuyện được thêu dệt và truyền miệng từ người này qua người khác để dần dần đánh gục đức tin của chúng ta, nó dùng các hình thức bói toán gọi hồn, để khiến chúng ta tin vào các ông thày bà thày mỗi khi gặp khó khăn hay bệnh tật, khiến cho người tin hữu đánh mất thói quen cầu nguyện, và sống phó thác, không còn muốn lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa nữa. Trong thư thánh Phêrô, đã có lần chia sẻ: Ma quỷ thù địch của anh em, nó như sư tử rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự.

Dựa vào lời Thánh Phaolô hôm nay, để chúng ta cầu xin Đức Giêsu Kitô và xin Thiên Chúa Cha của Ngài luôn gìn giữ và bảo vệ chúng ta, xin Ngài làm cho tâm hồn chúng ta nên vững mạnh sống với niềm hy vọng phục sinh và xin đừng để chúng ta sa chứơc cám dỗ của ma quỷ. Amen.

 

23.Vấn đề kẻ chết sống lại

(Suy niệm của JB Lê Ngọc Dũng)

Con người có một linh hồn bất tử và sự sống đời sau hay không? Con người chúng ta thường hay thắc mắc như vậy.

Có lẽ chúng ta nghĩ rằng các tôi giáo đều dạy là có đời sau. Tuy nhiên, Do Thái giáo lại không chủ trương là có đời sau một cách rõ rệt. Hai trường phái lớn của Do Thái giáo bất đồng ý kiến với nhau về đời sau. Trường phái Saducêo không tin có sự sống lại. Họ chống lại niềm tin vào đời sau của trường phái Pharisêu. Họ nêu chuyện 7 anh em cưới một vợ để bác bỏ niềm tin sống lại.

Ngày nay, giữa cuộc sống không tin vào Thiên Chúa, hay lãng quên Thiên Chúa, gắn chặt vào vật chất trần gian, vào đời sống thực tại trần gian, thì người ta lại thích những chuyện huyền bí. Những cuốn sách ghi lại những kinh nghiệm của những người trở về từ cõi chết lại là những cuốn sách bán chạy nhất Âu Mỹ. Hai tác giả nổi tiếng nhất trong lãnh vực này là bác sĩ Raymond Moody với cuốn "Đời Sau" (Life After Life) và bác sĩ Melvin Morse với cuốn "Được Ánh Sáng Biến Đổi" (Transformed by the Light).

Có người chết lâm sàng 5 phút, có người chết nửa giờ, rồi sống lại. Cả mấy trăm trường hợp, được gọi là sống lại hay hồi sinh, được khảo sát bằng phương pháp khoa học đàng hoàng. Truyện bà Betty Eadie là một trường hợp điển hình cho tất cả những người đã chết rồi sống lại. Những gì thấy được có thể tóm lược vào 4 điểm chính:

1. Sau khi chết thì hồn ra khỏi xác nhìn thấy chính xác của mình và mọi sinh hoạt chung quanh.

2. Rồi hồn như đi nhanh qua một ống tối dài như bà Betty Eadie kể lại trong cuốn "Được Ánh Sáng Ấp Ủ" (trang 39) Đây đúng là thung lũng bóng tối sự chết như Kinh Thánh đã từng nói tới.

3. Gặp được Nguồn Sáng: Có người cảm nghiệm thấy Chúa, có người thấy Đức Maria như bà Betty Eadie: "thấy tắm trong ánh sáng và thấy một bà mầu nhiệm mặc áo trắng đến cầm tay nâng đỡ tôi" (trang 191). "Bây giờ thì tôi biết có Chúa thật... Tôi thấy Ngài điều khiển trí khôn ngoan và sức mạnh này. Tôi thấy trực tiếp rằng Chúa muốn chúng ta trở nên giống như Ngài, và Ngài cho chúng ta những đặc tính giống như Chúa, như óc tưởng tượng và sáng tạo, ý chí tự do, trí thông minh, và nhất là khả năng yêu thương..." (trang 61).

Cũng có những trường hợp, thay vì gặp vùng ánh sáng yêu thương, thì lại gặp vùng đen tối hiện hình thành quỉ dữ trong biển lửa khủng khiếp ghê rợn, như bác sĩ Raymond Moody thuật lại trong "Ánh Sáng Muôn Năm" (Light Beyond, Bantam Books 1989, trang 26-27).

4. Được biến đổi: "Tất cả mọi trường hợp đều được biến đổi sau khi đã gặp ánh sáng này... Họ trở nên đầy nhiệt lực và dễ thương hơn, đôi khi họ được sức cảm thụ lạ về những lãnh vực tâm linh trước kia không hề biết" (Được Ánh Sáng Biến Đổi, trang 6). Một số người biết trước truyện sẽ xảy ra trong tương lai hay ở xa "Họ ít sợ hoặc không sợ chết nữa, vì họ biết có một cuộc sống mới.”

