Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 59
Tổng truy cập: 1363500
CƠN CÁM DỖ CUỐI CÙNG
CƠN CÁM DỖ CUỐI CÙNG
(Trích từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn tùy tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi: - Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười
Án Tử trả lời:
- Nếu các vua đời trước mà sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được?
Vua trần gian có thần dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan.
Chúa Giêsu trái lại, Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định: “Nước tôi không thuộc về thế gian này”. Vì thế, cung cách của vị vua Giêsu hoàn toàn mới lạ. Tin Mừng hôm nay sẽ nói lên tính cách Vương Quyền ấy của Người.
Dưới hình thức nhạo báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập giá, đã nói lên vương quyền của Chúa Giêsu: “Hắn đã cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa tuyển chọn” “Đấng Kitô” chính là người được xức dầu, là tước hiệu của vua. “Người Thiên Chúa tuyển chọn” chính là tước hiệu Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Nhất là lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói lên vương quyền của Người: “Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến tôi”.
Tuy nhiên, Nước của Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng không để ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình Yêu, vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không “xuống khỏi thập giá” cách ngoạn mục, nhưng đã “kéo mọi người” lên với Người. Người đã không “cứu lấy chính mình”, nhưng đã “cứu lấy mọi người” khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của Người.
Người đã sẵn lòng chịu chết giữa hai tên gian phi, như lời Kinh thánh rằng: “Người đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân”. Người đã hòa mình trong đám người tội lỗi, đã chịu chung số phận của họ, Người đã sống và đã chết giữa đám tội nhân, như lời đồn đại về Người: “Bạn của người thu thuế và phường tội lỗi”.
Vâng, vương quyền của Người không cai trị bằng sức mạnh biểu dương, nhưng chinh phục bằng “khối” tình yêu thương. Chính vì thế mà Người đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng, là lời thách thức xuống khỏi thập giá, để sẵn lòng chịu chết hầu cứu chuộc con người tội lỗi, chính là thần dân của Người.
Thần dân đầu tiên mà vị vua có vương miện là mão gai, và ngai vàng là gỗ thánh giá đã chinh phục, chính là người trộm lành. Giữa lúc những kẻ trước đây tung hô vạn tuế nay lại nhạo báng Người, giữa lúc các môn đệ thề sống chết với Người nay lại bỏ trốn hết, thì chỉ có một mình anh, người trộm lành, lên tiếng bênh vực Người: Anh mắng người trộm dữ: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này có làm điều gì trái!” Anh tỏ lòng kính sợ Chúa và ăn năn sám hối, đó là thái độ của người sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ.
Hơn nữa giữa lúc chương trình của Chúa Giêsu dường như thất bại, không còn hy vọng cứu vãn; giữa lúc thập tử nhất sinh, gần kề cái chết, thì chỉ mình anh, người trộm lành, đã tin vào Chúa, tin vào sự sống đời sau, và tin vào vương quyền của Người. Anh cầu nguyện: “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Người nhận lời tức khắc: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Một lời hứa mà Người chưa hề ban cho ai dù đó là người thân tín và yêu quí nhất của Người.
Một lời hứa được thực hiện ngay tức thì, không đợi đến sáng Phục sinh hay ngày thế mạt.
Một lời hứa đi vào vương quốc của những người công chính, qui tụ quanh vua Giêsu vinh hiển.
Lời hứa ban hạnh phúc cho anh trộm lành chính là cuộc sống thân mật với vua Giêsu, mà anh đã chia sẻ số phận của Người trên thập giá. Cuộc đời của anh tưởng chừng như vĩnh viễn khép lại, nhưng chỉ với một chút niềm tin trong anh bừng sáng, một lòng sám hối chân thành, đã khiến cửa trời rộng mở, đón tiếp anh thênh thang bước vào. Chính từ khi anh trộm lành nhận ra người tử tù bị đóng đinh là vua trời, nhận ra sự sống trong cõi chết, phục sinh trong tử nạn, thì vua Giêsu tiếp tục lan rộng cuộc chinh phục đến viên đại đội trưởng khiến ông cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: “Người này quả thật là công chính”.
Và trong suốt 2000 năm qua, Người vẫn luôn đón nhận vào trong vương quốc tình yêu của Người; những thần dân biết duy trì tinh thần hiệp nhất, phục vụ và yêu thương. Chỉ những ai biết sám hối ăn năn, tin nhận vào quyền năng và tình thương của Chúa như anh trộm lành, mới được vào trong vương quốc của Người. Chỉ những người biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời.
Lạy Chúa, xin cho đức tin chúng con đủ mạnh để thấy Chúa không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Người.
Xin dạy chúng con luôn cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này, nhờ biết đẩy lui sự dữ trên địa cầu, trong khi kiến tạo an bình và yêu thương. Amen.
65.Chúa Giêsu là Vua
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo hội cử hành lễ trọng kính Chúa Kitô Vua Vũ Trụ. Đức Kitô là Chúa, là Vua chúng ta. Nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này. Trong năm phụng vụ chúng ta đã thấy xuất hiện các sự kiện tiên tri như sự tôn kính của các nhà đạo sĩ, xức dầu tại Bêthania, hoặc qua các dụ ngôn... xác định Đức Kitô như là "Vua", theo ý nghĩa "Thiên Sai", nghĩa là "kẻ thừa tự ngai vua Đavid, thể theo những lời hứa của các tiên tri, thừa hưởng vương quốc không bao giờ cùng tận (x. Lc 1,32-33).
Hôm nay, chúng ta cử hành với niềm vui khôn tả và quả quyết rằng Đức Giêsu là Vua. Câu hỏi được đặt ra: Vậy Ngài là Vua những gì? Câu trả lời: Đức Giêsu không là vua của những gì hết. Ngài là Vua vinh quang, Vua mọi sự. Đơn giản, Ngài là Vua, hoàn toàn là Vua. Thực tế xem ra khó chấp nhận, vì con người muốn biến Đức Giêsu trở nên trò cười khi mặc cho Ngài áo tím và đội mão gãi.
