Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 50

Tổng truy cập: 1360692

CÓ MỘT CHỦ VƯỜN KIA

CÓ MỘT CHỦ VƯỜN KIA

“Chủ vườn” là từ quan trọng trong dụ ngôn này, cùng với một từ khác tương ứng với từ đó: “hoa trái”. Người chủ vườn này muốn có những hoa trái đặc biệt. Với lòng quan tâm chăm sóc, ông trồng một vườn nho và mong đợi một mùa thu hoạch tốt đẹp, nhưng các tá điền không có vẻ gì là hoạt động cả. Chủ vườn sai đầy tớ tới: tá điền giết chết họ. Thế là chủ vườn thực hiện một hành vi điên rồ: ông sai chính con trai của mình đến và con trai ông cũng bị giết.

Chúng ta biết rằng người con trai này chính là Chúa Giêsu, nhưng vườn nho này là vườn nho nào? Những thợ làm vườn nho là ai? Chúng ta phải làm gì trong câu chuyện này?

Từ một vườn nho ở trên một sườn đồi, dụ ngôn kể chuyện những tương quan giữa Thiên Chúa và con người, điều mà Tin Mừng gọi là Nước Trời: “Ta sẽ là Chúa của các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta”, Chúa đã nói như thế. Đây là món quà đẹp nhất của Thiên Chúa, ông chủ của mọi sự, người thầy của mọi sự.

Thiên Chúa mong ước ban Nước Trời cho chúng ta. Là tình yêu Thiên Chúa muốn làm cho tất cả mọi người thành một dân tộc của tình yêu. Điều này muốn nói lên hai điều luôn luôn liên kết với nhau một cách chặt chẽ: một dân tộc gồm những con cái được Thiên Chuá yêu thương và yêu thương Thiên Chúa; một dân tộc gồm những người anh em yêu thương nhau. Đó là vườn nho và đó là những mùa hái nho.

Để thực hiện dự định vĩ đại này, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc nhỏ làm hạt giống, làm men, đó là Israel. Ngài đã giao phó vườn nho của Ngài, tức là dự án về Nước trời cho dân tộc này.

Thất vọng. Được các vị lãnh đạo tôn giáo dẫn dắt tồi, Israel không sử dụng cho đúng những đặc ân của mình. Chúa sai đến cho Israel những sứ ngôn, những tiên tri, nhưng nước này không nghe họ. Coi thường chủ vườn, các tá điền xấu tin rằng họ có thể một mình làm chủ vườn nho của Chúa. Họ chăm sóc vườn nho không tốt bởi vì các ân sủng của Thiên Chúa chỉ sinh hoa kết quả với Thiên Chúa mà thôi.

Trong một nhiệt tình yêu thương tối hậu, Thiên Chúa sai Con Trai của Ngài để dạy cho các thợ làm vườn nho biết cách làm cho vườn nho của Chúa sinh lợi, biết cách sống vì Nước Trời như thế nào. Nhưng hết rồi, vào cuối Tin Mừng, Chúa Giêsu nhận thấy rằng chính Ngài cũng không được lắng nghe, các nhà lãmh đạo dân chúng muốn bóp nghẹt tiếng nói của Ngài.

Thế rồi Ngài đưa ra một lời đe doạ hoàn toàn không khoan nhượng cho những ai tự xem mình là những người được ưu tiên vĩnh viễn, những người chủ của các ân sủng của Thiên Chúa. Cho tới lúc đó, Chúa thường đe doạ họ và thậm chí sửa phạt họ một cách nghiêm khắc, nhưng không hề có ai dám nói với họ rằng Thiên Chúa sẽ giao phó vườn nho của Ngài cho những người khác. Dầu sao thì đây cũng chính là ý nghĩa của dụ ngôn ghê gớm này mà những từ cuối cùng rơi xuống như một cái máy chém: “Nước Trời sẽ được cất khỏi các ngươi và sẽ được trao cho dân khác làm cho trổ sinh hoa trái”,

Lời đe doạ đã được thực hiện, người Kitô hữu tiếp tục sự nghiệp của người Do thái. Điều này không xoá bỏ sự vĩ đại của dân tộc đã được chọn đầu tiên và vẫn là một dân tộc được chọn này (Rm 11, 28-29). Dân Do thái vẫn tiếp tục loan báo Đấng Tối Cao bằng đức tin sâu xa và thường rất anh hùng của họ. Tiếp theo sau và cùng với dân Do thái chúng ta nên giòng mạc khải Do thái –Kitô giáo. Và dụ ngôn này phải làm cho chúng ta suy nghĩ về sự vĩ đại và trách nhiệm của chúng ta. Thật là một sứ mạng nặng nề! Sống tình yêu, loan truyền tình yêu khắp nơi, tạo ra những kết quả thực sự của Nước Trời. Chúng ta có xứng đáng không? Người Kitô hữu và những nhà lãnh đạo tín hữu có tỏ ra trên khắp thế giới như là những tá điền tốt, những thợ làm vườn nho tốt của ông chủ duy nhất của vườn nho hay không?

 

30. Hành động và phản ứng.

Những người Biệt phái không sẵn sàng trở lại. Đó là một thái độ thụ động. Nhưng đi xa hơn, họ bước sang hành động quyết định chống lại Đức Kitô. Trong ngụ ngôn thợ làm vườn nho, Thày chí thánh đã mô tả cho chúng ta như sau: Israel là một dân gồm những mục tử và nông dân. Các dụ ngôn Phúc âm là những hình ảnh thu nhặt trong đời sống đồng áng. Trước kia nơi các tiên tri và các thánh vịnh, quốc gia này đã được so sánh với một vườn nho được Thiên Chúa vun trồng săn sóc đặc biệt. Chúa chờ hái lượm những chùm nho chĩu nặng tức là mong thấy bay tỏa hương thơm đạo đức và lòng tùng phục Thiên Chúa. Nhưng ít khi Chúa mãn nguyện. Bây giờ, khi Chúa đến, giờ quyết định của dân tộc đã điểm.