Những kinh nghiệm về cõi đời sau như thế, được kể lại, chúng ta không biết là thực sự đã xảy ra hay không, vì cũng có thể là chuyện tưởng tượng. Tuy nhiên rất có nhiều điều không sai lạc với giáo lý Công giáo mà còn giúp ta biết được một số nét của cõi đời sau.

Ngay chính thánh Phaolô cũng có lần kể lại chuyện về chính mình bị ném đá chết ngất đi tại Lystra: "Tôi sắp kể về các cuộc thị kiến và khải minh Chúa ban cho tôi. Tôi biết có một người trong Đức Kitô, cách đây mười bốn năm được bốc lên tầng trời thứ ba; và tôi biết người đó đã được bốc lên Thiên Đàng và được nghe thấy những tiếng nói mà người thường không có thể cũng không được phép phát ra..." (2Co 12,1-6).

Và chúng ta cũng nhớ đến chuyện thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên. Khi bị hành hình, tuy chưa chết nhưng ngài nhìn lên trời và thấy thị kiến, Ngài la to: “Tôi thấy Con Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa”. Cũng chính vì làm chứng cho sự thật như thế. Stêphanô bị dân Do Thái cho là phạm thượng và ném đá ông cho đến chết.

Tất cả những điều trên giúp ta xác tín thêm về chân lý đời sau mà Chúa Giêsu mạc khải trong bài Tin Mừng hôm nay: “Những ai được xét là đáng hưởng hạnh phúc đời sau... họ không thể chết nữa, vì họ được ngang hàng với thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, bởi đã được sống lại.” (Lc 20, 34-36).

Niềm tin về sự sống lại, về thưởng phạt đời sau không cho phép chúng ta thờ ơ với vận mạng đời đời của mình. Chúa Giêsu nhiều lần nhắc bảo, chỉ dạy chúng ta về điều này. Ngài dạy hãy vào qua cửa hẹp để vào Nước Thiên Chúa; được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì.

Xin cho chúng ta biết xây dựng đời sau bằng chính đời này, biết dùng của cải đời này để mua nước thiên đàng mai sau. Nói cách khác hơn, xin cho chúng ta sống xứng đáng là con cái Chúa, để đáng được hưởng hạnh phúc với Ngài.

 

24.Thiên Chúa của kẻ sống – An Phong

Niềm tin vào sự sống đời sau vừa là một khát vọng, vừa là một điều khó khăn đối với con người. Khát vọng vì con người không cảm thấy bằng lòng với cuộc sống này; không thể chấp nhận những bất công còn đầy dẫy mà cuộc sống này không bao giờ có thể giải quyết hoàn toàn; không thể chịu đựng được sự phi lý vì những mất mát, chia lìa của cuộc sống nhân loại phải đón nhận. Khó khăn vì người ta dễ cảm thấy chắc tâm khi đạt được những thành công, tìm thấy những bảo đảm cho cuộc sống này để mình được sung sướng; hơn là "thả mồi bắt bóng" ở thế giới nào khác.

Những người Sađốc là những người muốn an tâm với những sung sướng rõ ràng như thế; vua Antioco và quần thần của vua thì tưởng ai cũng như thế, nên lấy những hình phạt thể xác để đe dọa các tín hữu.

Niềm tin của người kitô hữu không phải là khinh chê cuộc sống này để "thả mồi bắt bóng", nhưng luôn qui chiếu đời sống của mình vào ngày Thiên Chúa hoàn thành chương trình cứu độ; khi đó Ngài "trả lại" những mất mát, Ngài hoàn thành những khát vọng, Ngài nối lại những chia lìa, Ngài biến đổi những giới hạn nên một "trời mới đất mới".

Người ước vọng hạnh phúc đời sau không phải là người chán đời, bi quan; nhưng là những người tràn đầy lòng yêu thương, sống mãnh liệt niềm khát vọng thực hiện cuộc đời mình cho tốt đẹp hơn, muốn mang lại hạnh phúc cho người khác trọn vẹn hơn.

Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, xác tín điều đó giúp cho người kitô hữu vượt qua lòng ích kỷ, thắng được sự nhát đảm và cảm nhận được giá trị của niềm vui đích thực, niềm vui "là con cái Thiên Chúa, bởi đã được sống lại".

Tâm tình hiệp l

Vầng đông dậy, ánh hồng gieo rắc

Chốn thiên cung nhã nhạc vang hòa...

Ấy Vua Cả oai phong lẫm liệt

Cõi âm ty: hủy diệt tiêu tan.

Chân người dẫm nát tử thần

Tù nhân đau khổ ân cần đưa lên.

Đã im bặt câu than tiếng khóc,

Đã hết rồi cảnh ngục thê lương,

Sứ thần áo trắng vui mừng

Loan tin Chúa đã vui mừng phục sinh.

Xin cho mọi lòng thành hoan h

Mãi muôn đời mừng lễ Vượt Qua

Tái sinh ơn nghĩa chan hòa

Vang vang khúc khải hoàn ca reo hò.

Muôn lạy Chúa Giêsu từ ái

Đấng lừng danh đánh bại tử thần.