Các bản văn phụng vụ trình bày vương quốc của Đức Giêsu như một bức tranh đầy ấn tượng. Mỗi lần đọc nhấn mạnh vai trò trung tâm của Chúa Kitô. Ngài là Chúa Cứu Thế, Người đã được xức dầu (x. 1Col 1, 12-20), Ngài là Thiên Chúa duy nhất của vũ hoàn, trong đó chúng ta là anh em, Ngài là Vua khiêm nhường, luôn nhớ kẻ có tội mà phải chịu đau khổ.
Thánh giá thẳng đứng trong vinh quang. Ngai vàng, gợi lên những sự khiêu khích. Ba lần Đức Giêsu bị hỏi: "Nếu ông là Đấng Kitô" (x. Lc 23, 35-43). Mỗi nhóm cáo buộc Ngài đều hỏi về tình trạng cá nhân của chính Ngài. Các nhà lãnh đạo tôn giáo mong đợi Người Thiên Chúa tuyển chọn nên hỏi: "Nếu ông là Đấng Mê-si" (Lc 23, 35). Những tên lính bảo vệ sức mạnh của Đế chế La Mã, thách thức Ngài: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi"(Lc 23, 38). Một tên trôm cướp cùng bị đóng đinh cũng kêu lên trong đau đớn nhằm thoát khỏi cái chết: "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa" (Lc 23, 40). Địa vị của họ khác nhau, nhưng họ lại giống nhau ở điểm thách thức Chúa: "Ông hãy tự cứu mình đi!" Như thể thách Đức
Giêsu xuống khỏi thập giá để chứng minh vương quốc của mình! Đây là cơn dám dỗ cuối cùng. Nhưng Chúa Kitô đã không đến thế gian để biểu dương sức mạnh của Ngài cho ta thấy, Ngài đến để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa Cha và nhân loại với nhau, đồng thời ban lại cho chúng ta tự do đã bị đánh mất vì tội, nhất là trao ban cho chúng ta chính tình yêu. Khi chịu treo thên thập giá Đức Giêsu đã mạc khải vinh quang của Ngài, Ngài là Con Chiên bị sát tế để xóa tội trần gian.
Giữa những lời nhạo báng và thách thức, có một lời công nhận vương quốc của Thiên Chúa. Anh thì thầm: " Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi" (Lc 23, 42). Một tên trộm bị đóng đinh công nhận Đức Giêsu là Vua, thế là Ngài cho anh vào vương quốc của Ngài như anh xin: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta"(Lc 23, 42).
Vương quốc của Vua Giêsu không hão huyền, trừu tượng, vương quốc ấy có mặt ngay hôm nay, nơi Chúa Kitô hiện diện. Như vậy, bản cáo trạng chống lại Đức Giêsu viết, "Đây là Vua dân Do Thái " là thật trớ trêu, bởi từ trên thập giá vương quốc của Đức Kitô tỏa sáng vinh quang. Điều mà theo ý các kẻ thù của Người có thể là sự biện minh cho bản án của Ngài, thì trong con mắt của Cha trên trời, đó là sự công bố quyền cai trị phổ quát của Vua Giêsu. Cái chết của Ngài trên thập giá là hành động đẹp nhất chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.
"Chúng ta hãy vui mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho chúng ta trở nên xứng đáng chung hưởng phần gia nghiệp... trong cõi đầy ánh sáng". Cùng với Thánh Phaolô, chúng ta vui mừng hân hoan và biết ơn vì chúng ta được kêu gọi trở nên thành phần của Vương quốc Vua Kitô: "Người giải thoát ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử chúng ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi" (Cl 1, 12-20). Nhờ sự chết của Ngài, Vua Giêsu đã hòa giải tất cả mọi sinh linh; "nhờ máu Người đổ ra trên thập giá" Ngài đã đóng ấn một giao ước muôn đời. Khi phục sinh, Thiên Chúa Cha tôn phong Ngài làm Vua và là "trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại", "Người là đầu của thân thể, nghĩa là đầu Hội Thánh." Bài thánh ca được hát bởi Thánh Phaolô, kỷ niệm sự vĩ đại vô song của Chúa Kitô, và đưa chúng ta đến chiêm ngắm Thánh giá, nơi vương quyền của Chúa Giêsu Kitô được tỏ hiện.
Ai sẽ loan báo cho thế giới vương quốc của Đức Giêsu, nếu không phải là những chi thể của Thân Thể Người? Một vị vua không được thiết lập chỉ để ngưỡng mộ và tôn thờ, sứ mạng của vị vua sẽ vô hiệu, nếu đối tượng của mình không phục vụ. Câu hỏi đặt ra cho chúng ta trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Kitô có phải là Vua và là Chúa của đời tôi không? Ai hiển trị trong tôi, ai đặt những mục tiêu và thiết lập những ưu tiên: Chúa Kitô hay ai khác? Theo Thánh Phaolô, có hai con đường có thể để sống: "hoặc cho mình hay cho Chúa" (x. Rm 14:7-9), vậy tôi sống cho chính mình hay sống cho Chúa?
Lạy Chúa Giêsu là Vua các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo cung chúc tôn thờ và cảm tạ Vua Giêsu, Vua Tình Yêu. Xin cho đời chúng con thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua vũ hoàn nhiệt thành phục vụ Chúa và tha nhân. Lạy Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, mọi vinh quang và danh dự cho Thiên Chúa Cha đến muôn đời. Amen.
66.Vương quốc tình yêu.
Benjamin Franklin, một con người say mê sách vở, đã viết một tấm bia cho chính ông, mà ông hy vọng rằng nó sẽ được đặt trên phần mộ của ông. Tấm bia như thế này: "Thân xác của Benjamin Franklin, tựa như bao bìa của một cuốn sách cũ, những gì của nó bị xé bỏ và tẩy đi cả chữ khắc mạ vàng của nó nữa, và nó nằm đây cho dòi bọ; nhưng tác phẩm của nó sẽ không bị mất, vì nó sẽ được tái hiện một lần nữa trong hình thức mới với nhiều vẻ đẹp huy hoàng hơn, và được tu sửa bởi tác giả, như nó đã tin.