Đó là giờ quyết định thực sự! Bổn phận mà Israel chu toàn lại bị coi như là một cố gắng vô ích sao? Quả thực các vị thủ lãnh dân tộc có một đời sống tôn giáo nông cạn khô khan. Ngoài ra họ bắt đầu công kích Chúa, mặc dầu Ngài đã góp công phục hưng quốc gia. Cha ông họ đã giết các tiên tri, những thừa sai của Thiên Chúa, còn chính họ là con cái lại quyết định giết Chúa.

Theo phương diện lịch sử, giờ quyết định đã điểm vì tất cả quá khứ của Israel hướng về ngay vị cứu tinh xuất hiện. Tất cả những hy vọng quy về vị cứu tinh là tột đỉnh mong đợi. Đây Chúa Cứu Thế đã đến và số phận dân tộc đã biểu lộ. Các thủ lãnh đều có trách nhiệm về điều đó. họ tự quyết chống lại Ngài, vì họ muốn một vị khác đáp lại những đòi hỏi sai lầm của họ. Họ không những đã từ chối, nhưng nhất là công kích đầy căm phẫn nữa. Đấng phải đến cho họ sự phục sinh, lại bị chính họ xử tử.

Lời Chúa đòi p hải có lập trường vững chắc, nhất là khi hành động. Ngược lại với lời nhân loại, lời Chúa bắt phải dấn thân. Người ta có thể gạt bỏ những ý tưởng triết học, gạt bỏ hệ thống suy luận của một tư tưởng gia hay những tác phẩm của văn sĩ. Người ta ít chú ý đến những thứ đó, nên một năm khó lòng mua được một số sách, do đó nhiều khi sách vở phải bán theo giá giấy. Trái lại lời Chúa, tiếng gọi và đòi hỏi, đòi phải chọn lựa khi nghe biết. Không chú ý đến lời Chúa là phủ nhận lời Chúa và như vậy là gạt Chúa sang một bên. Làm như thế tức là tiến thêm một bước nữa về sự dữ. Trong khi chối từ những gì đem lại ơn cứu độ, người ta tự ý hướng về tình trạng khai trừ. Kitô giáo, không phải chỉ loan báo những chân lý để bàn luận hay xác định lập trường tùy tiện. Thiên Chúa mời gọi chúng ta, muốn chúng ta dấn thân phục vụ Ngài. Vì thế từ chối có nghĩa là nổi loạn. Lời Chúa là nền tảng cho đời sống. Ai chối bỏ là chối bỏ chính Chúa: Hòn đá không ở một nơi, nhưng theo Đức Kitô, hòn đá đó sẽ nghiến nát ai chối bỏ nó để ở lại giữa loài người.

Tình trạng cuộc sống không bất động: mỗi hành động nhân loại đều được Thiên Chúa đáp ứng cách khác nhau. Thực ra, Ngài không chỉ sửa phạt, Ngài sẽ không tiêu diệt những ai từ chối, nhưng đôi khi Ngài chịu đựng để biến đổi sự dữ thành sự lành. Trước hành động của kẻ thù, Ngài phản ứng lại theo đức công bình và nhất là phản ứng theo lòng yêu thương.

Adam từ chối Thiên Chúa đã gọi mình, nên đánh mất Thiên Đàng, nhưng đồng thời ông lại được hứa Đấng Cứu Thế. Lỗi phạm, nhờ ơn sủng biến thành lỗi có phúc. Đại hồng thủy đưa đến giao ước với Noe. Tháp Babel biểu thị sự chia rẽ nhân loại, cũng biểu thị ơn gọi của Abraham là người biến Israel thành dân duy nhất của Chúa. Việc bán Giuse sang Ai Cập trở nên sự cứu độ cho anh em. Pharaon cứng lòng đưa dân Chúa đến việc ký kết giao ước với Thiên Chúa. Lịch sử tiếp tục thể hiện cho tới lúc Israel từ chối Đức Kitô, đóng đanh Chúa họ trên núi Calvariô. Sự thất bại tuyệt đối đã được ân sủng tác động để hình thành giao ước mới với toàn thể nhân loại, và hy tế cứu độ của Chúa. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, máu các vị tử đạo không ngừng trở nên hạt giống làm trổ sinh những kitô hữu mới. Cho tới ngày chung cuộc, việc xuất hiện người chống lại Đức Kitô sẽ kêu mời Đức Kitô tái giáng. Trái đất bị chúc dữ sẽ báo hiệu một thế giới mới, để tất cả tăm tối sẽ bị ánh sáng toàn thắng. Tất cả sự chết sẽ bị sự sống thống trị, tội lỗi sẽ bị ơn sủng chế ngự. Hòn đá bị thợ ném đi, được Chúa can thiệp để trở nên hòn đá góc. Và nước Chúa được ban cho một dân tộc ưu tú mới, vườn nho được phó thác cho những người thợ mới; những người ấy nhờ tác động của ơn sủng, sẽ gặt hái hoa trái chín mọng do ơn Chúa. Vậy, những hầm rượu và kho lẫm Thiên Chúa được tràn đầy phong phú, rồi những kẻ ưu tú được lệnh trao hoàn cho Ngài. Tất cả biến thành ơn sủng.

 

31. Chăm sóc vườn nho của Chúa

MINH HỌA LỜI CHÚA:

  1. Lòng kiên nhẫn lạ lùng

Chúa Giêsu luôn giảng dạy bằng dụ ngôn. Đó là những câu chuyện thế gian hàm chứa ý nghĩa thiên quốc. Các dụ ngôn này thường chia ra hai loại: dụ ngôn “cửa sổ” và dụ ngôn “kiếng soi”.