Ngàn đời hiển trị muôn dân

Cùng Ngôi Thánh Phụ Thánh Thần quang vinh.

Thánh Thi Phục Sinh

 

25.Chết là về cõi sống

(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)

Khi nhìn về kiếp nhân sinh thật mong manh và vắn vỏi, nhạc sĩ Trinh Công sơn đã từng thốt lên:

Con chim đậu cành tre

Con cá ở trọ trong khe nước nguồn.

Tôi nay ở trọ trần gian

Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời

Dẫu biết rằng cuộc đời này chỉ là quán trọ nhưng quán trọ cuộc đời này thật hấp dẫn, hấp dẫn đến nỗi ai cũng muốn níu kéo thời gian nơi quán trọ. Thế nhưng cho dù có bám víu, có cố công vun trồng những tiện nghi thật đầy đủ cho quán trọ cuộc đời này, rồi cũng có ngày phải từ giả tất cả để ra đi.

Vâng, thưa anh chị em, là người ai trong chúng ta cũng phải chết. Sự chết đó là định luật tất yếu của đời người. Có người chết vì bệnh tật, vì thiên tai, vì tai nạn. Có người chết khi tuổi đời còn rất trẻ và cũng có người chết khi tuổi đời đã vượt quá "thất thập cổ lai hy". Sự chết dường như là mẫu số chung cho tất cả những con người đang sống trên mặt đất. Nhưng cái chết luôn luôn là bất ngờ, con người không bao giờ biết mình sẽ chết ngày nào và ở nơi nào?

Đôi khi chúng ta tự hỏi: Tại sao Chúa không cho mình biết trước ngày giờ mình sẽ ra đi để mình chuẩn bị đầy đủ hành trang về với Chúa? Để mình dẹp bỏ mọi công danh sự nghiệp, mọi danh lợi thú cho tâm hồn thanh thản bình an. Có lẽ Chúa không muốn điều đó. Vì Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người, Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta: Hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào chủ sẽ về, và cũng không biết khi nào kẻ trộm đến. Chúa đòi chúng ta phải tỉnh thức, phải nỗ lực làm tròn bổn phận mà Chúa đã trao phó. Tựa như một trận đá banh, nếu biết trước tỷ số, trận bóng sẽ nhàm chán và các cầu thủ sẽ thiếu trách nhiệm với bổn phận của mình trên sân cỏ. Một trận bóng chỉ đẹp khi mà các cầu thủ đều phải tỉnh thức, phải nỗ lực làm tròn trách nhiệm và chu toàn tốt vị trị được trao. Cuộc đời con người cũng vậy. Không biết lúc nào mình sẽ phải ra khỏi sân cỏ cuộc đời, nhưng chúng ta phải sống đầy đủ trách nhiệm của mình thì cuộc đời đó mới đẹp, mới xứng đáng được lãnh thưởng ân phúc mà Chúa sẽ trao ban cho ai tín trung với ngài.

Thế nhưng, trong niềm tin kytô giáo, chúng ta tin rằng bên kia sự chết đó là ánh binh của sự phục sinh, của sự sống vĩnh cửu bên Chúa. Sự chết không phải là hết. Chết là chuyển đổi sự sống thêm sung mãn hơn. Đó là sự sống trong Thiên Chúa hằng sống. Hơn nữa, Thiên Chúa tạo dựng con người không phải để chết mà là để sống đời đời. Cái chết thể xác chỉ là hậu quả của tội Adam. Nhưng Chúa Giêsu khi mang kiếp người Ngài đã phục sinh để kéo mọi người lên cùng Chúa. Ngài đi qua cái chết để vực dậy con người khỏi cái chết trầm luân bởi lạc xa tình Chúa nay được sống trong ân nghĩa Chúa.

Lời Chúa hôm nay khẳng định có sự sống đời sau. Sự sống đó không còn lệ thuộc bởi việc dựng vợ gả chồng vì con người đã tham dự vào sự sống bất diệt của Đấng hằng sống. Sự sống đó cũng không còn lệ thuộc bởi vật chất, hay bởi danh lợi thú vì con người không còn cảm thấy thiếu thốn mà đã đạt đến sự sung mãn trong sự sống thần linh của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Thiên Chúa hằng sống và con người là hoạ ảnh của Thiên Chúa, nên con người cũng được thừa hưởng sự sống thần linh của Chúa. Đây chính là niềm vui, là sự khích lệ cho cuộc đời chúng ta. Đau khổ cuộc đời này sẽ qua. Những khốn khó trần gian sẽ qua đi. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm bợ. Sự sống thần linh mới là vĩnh cửu. Cuộc sống đó không còn những tranh chấp của danh lợi thú, không còn những khổ đau của thiếu thốn, không còn nước mắt của dòng đời bể khổ mà chỉ còn hạnh phúc viên mãn bên Chúa mà thôi.

Nguyện xin Chúa là Đấng hằng sống luôn nâng đỡ phù trì chúng ta trong tình thương quan phòng của Chúa. Amen.

home Mục lục Lưu trữ