Franklin đã nói đúng: "Tác phẩm của ông sẽ không bị mất!" Benjamin Franklin cũng không bị mất! Quí bạn sẽ không bị mất! Cả tôi cũng không bị mất! Thiên Chúa, Cha chúng ta, sẽ không bỏ rơi chúng ta. Đức Kitô, Vua chúng ta, đã hứa cho chúng ta được vào Vương Quốc Tình Yêu muôn thuở của Ngài trong đời sống mới.
Vương Quốc Tình Yêu được thể hiện qua tình yêu của chúng ta đối với mọi người. Qua cảm nghiệm của tình yêu, ở nơi đây và trong lúc này, Thiên Chúa nhân từ đã ban cho chúng ta một chút cảm nghiệm của sự toàn hảo để vào Nước Tình Yêu Vĩnh Hằng của Ngài. "Chúa Giêsu đến không chỉ mang nhân loại vào thiên đàng, nhưng còn mang thiên đàng vào trong nhân loại; lại nữa không chỉ mang nhân loại ra khỏi địa ngục, nhưng còn mang địa ngục ra khỏi nhân loại."
Thật là lạ lùng cao cả thay những chương trình và mục đích Mầu Nhiệm của Thiên Chúa! "Đây là Vua dân Do thái," những chữ này có thể nhìn thấy nơi bảng viết được treo phía trên đầu Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Vua gì? Chắc chắn không phải con người đầy thương tích và máu me bị án phạt dã man đã bị treo trên Thánh Giá! Thưa Vâng! Chính là Con Người này! Người đã nhận lấy dụng cụ xử hình mà biến đổi thành biểu ngữ hy vọng chiến thắng của sự nhân từ.
Trong sách Samuel, chúng ta đọc thấy Chúa phán cùng Đa-vít rằng, "Ngươi sẽ là người dắt dân Israel của Ta, và ngươi sẽ là lãnh tụ của chúng. Bởi đó họ đã xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Israel... và ông đã cai trị suốt 40 năm trên toàn Israel và Giuđa" (2 Sam. 5:3,5). Kể từ đó Giáo Ước giữa Thiên Chúa, Vua Đa-vít, và toàn dân được thiết lập, và Giao Ước đó ngày nay vẫn còn uy quyền.
Hiện nay, ở Jerusalem, Pari, New York, Madrid, Morocco, Buenos Aries, trên toàn thế giới, và ngay tại đây, Đức Kitô, Con Vua Đa-vít, được xưng tụng là Vua Kitô! Vua Kitô đã mang ý nghĩa đến cho sự hiện hữu vô lý và không quan trọng mỗi người chúng ta. Vua Kitô bảo đảm cho chúng ta rằng bất sự gì là sự thật, tốt lành, và đẹp đẽ -- bất kể nó bị xem như hiện nay bị đả bại -- thì sẽ được bào chữa và hoàn hảo khi Thiên Quốc ngự đến.
"Nước Ta không thuộc thến gian này," Chúa Giêsu đã nói với Philatô như thế. Vương Quốc của Đức Kitô không xây dựng như những vương quốc trần ai khác. Vương Quốc của Đức Kitô không xây trên nền móng những hiến pháp, sắc lệnh, súng ống, và khủng bố, cũng không dựa trên những giao tiếp xã hội mơ hồ, như những nhà chính trị triết gia đặt nó. Không, Vương Quốc của Đức Kitô được thiết lập trên Giao Ước Tình Yêu. Nhưng thế giới chưa được sẵn sàng để sống bằng Giao Ước này. Chỉ khi nào Tình Yêu Thiên Chúa hoàn toàn ngự trị trong mỗi tâm hồn và đời sống của mọi người thì Vương Quốc đó sẽ toàn vẹn. Thời gian đó sẽ đến! Thiên Chúa đã hứa như thế.
Qua cuộc chiến thắng sự chết của Chúa Giêsu, Quyền Lực Hồi Sinh của Thiên Chúa đã ban phát. Từ khi sự chết bị đánh gục, sợ hãi không còn thị oai hay đánh ngã được những ai sống trong Chúa nhờ đức tin. Chúng ta, con dân của Giao Ước tin tưởng rằng: cùng một Thiên Chúa, Đấng đã làm Chúa Giêsu phục sinh từ cõi chết cũng sẽ nâng dậy tất cả những ai tin nơi Ngài.
Như một điệp khúc được lập đi lập lại nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy rằng sự toàn hảo của chúng ta là vô kỷ và vị tha. Chúa Giêsu nói, "Hãy yêu tha nhân như chính Ngài đã yêu chúng ta." Chúa Giêsu đã dạy bài học này, bằng lời nói cũng như việc làm cho tới hơi thở cuối cùng trên Thánh Giá. Ngài bị treo giữa hai tên cướp, mà một kẻ thì chỉ lo cho riêng thân mình, còn người kia lại tỏ lộ sự lo lắng cho Chúa Giêsu. "Chúng ta chỉ phải trả cho những gì chúng ta đã làm," người ấy nói, "Nhưng ông này đã làm gì sai đâu." Bởi đó mà Chúa Giêsu dù đang hấp hối cũng đã trả lời, "Ta bảo thật: ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta" (Lk. 23:43).