Dụ ngôn “cửa sổ” là câu chuyện đơn giản nói về Chúa hoặc Nước Chúa. Nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về Người hoặc về Nước của Người, thí dụ như dụ ngôn “Con chiên lạc”.

Dụ ngôn “kiếng soi” là những câu chuyện giúp chúng ta hiểu rõ chính mình. Các nhân vật trong câu chuyện đại diện cho những người nghe. Thế nên họ nhận ra chính mình khi nghe dụ ngôn. Dụ ngôn “Tá điền sát nhân” trong Tin Mừng hôm nay thuộc loại này.

Chủ vườn nho chính là Thiên Chúa. Vườn nho lúc đầu là dân Itraen. Tá điền là các vị lãnh đạo Itraen. Các đầy tớ được chủ vườn sai đi thu hoa lợi là các ngôn sứ. Con trai độc nhất của chủ vườn chính là Chúa Giêsu. Các tá điền khác được chủ vườn nho giao lại là các tông đồ của Chúa Giêsu, là những nhà lãnh đạo mới của dân Chúa.

Nghe Chúa Giê su kể dụ ngôn trên đây, “các thượng tế và người Biệt Phái hiểu là Người nói về họ” (Mt. 21, 45). Họ nhìn vào dụ ngôn “kiếng soi” mà thấy chính họ. Song thay vì sám hối, họ vẫn ngoan cố trong lầm lỗi của họ.

Phải chăng Chúa Giêsu kể dụ ngôn trên đây chỉ nhằm hành động sai trái của các Thượng Tế và Biệt Phái? Không phải thế. Người còn muốn dạy chúng ta nữa. Người muốn dạy chúng ta các điều sau đây:

Nó tóm lược Kinh Thánh về ơn cứu độ. Chúa Giê su là con Thiên Chúa. Các Tông Đồ là những vị lãnh đạo mới của dân Chúa. Và Chúa kiên nhẫn chờ đợi chúng ta chu toàn bổn phận chúng ta đối với Hội Thánh Người. (Theo cha M. Link)

  1. Hy sinh giúp việc Chúa

Một thiếu nữ trẻ đẹp Người Úc ở Melbourne. Chúa kêu gọi cô làm thừa sai giúp những người mắc bệnh cùi tại Inđônêsia. Cô sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa không chút do dự, và được hội truyền giáo gởi đến khu làng cùi tại đó. Nhiều người ngạc nhiên hỏi cô:

– Sao cô can đảm hy sinh như thế? Nếu cô bị lây nhiễm bệnh cùi, sắc đẹp cô sẽ tàn phai đã đành, cuộc đời cô sẽ bất hạnh nữa. Cô nghĩ sao?

– Tôi sẵn sàng hy sinh cho những người cùi, vì đó là điều Chúa muốn tôi thực hiện để giúp việc Chúa, dù có chết tôi cũng sẵn sàng để làm sáng danh Chúa.

Thế là cô lên đường, phục vụ người cùi được trên mười năm, thì mắc bệnh như người ta tiên đoán. Mặc dầu cô được chữa khỏi, nhưng nhan sắc cô bị ảnh hưởng bệnh đó nên trở nên xấu xí. Nhất là khi thời tiết thay đổi, cô rất đau đớn. Có người hỏi:

– Cô có ân hận vì đã giúp người cùi mà bây giờ phải mang hậu quả bi đát thế không?

Cô điềm nhiên đáp:

– Dù ta phải trả giá bằng mạng sống, tôi cũng sẵn sàng dâng hiến. Và nếu Hội Thánh cần, tôi vẫn không từ chối đến phục vụ anh chị em cùi bất cứ ở nơi nào.

Câu chuyện trên đây làm sáng tỏ ý muốn của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Chúa giao vườn nho cho các Thượng Tế và Biệt Phái, để họ chăm sóc, nhưng họ đã không thi hành, không làm vườn nho sinh hoa lợi nộp cho Chúa, mà còn giết chết hết các sứ giả của Chúa. Đến cả Con Một yêu dấu của Chúa, họ cũng giết luôn để đoạt gia tài: “Bọn tá điền vừa thấy người con thì bảo nhau: Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” (Mt. 21, 38)

Vì thế, Chúa buộc lòng phải lấy lại vườn nho của Người và giao cho các tông đồ và chúng ta canh tác, cho nó trổ sinh hoa lợi cho Chúa, là đức tin và việc lành hằng ngày của chúng ta và anh chị em chúng ta. Như thế Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhiệt thành phụng sự Chúa và phục vụ anh chị em. (Theo “Chuyện hay ý đẹp”).

  1. Đi tìm thợ làm vườn nho

Hôm nay mình ghé dòng Mến Thánh Giá Sóc Trăng. Chị bề trên đón mình một cách niềm nở như đón một người chiến sĩ chiến thắng trở về… Và chị cũng mơ ước được đi truyền giáo. Mình mở cờ trong bụng “thế nào cá cũng cắn câu”.

– Công tác truyền giáo ở Năm Căn cứ mọc lên như nấm. Tôi muốn mở thêm một giáo điểm, nhưng còn thiếu cán bộ. Hiện nay đã có các chị bác ái Vinh Sơn, Dòng Ba Nam, tu hội Tận Hiến, thừa sai Lái Thiêu, tu sĩ truyền giáo, sinh viên Đại Chủng Viện, nhưng vẫn không đủ. Lúa chín thì nhiều quá lẽ, mà thợ gặt thì ít xịt. Vậy xin chị cho dòng Mến Thánh Giá góp mặt với chúng tôi.

– Cha muốn xin mấy chị?

– Càng nhiều càng tốt. Tối thiểu là hai.

– Thưa cha, xin cha thông cảm dòng chúng con còn ít người lắm, vả lại các em còn non nớt quá, chúng con không dám cho các em đi xa…

– Nếu năm nay không được thì năm tới vậy nhé!