Có một câu chuyện ở Đông Phương kể rằng có một người đàn ông kêu xin từ vực sâu địa ngục cho được thả ra. Ông ta bị hỏi là đã làm được gì tốt khi còn sống. Ông ta chỉ có thể nhớ có một việc duy nhất là ông đã không giết một con nhện khi ông tản bộ trong vườn. Ngay lúc ấy một sợi tơ nhện mong manh màu bạc được thà xuống cho ông. Ông vội vã nắm thật chặt vào sợi tơ và ông đã từ từ kéo lên khỏi nơi khốn khổ ấy. Lúc bấy giờ, những người cùng khổ với ông, thấy ông được cứu thoát, cũng vội bám vào áo và chân ông ta, và thế là mọi người được kéo lên. Song ông ta sợ rằng sợi tơ bạc mỏng manh ấy sẽ bị đứt nên ta đã la lên, "Bỏ ra! Buông tôi ra!" Và khi những người kia buông ông ta ra, sợi tơ cũng bị đứt theo và thế là tất cả lại tỏm xuống địa ngục. Mặc dầu sợi tơ nhện bền đủ để nâng tất cả mọi người lên nhưng lại không đủ chắc để chịu sức nặng của một linh hồn ích kỷ.
"Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến tôi khi Ngài vào nước Ngài." Chúa Giêsu nhìn rõ chúng ta là ai và yêu chúng ta như chúng ta là: Con cái yêu dấu của Thiên Chúa.
67.Đức Giêsu- Vua Tình Yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
Ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính trọng thể Đức Yêsu Kitô Vua.
Vua: người trổi vượt trên tất cả
Vua là người trổi vượt hơn người khác, thắng được tất cả, nên có quyền trên người khác. Lịch sử Việt Nam cho thấy, sau “ngàn năm nô lệ giặc Tàu” Đinh Bộ Lĩnh là người đầu tiên thắng được các sứ quân và là vị vua đầu tiên “Đinh Tiên Hoàng”. Ngày nay khi người ta nói vua bóng đá, người ta nhắc tới người chơi bóng đá rất giỏi và trổi vượt hơn người khác, chẳng hạn như Pélé và Maradona. Khi nhắc tới môn cờ vua, người ta nhắc tới tên những vua cờ như Karpov và Kasparov.
Đức Yêsu là Vua. Ngài là vua các vua, ngài làm vua cả hoàn vũ này, vì mọi quyền năng trên trời dưới đất đều đã được ban cho Ngài (Mt.28, 18). Đức Yêsu chấp nhận thân phận con người trọn vẹn, Ngài bất lực như tất cả mọi người khi Ngài đang sống đời tại thế, nhưng khi Ngài chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá, Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại, và ban cho Ngài quyền năng trên tất cả trời và đất. Đức Yêsu là vua cả hoàn vũ này.
“Chính để anh em được tự do mà Đức Yêsu đã giải phóng anh em” (Gl.5, 1). Với tình yêu và bằng tình yêu, Đức Yêsu đã giải phóng chúng ta khỏi tất cả, để chúng ta được tự do và làm chủ tất cả. Tình yêu giải phóng chúng ta khỏi nô lệ, và giúp chúng ta làm chủ, làm vua và là người tự do.
Đức Yêsu: người “yêu” trổi vượt tất cả những người đang yêu
Thánh Phaolô trong thư gởi tín hữu ở Colôsê cho thấy Thiên Chúa biểu lộ quyền năng và tình yêu của Ngài nơi Đức Yêsu. Đức Yêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Nhờ Ngài, mọi vật được tạo thành, hữu hình hay vô hình. Mọi vật được tạo thành nhờ Ngài và cho Ngài. Ngài là đầu của Giáo Hội, là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Ngài hoà giải tất cả với Thiên Chúa trong máu Ngài.
Đức Yêsu trổi vượt trên tất cả vì yêu. Ngài là vua tình yêu, không ai yêu mãnh liệt như Ngài. Ngài dám chết, để người Ngài yêu được sống. Ngài hiến mạng Ngài, để thành lương thực nuôi dân Ngài. Ngài để lại cho họ một mệnh lệnh rất đơn sơ: hãy yêu nhau như Ngài yêu họ: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của thầy, là các con yêu thương nhau” (Ga.13, 35). Ngài không đòi con người làm điều gì khác ngoại trừ yêu thương, ngài muốn tất cả những người thuộc về Ngài làm mọi công việc vì yêu thương. “Yêu thương là chu toàn tất cả lề luật”.
Trước những lời nhạo báng của những người ghét Ngài, Ngài vẫn không oán hận. Ngài tha thứ. Ngay trong những lúc cùng quẫn nhất, Ngài vẫn luôn độ lượng, quên mình để yêu thương người khác: “hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Lời của Đức Yêsu cũng là lời tình yêu, đem lại an ủi và ban bình an.
Con vua lại được làm vua: chúng ta được mời gọi làm vua
Vua là nét đặc trưng của Thiên Chúa. Thiên Chúa có quyền trên tất cả, Ngài thống trị vũ trụ, vì vũ trụ đều do Ngài tạo dựng, tất cả phải tùng phục Ngài. Thiên Chúa khi tạo dựng nên con người, Ngài đã trao cho con người sứ mạng và quyền thống trị trên cá biển chim trời (St.1, 28). Làm chủ vũ trụ này, là sứ mạng của con người và của mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài tạo dựng chúng ta qua cha mẹ mỗi người chúng ta. Ngài không tạo dựng chúng ta như những người nô lệ, nhưng như những người tự do, để chúng ta làm chủ vũ trụ này, để chúng ta được cai trị vũ trụ này. “Con vua lại được làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Chúng ta là con Thiên Chúa, Ngài cho chúng ta quyền thống trị trên mặt đất, và Ngài muốn chúng ta làm chủ vũ trụ này với lý trí và tài năng Ngài ban cho chúng ta.
“Được làm vua, thua làm giặc”. Người thắng, làm chủ, làm vua. Người thua, làm nô lệ, làm tôi đòi. Thiên Chúa muốn chúng ta làm chủ, Ngài không muốn chúng ta làm nô lệ, Ngài mời gọi chúng ta chiến thắng chính con người chúng ta, chiến thắng những khuynh chiều xấu nơi mỗi người. Nếu chúng ta thua, chúng ta làm nô lệ cho những khuynh chiều hạ đẳng, chúng ta làm nô lệ xác thịt, nô lệ tiền bạc, nô lệ danh vọng hão huyền. Thiên Chúa muốn chúng ta chiến thắng, Ngài muốn chúng ta làm vua với Ngài, với Đức Yêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Điều gì quý nhất Đức Yêsu đã làm cho bạn?
2. Cách hành xử của bạn có giống cách hành xử của Đức Yêsu không, khi có ai chọc tức làm cho bạn muốn nổi khùng, hoặc khi bạn bị oan ức? Trên đời, liệu có ai có cách hành xử giống cách hành xử của Đức Yêsu không?
3. Nếu được gọi Đức Yêsu với một tước hiệu mà bạn ưng ý nhất, thay vì gọi Đức Kitô Vua thì bạn gọi Ngài bằng tước hiệu nào?
68.Vua kỳ lạ và một thần dân kỳ thú
(Suy niệm của Lm. Anphong Nguyễn Công Minh – lấy phần chính từ cha Hàm)
Hôm nay Lễ Kitô Vua. Nhưng bài Tin Mừng năm C lại cho ta một cung vua khác lạ. Năm A, hoàng cung là nơi Vua phán xét: “Khi Con Người ngự đến trên mây trời…” Năm B, hoàng cung là mượn tạm dinh Philatô: “Phải tôi là Vua.” Còn năm nay, cung điện của Vua Kitô lại chỉ là 2 thanh gỗ kết hình khổ giá với hai thần dân đạo tặc hai bên.
Ta sẽ nói về một trong hai thần dân này, y là tên trộm, mà là tên trộm biết ăn năn, thậm chí ở nhiều nước đạo gốc có nơi còn thờ y như một vị thánh.
Anh ta được gọi bằng những tên khác nhau như Dismas, Demas, Dumachus. Việt phiên âm là Đích Ma. Có người kể hắn là một thứ Robin Hood của Do-thái, chuyên ăn cướp của người giàu để phân phát cho người nghèo. Nhưng chuyện rất đáng yêu kể rằng khi Chúa Giêsu còn nhỏ được gia đình đem sang Ai-cập trốn Herôđê, dọc đường bị một bọn cướp tấn công. Một thanh niên là con của thủ lãnh bọn cướp thấy con trẻ Giêsu dễ thương quá nên không nỡ ra tay, hắn tha Ngài và nói: "Hỡi con trẻ rất có phước, nếu sau này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến tôi, đừng quên giây phút này nhé!" Tên cướp đó là kẻ đã cứu Chúa Giêsu khi còn nhỏ, nay lại gặp Ngài trên thập giá tại đồi Gôn-gô-tha. Lần này thì Chúa Giêsu đã cứu lại anh ta.
Câu chuyện thực hư thế nào không ai được rõ nhưng điều rõ rệt ấy là quang cảnh đóng đinh này đã ứng nghiệm điều mà trước đó cả bảy trăm năm tiên tri I-sai-a đã tuyên sấm: "Ngài đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân" (53,12). Mà chẳng những trong hàng phạm nhân mà thôi, nhưng theo vị trí xếp đặt, Ngài được coi là phạm nhân thượng hạng, là xếp sòng trong bọn đầu trộm đuôi cướp nữa, nếu hai tử tội đứng bên cạnh Ngài đúng là những tên trộm cướp.
Không biết ai đã bày ra cái trò này, xếp đặt thập giá của Ngài ở giữa hai tên cướp.
- Nếu là Phi-la-tô thì quả ông quan xâm lược này muốn làm tăng vẻ khôi hài của bản án mà ông treo trên đầu "Vua Do-thái".
- Cũng có thể do các đầu mục Do-thái, theo dõi kẻ thù đến đỉnh núi Sọ, mua chuộc bọn lính sắp đặt để tăng sỉ nhục cho nạn nhân, “cho biết mặt!”
- Hay có lẽ là chính bọn lính sắp đặt như vậy vì hiển nhiên Ngài là tử tội đáng chú ý hơn cả trong bọn.
Nhưng… nếu đây là một cái gì hiểm độc về phía loài người, thì điều ti tiện trước mặt người đời, lại cao sang trước mặt Thiên Chúa. Điều mà lòng độc ác của loài người bêu xấu Ngài, thì lại tôn vinh Ngài trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, vị trí của Ngài giữa hai tên trộm cướp đúng là địa vị của Ngài.
Bởi, từ lâu Ngài được gán cho danh hiệu "bạn của người thâu thuế và phường tội lỗi" (Mt 11,19). Giờ đây, qua hành động đóng đinh Ngài giữa hai người trộm cướp, ý tưởng ấy được thực hiện cách rõ rệt nhất. Chúa Giêsu đã đến thế gian để tự hòa mình vào đám tội nhân, Ngài đã chịu chung số phận của họ, Ngài đã sống giữa họ, và thật là thích hợp Ngài chết giữa họ. Cho đến lúc này, Ngài đang ở giữa họ. Và thái độ kỳ lạ của hai người đã bị treo hai bên Ngài, là một ứng nghiệm và và là một báo hiệu.
Ứng nghiệm điều cụ Simêon nói về Hài Nhi Giêsu trong Đền Thờ: "Con trẻ này có mệnh làm cho nhiều người trong dân vấp ngã trong khi nhiều người được giải cứu." (Lc 2,34) Và báo hiệu điều sẽ xảy ra luôn luôn sau này, một số người tin nhận Ngài và được cứu, trong lúc một số khác không tin. Lịch sử loài người luôn luôn như thế, Tin Mừng sẽ đem lại sự sống cho nhiều người, và cũng đem lại án phạt cho nhiều người. Tình trạng ấy sẽ kéo dài cho đến ngày tận cùng, Ngài sẽ ở giữa họ, kẻ ăn năn đứng một bên, bên phải, và bên trái Ngài là những kẻ không ăn năn. Mát-thêu và Lu-ca đều ghi lại: “Cả những kẻ bị đóng đinh với Ngài cũng xỉ nhục Ngài,” Lu-ca ghi rõ hơn: Kẻ bên trái mắng nhiếc, kẻ bên phải ăn năn.