– Thưa cha, năm năm nữa cũng chưa được.

Mình hiểu năm năm nữa nghĩa là chẳng bao giờ…

Mình nhớ lại một buổi sáng nọ, Chúa Giêsu tập trung trước mặt 72 môn đệ để đọc lệnh lên đường. Họ chưa được đào tạo. Chính Chúa cũng phải xác nhận rằng: “Thầy sai chúng con đi như những con chiên đi vào giữa bầy muông sói”. Dù thế Người vẫn sai họ lên đường, bởi lẽ “Có Chúa và nghề dạy nghề”.

Đúng thế. “Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít”. Vườn nho của Chúa bao la mà người làm vườn chẳng có được bao nhiêu. Đã vậy mà còn thêm những kẻ chểnh mãng, những người muốn chiếm đoạt vườn nho của Chúa làm của riêng mình, như trường hợp các Thượng Tế và Biệt Phái trong Tin Mừng hôm nay. Do đó, Chúa cần chúng ta giúp một tay vào việc chăm sóc vườn nho của Ngài ngày càng phát triển và sinh nhiều bông trái tốt cho Người. (Theo “Nhật ký truyền giáo”).

  1. Nhận và cho

Một hôm nhà chính trị nổi tiếng người Pháp đi vào một làng nhỏ miền đông Ấn Độ. Ông phát hiện một pho tượng cổ quý, bày bán giữa những món hàng khác. Ông hỏi giá và được trả lời:

– Thưa ngài, tôi xin 75 đồng.

Nhà chính trị liền thương thuyết với người bán hàng:

– Tôi xin trả 45 đồng.

– Trời ơi, chỉ có 45 đồng sao?

Nhà chính trị vẫn khăng khăng trả giá 45 đồng. Người bán hàng tức tối nói:

– Tôi không thể bán với giá đó. Thà tôi tặng không cho ông còn hơn.

Nhà chính trị liền tóm lấy pho tượng bỏ vào túi và nói:

– Ông là người tử tế quá. Tôi xin cám ơn ông. Đây là món quà ông tặng cho tôi. Tôi tin chắc ông không từ chối món quà tôi tặng cho ông. Vừa nói ông vừa trao 45 đồng vào tay người bán hàng rồi đi.

Trong cái nhìn đức tin, tất cả những gì chúng ta có đều là quà tặng nhưng không của Chúa, từ sự sống tự nhiên đến cuộc sống tâm linh. Tất cả những gì chúng ta có thể làm được cho đến đức tin, tất cả đến từ lòng quảng đại của Thiên Chúa. Chính vì lãnh nhận nhưng không, chúng ta cũng được mời gọi trao ban nhưng không. Thánh Phaolô đã xác quyết: “Tất cả là hồng ân”.

Trong thư gởi tín hữu Côrintô, thánh nhân còn đặt câu hỏi khiến chúng ta phải suy nghĩ: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” (1 Cr. 4, 7)

Tất cả chúng ta là vườn nho được Chúa chăm sóc ân cần đầy đủ: “Ông rào giậu, trong vườn ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh” (Mt. 21, 33).

Chúa chờ đợi gì nơi chúng ta? Chúa muốn chúng ta nhận biết tất cả là hồng ân nhưng không Chúa ban cho chúng ta. Thế mà chúng ta xem đó là của riêng của chúng ta, như các Thượng Tế và Biệt Phái trong Tin Mừng hôm nay. Họ nhẫn tâm giết hết để chiếm đoạt vườn nho cho riêng họ. “Không có phần nào cho tha nhân, không có phần nào cho Hội Thánh”.

Như thế Tin Mừng hôm nay mời chúng ta chia sẻ: nhất là chia sẻ ơn cứu rỗi của Chúa cho anh chị em chúng ta (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”. Tập III).

  1. Hy sinh vì Nước Chúa

Sáng ngày 19 tháng 3 năm 1994, do hai phát súng của nhóm bất lương Camara ở nước Ý đã giết chết cha Giuse Daiana tại phòng áo nhà thờ xứ Casandi Piusêpê, lúc cha chuẩn bị dâng Thánh Lễ.

Cha Daiana là một linh mục 36 tuổi luôn nhiệt thành trong sứ mạng tông đồ, chăm sóc vườn nho của Chúa. Trong bài giảng lễ an táng cha, Đức Giám Mục Lôrensô Chiaradinali đã tóm lược công tác tông đồ của cha như sau: “Đau khổ và tin tưởng. Đó là đời sống tông đồ của cha Daiana. Việc tông đồ của cha đầy khó khăn vì những hình thức vô luân đồi bại và những sức mạnh bất lương núp sau bóng tối. Sứ mệnh tông đồ của cha là bẻ gãy xiềng xích của tội ác để xây dựng công bằng và tình thương. Hoạt động tông đồ của cha bắt đầu từ công tác giáo dục đức tin, nỗi lực sống chứng tá Kitô, bảo vệ quyền lợi cho người nghèo khổ và bị áp bức, nhất là huấn luyện giới trẻ qua hoạt động hướng đạo…

Tinh thần hăng say hoạt động tông đồ và lòng quả cảm hy sinh của cha Daiana mời gọi chúng ta nhớ đến thái độ bê tha chểnh mãng của các Thượng Tế và Biệt Phái trong Tin Mừng hôm nay đối với vườn nho của Chúa.

Cha Daiana đã cống hiến cho vườn nho của Chúa bao nhiêu thì các Thượng Tế và Biệt Phái đã bê bối bấy nhiêu. Với tấm lòng của người tông đồ, cha đã trung thành với sứ mạng Chúa giao bằng cái giá đắt là mạng sống của mình.

Cái chết của cha như hạt giống gieo vào lòng đất, phải mục nát để sinh được bông trái dồi dào tốt đẹp dâng cho Chúa, như Chúa Giêsu đòi hỏi các nhà lãnh đạo Do Thái phải thực hiện trong Tin Mừng. Thật vậy, cái chết của cha đã không uổng phí. Mấy hôm trước khi bị sát hại, cha đã nói với một thanh niên muốn theo ơn gọi linh mục: “Nếu con muốn trở thành linh mục, con phải luôn nhớ con sẽ phải trả giá rất đắt”. Và chính người thanh niên đó, khi đứng trước thi hài của cha đã tuyên bố: “Trước kia tôi còn do dự, nhưng giờ đây đứng trước thi hài của cha, tôi nhất quyết trở thành linh mục”

(Theo “Thiên Đàng là thế đó”).

 

32. Chủ vườn nho

Số phận của những kẻ chống lại chủ vườn nho sẽ như thế nào?

Mặc dù đoạn Tin Mừng không nói rõ, nhưng chúng ta cũng thấy được qua câu trả lời của những người nghe Chúa Giêsu:

– Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ đến mùa, họ sẽ nộp phần hoa lợi.

Từ câu trả lời này, chúng ta bước vào lãnh vực siêu nhiên. Vậy số phận của những kẻ chống lại Thiên Chúa sẽ như thế nào? Chúa Giêsu cũng đã từng lên tiếng về vấn đề này:

– Viên đá bị thợ xây loại bỏ, sẽ trở thành viên đá góc tường. Hễ ai vấp ngã trên viên đá này, thì kẻ ấy sẽ bị dập nát và hễ viên đá này đè lên ai, thì kẻ ấy sẽ bị tan xương.

Câu nói này làm cho chúng ta liên tưởng tới lời cảnh cáo của Chúa Giêsu được gửi tới cho Phaolô trên con đường đi Đamas:

– Khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.

Kinh nghiệm đau thương này đã được thực hiện qua giòng thời gian nơi các dân tộc cũng như nơi những cá nhân.

Trước hết là nơi các dân tộc.

Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình. Trường hợp thứ nhất, đó là trường hợp của dân Do Thái.

Trong Cựu ước, họ là một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn và yêu thương cách đặc biệt. Thế nhưng mỗi khi họ quay lưng chống lại Ngài, bằng cách sống bê tha tội lỗi và nhất là quì gối thờ lạy những thần tượng nhảm nhí, thì lập tức đất nước họ bị quân thù dày xéo còn bản thân họ thì bị đi lưu đày, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.

Trong Tân ước, họ là một dân tộc được nghe những lời Ngài truyền dạy và được thấy những việc kỳ diệu Ngài đã làm, thế nhưng cõi lòng họ vẫn chai đá, để rồi những lời Chúa cảnh cáo chỉ là như một thứ nước đổ đầu vịt mà thôi. Họ chống đối Chúa, họ vu oan cho Chúa và sau cùng họ đã giết chết Chúa một cách ô nhục trên thập giá. Nhưng rồi sau đó vào năm 70, thủ đô Giêrusalem đã bị tàn phá bình địa dưới sức mạnh của quân đội La Mã do tướng Titus chỉ huy. Còn bản thân họ thì phải rời bỏ quê hương, tản mát khắp bốn phương trời, mãi cho đến năm 1950, nhờ áp lục quốc tế, họ mới được trở về khôi phục lại đất nước, vì khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.

Trường hợp thứ hai là nước Pháp trong cuộc cách mạng vào năm 1789. Những kẻ khởi xướng cho cuộc cách mạng này đã bài xích Giáo hội, chối bỏ Thiên Chúa, coi lý trí là thần tượng tuyệt đối có thể giải quyết được mọi vấn đề. Thế nhưng hậu quả mà cuộc cách mạng này đã đem lại như thế nào thì lịch sử đã cho chúng ta thấy: máy chém mọc lên ở khắp nơi, rồi cướp của giết người xảy ra ở khắp chốn, đến nỗi chịu không nổi cảnh tượng hỗn độn vô trật tự ấy, Robespierre đã phải truyền dán trên khắp các ngả dường những tấm bích chương với hàng chữ: Nhân dân Pháp tin vào Thiên Chúa. Quả thực, khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.

Bây giờ xuống tới lãnh vực cá nhân, số phận của những kẻ chối bỏ Thiên Chúa cũng không hơn gì. Tôi xin đưa ra hai trường hợp điển hình.

Trường hợp thứ nhất là trường hợp của Mirabeau. Ông là người đi tiên phong cho cuộc cách mạng Pháp, hăng hái đả phá Giáo hội và chối bỏ Thiên Chúa. Nhưng rồi sau đó, ông đã phải đau khổ và tuyệt vọng, nhất là khi phải đối đầu với cái chết. Ông đã chết bằng một cái chết đớn đau và điên khùng.

Trường hợp thú hai là trường hợp của Voltaire. Suốt đời, ông đã tìm cách hạ bệ Thiên Chúa và Giáo hội. Chính ông vàp năm 1753 đã viết: Thiên Chúa phải về hưu vì đã hết thời. Đúng hai mươi năm sau, nghĩa là vào năm 1773 ông đã chết một cách thê thảm, tru tréo như một con chó dại, đến nỗi bà giúp việc phải thốt lên: Nếu quỉ có thể chết, thì cũng không chết một cách dữ tợn hơn Voltaire. Thiên Chúa vẫn còn mãi, nhưng khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.

Từ những sự việc cụ thể xảy ra cho cá nhân cũng như cho dân tộc, tôi muốn đi tới một kết luận:

– Xe trước đã đổ, thì xe sau phải coi chừng.

Xem người phải nghĩ đến thân, bẳng không, nếu cứ bình chân như vại, đắm chìm trong tội lỗi, chắc chắn số phận chúng ta cũng sẽ không hơn gì bởi vì chủ vườn nho sẽ triệt hạ hết những kẻ xằng bậy và sẽ trao vườn nho cho người khác. Như thế có nghĩa là Nước Trời sẽ bị cất khỏi bàn tay chúng ta, đề rồi chúng ta sẽ bị trầm luân muôn kiếp.