Ăn năn cách nào? -Lên tiếng Bênh vực. Giữa lúc những kẻ trước đây cuồng nhiệt tung hô nay lại phản đối Ngài, giữa lúc đám môn đệ thề quyết trung tín bỏ trốn hết, thì một mình tên trộm lên tiếng bênh vực Ngài.
Nếu chàng thanh niên con của góa phụ thành Na-im, được cải tử hoàn sinh, lên tiếng tin vào quyền năng của Đấng xem ra mất hết quyền đế vương; nếu Phê-rô đã từng chứng kiến Chúa biến hình trên núi, tuyên xưng Đấng “coi vậy chứ không phải vậy”; nếu anh mù thành Giê-ri-khô đứng lên công nhận thần tính nơi Ngài …, chúng ta không ngạc nhiên. Phải, nếu một trong những người trước đây đã hưởng ân huệ của Chúa lên tiếng, có lẽ các môn đệ nhát sợ lấy lại can đảm, đám dân vô tâm sẽ tỉnh ngộ, bọn ký lục và biệt phái sẽ tin theo … Nhưng giữa lúc cái chết gần kề, giữa lúc Chúa Cứu Thế như hoàn toàn thất bại trước mặt người trần, chỉ có một người lên tiếng tin nhận Ngài, đó lại là tên trộm bị đóng đinh:
Anh thấy cây thập giá nhưng tôn thờ như ngai Vua Cả. Anh thấy người bị đóng đinh nhưng kêu cầu như Chúa Tể. Anh thấy sự sống trong cõi chết, anh thấy vinh quang trong nhục nhã … "Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi."
Có thể đây là lần đầu tiên tên trộm cầu nguyện và có lẽ cũng là lần cuối cùng, dầu vậy Đấng đã được tiên báo "Ngài không bẻ đứt cây sậy dập gẫy, không tắt hẳn tim đèn còn khói" (Mt 12,20), lại không đáp ứng lại một niềm tin như vậy sao? Và đấng tuyên bố: "Người nào đến với Ta, chẳng bao giờ bị Ta xua đuổi" (Ga 6,37) lại đuổi xua sao? Chúa Giêsu đã giữ lời và còn giữ hơn cả điều người ta trông đợi.
Trong khi nhà cầm quyền Giê-ru-sa-lem không thể làm Ngài rời khỏi thập giá; trong lúc mọi tố cáo bất công không thắng được sự yên lặng của Ngài; trong lúc những lời gào thét "nó đã cứu được người khác, mà không cứu nổi mình" không làm Ngài hé môi …, thì Ngài nghiêng đầu về người yếu đuối cạnh Ngài, Ngài nói và cứu một tên trộm: "Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta."
Trước đây không một ai được hứa như thế, dầu người đó là Áp-ra-ham, quốc mẫu tổ phụ của Giêsu; dẫu người đó là Mô-sê, đại ngôn sứ, thủ lãnh Dân Riêng; hay Gio-an, kẻ Giêsu yêu. Ngay cả Ma-da-lê-na hay chính Đức Ma-ri-a, Mẹ Ngài cũng vậy, vậy mà, Ngài lại hứa với tên trộm, thần dân đầu tiên của Ngài trên Nước Trời.
Augustino đã tinh ý khi sánh ví: khen thay cho tên trộm này, cả một đời trộm cắp mà đến giờ chót khi ra trước toà còn trổ nghề ăn trộm được cả Nước Trời. (Không biết vào Nước Trời rồi, có ăn trộm chìa khoá của Phêrô để mở cửa thiên đàng cho đồng nghiệp bên trái nhiếc mắng Chúa hay không? Biết đâu!
Có một người ăn xin nọ ngày kia gặp một hiền sĩ ở dọc đường, ông ta đã chạy lại van xin hiền sĩ bố thí cho mình. Nhà hiền sĩ đã từ chối và cứ đi tiếp con đường ông đang đi. Người ăn xin vẫn tiếp tục đuổi theo, miệng không ngớt xin bố thí. Ông ta đã theo nhà hiền triết ra đến tận đầu phố, cuối cùng nhà hiền triết tuyệt vọng, dừng lại và nói:
- Được rồi, ta sẽ cho ngươi tiền, nhưng với điều kiện: trong hai con mắt của ta có một con mắt thủy tinh, ngươi hãy nói nó là mắt nào. Nếu nói đúng ngươi sẽ có tất cả những gì ta có.
Người ăn xin nhìn ông chăm chú, cuối cùng nghiêm giọng nói:
- Thưa thầy, con mắt trái là thủy tinh ạ.
Hiền sĩ kinh ngạc kêu lên:
- Hãy nói làm sao ngươi biết được điều đó. Con mắt đó do một người thợ giỏi nhất thế gian này làm ra, không thể nào phân biệt được mắt nào của ta là mắt thật, mắt nào là mắt thủy tinh?
- Thưa thầy, vì -người ăn xin chậm rãi đáp- mắt phải của thầy ánh lên lòng thương xót.
Vâng có lẽ người ăn trộm bên phải cây Thánh giá của Chúa Giêsu cũng có được con mắt phải “ánh lên lòng thương xót.” Chàng thương xót cho tử tội vô tội Giêsu, nên đã gặp được cặp mắt giàu lòng thương xót của Vua Giêsu bị xét là tử tội.
Tin giờ chót tôi mới nhận được qua email từ Giêsu.net, là trong vương quốc của Vua Giêsu, chỉ có những người có cặp mắt ánh lên lòng thương xót mới vào được.
Bạn muốn vào, xin hãy ánh lên lòng xót thương.
69.Tên trộm lành và người chủng sinh.