 

33. Vườn nho của Chúa

(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. DẪN NHẬP

Ngày xưa Thiên Chúa đã chọn Israel là dân riêng của Ngài và coi dân Ngài như “vườn nho” được Ngài săn sóc cẩn thận. Ngài chỉ mong cho vườn nho đem lại nhiều hoa quả tốt tươi, nhưng vườn nho chỉ đem lại những trái nho dại đắng đót. Cả những người trồng nho cũng phản loạn, bất trung trong việc canh tác, nên Thiên Chúa đã trao vườn nho cho người khác.

Ngày nay, chúng ta cũng được coi là vườn nho mới của Chúa. Tất cả những gì Chúa ân cần săn sóc ban cho đều là hồng ân của Chúa. Chúng ta được tự do hành động, sắp xếp công việc theo ý ta, nhưng ta phải chịu trách nhiệm về những việc làm ấy. Bổn phận của chúng ta là phải cố gắng làm việc cho tốt để đáp lại tình thương của Chúa đối với chúng ta.

Sách có chữ rằng:”Tiền xa ký phúc, hậu xa khả giới”: Xe trước đổ, xe sau phải coi chừng. Dân Do thái ngày xưa đã bất trung nên đã bị Thiên Chúa ruồng bỏ. Ngày nay chúng ta là dân Do thái mới được Thiên Chúa săn sóc giữ gìn, chúng ta phải tránh xa vết xe cũ kẻo phải hư đi, nhưng phải trung thành với những hồng ân Chúa ban, bằng cách làm cho ơn Chúa được sinh hoa kết quả dồi dào trong đời sống; đồng thời cũng phải biết chia sẻ cho người khác nữa.

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Is 5,1-7.

Tiên tri Isaia đã dùng “bài ca cây nho” để nói lên tình yêu của Thiên Chúa đã yêu dân Chúa như thế nào và dân Chúa đã đáp lại ra sao. Trong dụ ngôn này, “vườn nho” tượng trưng cho dân Israel. Thiên Chúa đã yêu thương và săn sóc dân Chúa như thế nào, Ngài chỉ muốn cho nó sinh ra những hoa trái ngon ngọt. Nhưng than ôi! trước sự yêu thương và săn sóc của Thiên Chúa, dân Chúa vẫn bất trung, bạc tình bạc nghĩa giống như vườn nho chỉ sinh ra những trái nho đắng đót.

Trước sự bất trung ấy, Thiên Chúa định bỏ mặc dân Israel cho quân thù giấy xéo, phải làm tôi ngoại bang. bị đi lưu đầy. Thực tế đã chứng minh: những sự việc này đã xẩy ra trong lịch sự dân Israel.

+ Bài đọc 2: Pl 4, 6-9.

Gặp những hoàn cảnh khó khăn, nhiều người tỏ ra xao xuyến ngã lòng, thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu Philipphê hãy trút bỏ mọi lo âu và hãy tin tưởng vào Chúa để được bình an trong tâm hồn. Ngài đưa ra cho tín hữu bí quyết để đón nhận được sự bình an ấy:

  1. a) Hãy cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh:”Anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bầy trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện”.
  2. b) Hãy sống với lương tâm trong sáng và hãy đem ra thực hành những điều đã được học hỏi nơi thánh Phaolô.

+ Bài Tin mừng: Mt 21, 33-43.

Chúa Giêsu muốn dùng dụ ngôn này để cảnh giác các nhà lãnh đạo Do thái: vua chúa, luật sĩ, biệt phái và những tư tế. Thiên Chúa đã giao dân Chúa – là cây nho qúi – cho những nhà lãnh đạo Do thái, nhưng những người này lại khai thác cây nho để hưởng lợi riêng, bách hại những tiên tri, những sứ giả của Thiên Chúa và giết cả Con của Người.

Đồng thời Chúa Giêsu cũng cảnh cáo dân Do thái: đáng lẽ dân Do thái phải biết ơn Chúa khi gọi họ vào Nước Trời, và đáp lại họ phải có một đời sống tốt, như một phần hoa lợi nộp cho Thiên Chúa là chủ vườn nho. Nhưng chẳng những họ không làm thế mà còn giết luôn cả Chúa Giêsu, Con duy nhất của Thiên Chúa.

Do đó, Chúa Giêsu kết luận:”Nước Thiên Chúa, Người sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi”.

  1. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Hãy sinh hoa trái tốt

  1. TÌM HIỂU DỤ NGÔN.
  2. Tục lệ trồng nho ở Palestine.

Palestine là một vùng đồi núi thích hợp cho việc trồng nho, nên trồng nho là một nghề rất quen thuộc. Chúa Giêsu muốn dùng vườn nho để làm dụ ngôn. Vườn nho thường có hàng rào làm bằng hàng rào gai dầy để ngăn chặn heo rừng vào phá và kẻ trộm có thể vào ăn trộm nho. Mỗi vườn nho đếu có hầm ép rượu gồm hai cái chậu đục từ đá hay xây bằng gạch, cái này đặt cao hơn cái kia và nối với nhau bằng hai cái rãnh. Nho được ép từ chậu cao sẽ chảy xuống chậu thấp. Cái tháp trong vườn được dùng cho hai mục đích. Nó dùng làm chòi canh kẻ trộm khi mùa nho chín và làm chỗ ở cho người làm việc trong vườn nho.

Những người có nhiều đất thì thường đem đất đai cho mướn, giống như ở Việt nam xưa cho tá điền phát canh thu tô. Tiền cho mướn phải trả bằng ba cách: bằng tiền, bằng số trái cây nhất định hoặc bằng số bách phân của hoa mầu.

Hành động của những người trồng nho mướn cũng không phải là việc bất thường. Trong thời Chúa Giêsu, xứ Palestine ở vào thời kinh tế bất ổn, người làm công bất mãn và làm loạn. Hành động của những tá điền tìm giết con chủ vườn không phải là chuyện không xẩy ra.

  1. Ý nghĩa dụ ngôn.

Bài Tin mừng hôm nay thuật lại dụ ngôn những người làm vườn nho giết người, để trình bầy về sự tương phản giữa tình yêu của Thiên Chúa với sự độc ác của những kẻ bất trung vô ơn bội nghĩa với tình thương yêu ấy.

Theo từng chi tiết, vườn nho ám chỉ Nước Thiên Chúa hay là Nước Trời được trao cho dân Do thái. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Những người thợ làm vườn nho là giới lãnh đạo, là những người đứng đầu trong dân. Các đầy tớ là các tiên tri, những sứ giả được Thiên Chúa sai đến đều bị ngược đãi hoặc bị giết chết. Trước thái độ bất nhân bất nghĩa đó, Nước Thiên Chúa được chuyển sang cho một dân tộc khác là Hội thánh, một dân phổ quát và Công giáo, sẽ lan tràn trên khắp thế giới.

Ý nghĩa câu chuyện thật rõ ràng đối với thính giả Do thái thời Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã chọn người Do thái làm dân riêng của Ngài, đã ban cho họ mọi sự có thể, nhưng họ bác bỏ và giết chết các tiên tri của Thiên Chúa và đóng đinh chính Con của Ngài chết trên thập giá.

Rồi Thiên Chúa kêu mời những người Do thái, là chúng ta đây, làm những tá điền mới trong vườn nho của Ngài, làm công dân mới trong Nước Thiên Chúa. Cũng vậy, chúng ta phải làm sinh hoa lợi, phải nộp một loại “tiền thuế”, một loại “dịch vụ”, một loại “nợ” về ân huệ gia nhập dân Chúa.

  1. NHỮNG BÀI HỌC CHO CHÚNG TA.

Đọc dụ ngôn này, chúng ta có thể rút ra được mấy bài học để thực hành trong đời sống hằng ngày:

– Lòng yêu thương và kiên nhẫn của Thiên Chúa.

– Sự tự do của con người trong cuộc sống.

– Phải sinh hoa trái tốt trong đời sống.

  1. Lòng yêu thương và kiên nhẫn của Thiên Chúa.

Suy nghĩ về thái độ của ông chủ vườn nho đối với các tá điền, ta thấy chủ vườn nho đã cố gắng tới ba lần để giúp các tá điền thay đổi đường lối. Ông sai hết người đại diện này đến người đại diện khác đến với họ. Ông không đến báo thù ngay khi người đại diện ban đầu bị ngược đãi, ông cho những người tá điền hết cơ hội này đến cơ hội khác để đáp ứng đòi hỏi của ông. Khi ông thấy rằng có kiên nhẫn hơn nữa cũng vô ích, ông ta mới ra tay xét xử đám này và bắt họ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Cuối cùng, ông chủ lấy lại vườn nho và trao lại cho người khác.

Thiên Chúa cũng cư xử với chúng ta y như thế. Cha chúng ta trên trời vô cùng kiên nhẫn. Nhưng rồi sẽ đến lúc sự kiên nhẫn của Chúa sẽ nhường bước cho sự xét xử. Và chúng ta cũng sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình.

  1. Sự tự do của con người.

Ông chủ vườn nho đã sắp xếp mọi thứ: có hàng rào, có hầm ép rượu và tháp canh để giúp cho công việc được dễ dàng. Ông chủ không những giao công việc để làm, mà còn giao phương tiện để làm nữa. Ông chủ vườn để những người tá điền làm công việc theo sở thích của mình và chỉ đòi họ canh tác để đến mùa thu hoa lợi, chứ không phải là người độc đoán, ông như một vị chỉ huy khôn ngoan trao công tác rồi để cho họ làm.

Điều này nói lên ông chủ tín nhiệm các tá điền. Nhưng có những tá điền không làm đúng công việc của mình, họ đã lạm dụng tự do ông chủ ban cho để tìm lợi lộc riêng. Họ đã phụ lòng tin của ông chủ. Những người tá điền cố tình thực hiện kế hoạch chống lại và không vâng phục chủ mình.

Mỗi người chúng ta là một tá điền mà Thiên Chúa trao phó cho một vườn nho, là những ơn phúc và chúng ta có bổn phận đem hoa lợi về cho Chúa. Ngài để cho chúng ta hoàn toàn tự do sắp xếp công việc theo sáng kiến riêng và chịu trách nhiệm về những việc chúng ta làm.

  1. Phải làm nảy sinh ra hoa trái tốt.
  2. a) Những ơn lành đã nhận.

Tất cả mọi cái chúng ta có là do Chúa mà có, ngay cả con người chúng ta, mạng sống chúng ta. Chúng ta phải nói như thánh Phaolô:”Tất cả là hồng ân”. Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đặt một câu hỏi khiến mọi người chúng ta phải suy nghĩ:”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận” (1Cr 4,7).

Thật vậy, những ân phúc Chúa ban như những tài năng tinh thần, những của cải vật chất, chúng ta phải biết xử dụng để sinh lợi tối đa, tức là chúng ta phải làm việc và làm lợi cho Chúa. Mỗi người Chúa ban cho một vốn liếng khác nhau không ai giống ai: người mười nén, người năm nén, người một nén… nhưng tất cả đều giống nhau ở chỗ là phải cố gắng làm sinh lời tùy theo sức của mình. Chúa chỉ đòi chúng ta cố gắng chứ không đòi kết quả.

Tóm lại, tất cả đều do Chúa ban. Chúng ta đúng là một vườn nho được Chúa chăm sóc ân cần.

Chúa chờ đợi gì nơi ta?

Chúa muốn chúng ta nhận biết tất cả là bởi Chúa. Thế mà chúng ta vô tình coi những thứ đó là của riêng ta. Như thế, chúng ta cũng giống như những tá điền muốn chiếm đoạt vườn nho của chủ. Nhiều khi chúng ta chỉ biết dùng những thứ ấy cho riêng mình mà không nghĩ tới tha nhân, Giáo hội và xã hội.

Ngoài ra, trong việc làm sinh hoa kết quả trong đời sống, tâm lý thông thường con người ta là muốn làm việc lớn, được nhiều lợi nhuận, được nhiều người biết đến. Nhưng trước mặt Chúa, mọi việc dù lớn dù nhỏ không quan hệ, miễn là chúng ta làm việc cho Chúa, vì Chúa và làm hết khả năng của mình.

Trong cuộc sống của chúng ta, chẳng mấy khi có việc lớn mà chỉ là những việc nhỏ, nhưng trung thành chu toàn được những việc nhỏ lại là việc khó như ngạn ngữ La tinh có câu: “Communia, non communiter”: làm công việc tầm thường nhưng bằng một cách phi thường. Thánh Têrêsa Hài đồng đã làm gương cho chúng ta về vấn đề này.

Không ai có thể làm việc lớn cho Chúa nếu trước hết không làm những việc nhỏ cho Ngài. Nếu không trung thành trong những việc nhỏ thì không ai tin tưởng mà trao cho chúng ta việc lớn hơn. Kinh thánh nói:”Ai trung thành trong việc nhỏ mọn cũng sẽ trung thành trong việc lớn” (Mt 25,21; Lc 19,17)

Truyện: Vị thiên thần dễ tính.

Ngày kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền năng của Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện:”Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có sức làm những việc thông thường”. Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi sau cùng sức khỏe cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi sức khỏe ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.

Ngược lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tốt những việc bình thường. Vị thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm:”Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu”. Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc đời mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương thiện, một người chồng chung thủy, một người cha hiền tận tụy với con cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.

Biết nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân (Phạm Văn Phượng, Chia sẻ Tin mừng CN, năm A, tr 212-213).

  1. b) Lãnh nhận và cho đi.

Ta nhắc lại một lần nữa lời thánh Phaolô:”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận”(1Cr 4,7). Phải, tất cả những gì ta đang có là do ta lãnh nhận từ tay Chúa, một cách trực tiếp hay gián tiếp. Nhưng không chỉ nhận, ta còn phải biết cho, bởi vì, trên căn bản, ta nhận không phải chỉ cho riêng mình mà còn cho người khác nữa.

Con sông chỉ nhận nước vào mà không cho nước thoát ra thì không thể nhận thêm nước được, nó sẽ trở thành cái ao tù. Nó phải phân phối nước đi thì nó mới trở nên trong sạch được bằng cách nhận thêm nước khác. Nước Biển Chết là một thứ nước mặn chát, hôi thối vì chỉ nhận nước tư các sông chảy vào mà không có lối thoát ra, không phân phát cho cho các nhánh khác.

Có một mối tương quan biện chứng giữa nhận và cho: đã nhận thì phải cho đi, cho đi thì mới nhận vào được, nếu chỉ nhận mà không cho đi thì bị tắc nghẽn. Con người cũng thế, nếu chỉ biết nhận lãnh cho mình mà không biết chia sẻ cho nguời khác thì người đó chỉ biết co cụm lại, thay vì làm giầu thì chỉ làm cho mình nghèo đi. Những người chỉ biết co cụm lại không thông ra cho người khác thì không bao giờ có niềm vui vì người ta chỉ có thể có niềm vui khi mở lòng ra với người khác.

Truyện: Không biết chia sẻ.

Một người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn đó là điều mà con người may mắm này đã cảm nhận được.

Tuy nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi hỏi, đòi hỏi thách thức nhất của người nghèo bỗng nhiên trở thành giầu có là: hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc, bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ, trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó là thói thường của người đời.

Kẻ trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy, lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi người. Nhưng dần dà con số người đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng, cho đến một lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên. Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn nữa.

Một hôm, ông đề nghị với vợ:

– Hay là ta dọn đi một nơi khác.

Người vợ lắc đầu bảo:

– Mình có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.

Nhưng người chồng giải thích:

– Mình sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết mình sẽ đi đâu, và sẽ cố gắng sống một cách đơn giản để không ai để ý đến mình nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho biết mình đã trúng số.

Người vợ thắc mắc:

– Còn tiền bạc thì mình để ở đâu?

Chồng trả lời dứt khoát:

– Mình sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể không hề trúng số, chỉ đem ra dùng khi nào cần thiết mà thôi.

Thế là cả gia đình đã dọn đến một nơi khác như dự kiến: họ lén lút ra đi nên không ai biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn quá nhỏ nên không biết việc gì đã xẩy ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột. Ngày qua ngày, chính họ cũng quên rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết thì tất cả mọi tài sản đều mất hết. Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để trao lại tài sản cho chúng.

Câu chuyện ngụ ngôn trên đây nhắc cho chúng ta lời khuyên của Chúa Giêsu:”Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho đi nhưng không”. Tất cả những gì Chúa ban cho ta, không phải chỉ dành cho riêng mình nhưng còn phải cho kẻ khác nữa. Chúng ta chỉ có được niềm vui khi chúng ta biết mở lòng ra với người khác. Còn niềm vui nào lớn hơn khi niềm tin được sinh lợi bằng những hoa trái của yêu thương, của phục vụ. Còn niềm vui nào lớn hơn khi chúng ta cảm nhận được Chúa đang đến qua từng cố gắng sống niềm yêu thương chia sẻ của chúng ta mỗi ngày trong cuộc sống.

 

home Mục lục Lưu trữ