Trong mục “Cánh cửa rộng mở” của báo Catholic Digest có câu chuyện rất cảm động về một chủng sinh. Anh lớn lên trong một gia đình Công giáo. Anh là một tín hữu rất mộ đạo và thường tham gia vào các công việc ở nhà thờ. Anh đi chủng viện để học làm Linh mục. Trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam, người chủng sinh đó đã bỏ chủng viện và gia nhập đảng chống chiến tranh. Không những thế, anh còn bỏ luôn cả Giáo hội, và còn hơn nữa, anh bắt đầu tìm cách chống lại đức tin và những lý tưởng anh đã một lầm ôm ấp. Càng ngày, anh càng coi tôn giáo như là một kẻ thù. Gia đình anh rất buồn và họ đều mất hy vọng cứu vãn được anh.
Vào một ngày thứ Sáu Tuần thánh, người thanh niên đó lái xe đi ngang một nhà thờ Công giáo. Anh nhận ra tên của linh mục mà anh đã kính trọng được ghi trên tấm bảng ở trước nhà thờ. Một cái gì đó đã thúc đẩy anh ngừng xe lại và vào trong nhà thờ. Khi anh vừa bước vô thì nghi lễ Suy tôn Thánh giá cũng vừa bắt đầu. Anh ngồi xuống ở hàng ghế cuối hết và nhìn những người lên thờ lạy và hôn Thánh giá trong khi ca đoàn hát bài: “Trong khi người ta đóng đinh Chúa tôi, bạn có ở đó không?”
Một sự việc đáng ghi nhớ đã xảy ra. Người chủng sinh trẻ bỏ đạo đó đã viết lại như sau: “Trong tâm hồn, tôi cảm thấy rất xúc động và tôi bắt đầu khóc. Cố gắng kìm hãm lại cảm xúc, tôi nhớ lại những năm trước đây khi tôi còn là một chủng sinh sống trong sự bình an. Đức tin đơn sơ của những ngày tháng xa xưa, đã bị phủ lấp và nằm chìm sâu kín trong tâm hồn tôi bao năm qua nay vụt bùng dậy. Một sức lực nội tại giục giã bắt tôi phải đứng lên, rời khỏi ghế đang ngồi và đến quì sụp lạy trước Thánh giá và hôn Thánh giá. Vị linh mục trong nhà thờ đã nhận ra tôi và đã đến ôm lấy tôi. Trong ngày đó, tôi lại được tái sinh trong đức tin Công giáo.”
Câu chuyện ở trên rất phù hợp với các bài đọc trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay. Bài Phúc âm hôm nay thuật lại một người thanh niên mà chúng ta thường gọi là tên trộm lành, đã được ơn trở lại trong ngày thứ Sáu Tuần thánh cách đây hai ngàn năm. Điều mà Chúa Giêsu đã nói với tên trộm lành trên Thánh Giá cũng chính là điều mà Ngài đã phán với người chủng sinh trẻ: “Amen, Ta nói thật với con... hôm nay con sẽ ở trên Thiên đàng với Ta.”
Chúng ta nhận thấy không có bài đọc nào thích đáng hơn bài đọc hôm nay để kết thúc một năm phụng vụ. Nó tóm tắt lý do tại sao Chúa Giêsu đã đến thế gian. Lý do đó là vì để tỏ lòng tha thứ khoan nhân cho các tội nhân, giống như tên trộm lành và người chủng sinh trẻ.
Điều đó đưa chúng ta đến một điểm áp dụng thực tế trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu muốn tha tất cả tội lỗi của chúng ta cho dù tội lỗi của chúng ta có chất đống đến đâu đi nữa. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: “Amen, Ta nói thật với con... hôm nay con sẽ ở trên Thiên đàng với Ta.”
70.Nếu ông là vua - Lm Âu Quốc Thanh.
Các thánh sử đều kể lại câu truyện tang thương của cuộc khổ nạn một cách hết sức vắn gọn, mặc dù trong truyền thống Do Thái tường thuật những vụ tử vì đạo rất tỉ mỉ (2 Macc 7:3-19). Phúc âm theo thánh sử Luca kể lại cách sơ sài sự kiện một tử tội mang danh là Giêsu thành Nazareth đang hấp hối trên cây thập giá. Thánh Luca còn bỏ cả chi tiết cho ông Giêsu uống rượu pha mật đắng. (Mk 15:22; Mt27:33). Tuy nhiên trong bài trích Phúc âm cho Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, thánh Luca đã tỉ mỉ nói lên bốn phản ứng của những người hiện diện tại đồi Golgotha để chứng minh con người và căn tính siêu việt của Chúa Giêsu.
Thái độ thứ nhất là thái độ dửng dưng của những người qua đường. Là khách bàng quang, họ đến xem cho biết chuyện gì đang xảy ra. Thánh Luca phân biệt rõ những người dân và các vị lãnh đạo. Đám dân thường chỉ đứng quan sát sự việc cách thụ động. Họ không biết rõ căn tính và con người ông Giêsu. Chính vì thế mà họ được ơn thống hối ăn năn. (Lc 23:48)
Còn hàng lãnh đạo tôn giáo thời đó thì chủ động nhạo báng ông Giêsu. Họ không tin ông Giêsu là Vua dân Do thái, đấng được tuyển chọn để cứu dân Chúa khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự dữ. Họ chế nhạo: “Nếu ông là vua dân Do thái. ông hãy tự cứu mình đi.” Họ hiểu “Vua” theo nghĩa trần gian, một vị lãnh đạo chính trị sẽ giải thoát dân Chúa thoát ách thống trị của Đế quốc Rôma. Một tử tội đang hấp hối trên thập tự không thể giúp họ thực hiện ước mộng đó của họ.
Thái độ của người trộm dữ cũng giống như thái độ của đám lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Hắn buông lời hằn học và sỉ nhục: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa.” Hắn biết mình đã rơi vào tình trạng “thập tử nhất sinh” và biết chẳng còn ai có thể cứu mình khỏi chết. Có thoát lời thóa mạ ai cũng chẳng thiệt thòi gì hơn. Đối với hắn, chết là hết.
Nhưng người trộm lành đã thực sự được ơn giải thoát khỏi sự ngu muội và sự không tin. Hắn nhận ra Đức Giêsu là người vô tội nhưng lại bị án tử hình như những kẻ phạm trọng tội như hắn. Hắn nhận ra rằng vị Vua này không phải là một nhà lãnh đạo chính trị, nhưng là một lãnh đạo tinh thần, và nước của Ngài chính là thiên đàng vĩnh cửu. Chính vì được ơn giác ngộ và thống hối, hắn đã thốt lên lời đầy tin tưởng: “Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” (Bản dịch mới của nhóm Phiên Dịch VN, 1998, có lẽ chính xác hơn: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ đến tôi.” Người trộm lành đã kêu đích danh của Chúa Giêsu, danh hiệu có nghĩa là “Chúa chữa.” Chính vì niềm tin nơi Chúa Giêsu, người trộm lành đã được tha thứ mọi lỗi lầm và được hưởng phúc thiên đàng.
Chúng ta là những Kitô hữu có lẽ chúng ta không bao giờ dám nhạo báng Chúa Giêsu như tay trộm dữ và những vị lãnh đạo cứng lòng tin. Cùng lắm khi vì tính yếu đuối xác thịt để cho mình rơi vào tình trạng dửng dưng với Chúa Kitô và công việc của Giáo Hội, nhiệm thể của Ngài. Đôi khi chúng ta muốn Chúa Giêsu trở thành một vị lãnh đạo chính trị giải thoát chúng ta khỏi những đau khổ phần xác và những bất công xã hội. Bằng chứng của lòng mong ước này là phong trào thần học giải phóng, là phong trào phụ nữ bình quyền... Dĩ nhiên khi còn ở thế gian, Chúa Giêsu đã cứu chữa biết bao nhiêu tật nguyền và đả phá những hủ hóa của giới lãnh đạo. Nhưng Ngài đã không giải phóng dân Israel khỏi ách thống trị Rôma và không làm phép để giải vòng vây cho chính Ngài. Lý do: vì Ngài không phải là Vua trần gian. Như Chúa Giêsu nói rõ với Philatô khi Ngài bị bắt: “Nước ta không thuộc về thế gian này.” (Ga 18:36) Nước của Ngài là Thiên đàng mai sau, chỉ có nơi đó mới không còn đau khổ phần hồn phần xác, không còn áp bức và bất công xã hội.
Chắc hẳn, chúng ta đều muốn được ơn giác ngộ và trở lại như người trộm lành. Chúng ta muốn tôn thờ Chúa Giêsu là Vua của vũ trụ và là vị Vua của từng tâm hồn mỗi người. Lời nguyện nhập lễ trong thánh lễ Chúa Kitô Vua: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô là Người Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng.”
71.Chúa Giêsu, vua tình yêu - Lm Bùi Quang Tuấn.
Năm 1925, Đức Thánh Cha Piô XI đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng Mười. Trong một bản tông huấn, Đức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua: thế giới cần một nền hòa bình chân thật, nhưng hòa bình đó chỉ có được dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình thương và Hoàng tử Bình an.
Về sau, khi có cuộc cải cách Phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vu, tức Chúa nhật thứ 34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu kỳ mới.
Một linh mục đã nhận xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều ý nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một đức vua.
Nhớ lại ngày Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, ba đạo sĩ phương Đông đã tìm đến dâng các lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng là món quà tượng trưng cho vương quyền. Thế nên, từ thuở ấu thơ, Ngài đã được nhìn nhận như một đức vua. Và rồi, trong những giờ phúc cuối cùng của cuộc sống làm người, Đức Giêsu cũng được suy tôn như vị quốc vương cao cả.
Thói thường khi quân Rômma đóng đinh ai cũng đều kèm tho một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ phạm pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái bằng cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ “Đây là Vua dân Do thái.” Việc làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Đức Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là Hoàng đế (x. Thomas Kemp, Homilies on the Sunday Gospel).
Việc làm vô tình của Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng.
Số là trên đồi Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính thì mắng nhiếc chế diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ nhục. Trong mớ âm thanh hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài ngôn từ đáng suy nghĩ.
Ngay trên khổ giá của mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ về những ngôn từ đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu như: “Nếu là Đức Kitô”, “Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Nếu là Vua Do thái”. Anh ta ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là “Đức Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.”
Chính việc “thấy” và “nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái.” (Lc 33:41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài.” (Lc 23:42).
Làm sao trong cảnh hấp hối tột cùng của Đức Giêsu và của chính mình mà anh “trộm lành” lại cất lên được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng xoáy của sự chết, anh đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Điều gì đã giúp anh, ngay giữa lằn ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một quốc vương, Đấng đang bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?
Một nhà thần học trả lời: Tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu người, xót thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình yêu.
Mà tình yêu sẽ tồn tại muôn đời anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn đau của thân xác, anh vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó đang rộng lòng tha thứ, xóa hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia tăng cường độ khiến miệng anh bật lên lời nài van: “Xin Ngài nhớ đến tôi.”
“Ngày hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng làm một với Ta” (Lc 23:43). Không lời nào yên ủi cho người sắp chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly. Nhưng tình thương lại luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu nhớ đến mình, nhưng Ngài lại hứa ở cùng anh. Nói đến nhớ là nói đến cách xa. Vì yêu nhau nhưng không được gần nhau nên sinh ra nỗi nhớ. Tình yêu có nỗi nhớ là tình yêu chưa được vuông tròn. Còn khi “ở làm một với nhau” thì tình yêu đã thật sự lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là “nên một” và “ở cùng.”
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đức Kitô, Người Thiên Chúa tuyển chọn, Đấng Cứu Thế, Vua Tình Yêu.
Suy tôn Chúa Giêsu là Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành trình dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, là ta đang tìm thấy hòa bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, và thế giới.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam