Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 39
Tổng truy cập: 1363363
CON MỘT TRÀN ĐẦY ÂN SỦNG VÀ SỰ THẬT
CON MỘT TRÀN ĐẦY ÂN SỦNG VÀ SỰ THẬT- Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa của ngày đại lễ Giáng Sinh tiếp tục mời gọi chúng ta suy gẫm sâu xa về biến cố Nhập Thể: Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thân làm người để cứu độ chúng ta.
Is 52: 7-10
Bản văn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày, trổi lên khúc hoan ca, vì Thiên Chúa sắp ra tay cứu độ dân Ngài khỏi cảnh tù đày ở Ba-by-lon.
Dt 1: 1-6
Đây là lời tựa của thư gởi cho các tín hữu Do thái; lời tựa này tán dương những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể.
Ga 1: 1-18
Bản văn này là Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan; Tựa Ngôn này cho chúng ta những tư tưởng thần học cao siêu về mầu nhiệm Nhập Thể.
BÀI ĐỌC I (Is 52: 7-10)
Bản văn này đưa chúng ta trở về những năm 550-539 trước Công Nguyên, thời kỳ dân Do thái đang bị lưu đày tại Ba-by-lon khi đó có một ngôn sứ thi hành sứ mạng của mình bên cạnh những người lưu đày để an ủi họ: ông hứa với họ Thiên Chúa sắp ra tay giải thoát họ.
Bối cảnh:
Trong đoạn văn này, vị ngôn sứ khai mở cho họ một viễn cảnh tương lai đẹp như trong mơ, trong đó một vị tiền hô từ trên núi đồi loan “tin vui, tin mừng” cho con cái thành Giê-ru-sa-lem biết là đoàn người lưu đày sắp hồi hương trở về thánh địa. Đây là Tin Mừng về ơn cứu độ và bình an, Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị”.
Đối với thành thánh, vương quyền của Đức Chúa đã có thể khiến người ta sinh lòng ngờ vực do những năm tháng chịu trăm chiều thử thách và nhục nhã. Nhưng khi Đức Chúa sắp ra cánh tay hùng mạnh giải thoát dân Ngài ra khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon, Ngài cho thấy Ngài luôn luôn là Đấng toàn năng và là Vua dân Ít-ra-en. Ở đoạn văn này, chúng ta lưu ý rằng vị ngôn sứ không tìm cách an ủi những người lưu đày bằng cách gợi lên việc phục hưng vương triều Đa-vít, nhưng ông trung thành với lý tưởng xưa kia của dân Chúa chọn: chỉ duy một mình Thiên Chúa là Vua của dân Ngài. Vị ngôn sứ chỉ nghĩ đến “triều đại Thiên Chúa”.
Niềm vui của thành thánh Giê-ru-sa-lem:
Hai bài hoan ca sắp vang lên. Bài hoan ca thứ nhất là tiếng reo hò mừng vui của những người canh gác. Từ trên tường thành, họ thấy tận mắt đoàn rước mà từ lâu họ dõi mắt trông chờ: Đức Chúa dẫn đầu đoàn người được giải phóng trở về Xi-on, trở về thành đô của Ngài.
Bài hoan ca này được mô tả bằng những hình ảnh thật hoa mỹ. Khúc hoan ca này trổi lên dưới ngòi bút của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị khi ông mô tả đoàn người lưu đày hồi hương trở về quê cha đất tổ như một cuộc xuất hành mới, ở đó chính Đức Chúa thân hành dẫn dắt dân Ngài qua hoang địa (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri).
Bài hoan ca thứ hai là bài ca của thành thánh Giê-ru-sa-lem, được mô tả bằng những hình ảnh hoa mỹ không kém. Thành thánh Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế đồng thanh bật tiếng reo vỡ tràn niềm vui. Thành thánh tang thương được Thiên Chúa an ủi; nó được “cứu chuộc”, nghĩa là phục hồi sự tự do của mình. Muôn dân cứ tưởng rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en bất lực vì Ngài đã để dân Ngài phải lưu đày, khốn khổ, lưu lạc khắp nơi. Ấy vậy, chính mắt họ sắp phải thú nhận rằng họ đã lầm. Đức Chúa sắp “vung cánh tay thần lực của Ngài” và rồi thiên hạ mới mở mắt mà nhìn thấy “ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Đó là “Tin Mừng” mà vị ngôn sứ thời lưu đày muốn vang lên bên tai của những người lưu đày ở Ba-by-lon. Tin Mừng đầu tiên này tiên trưng cho một Tin Mừng khác: Thiên Chúa đích thân mang ơn cứu độ đến cho dân Ngài, giải phóng họ khỏi cảnh sống tù đày mà cảnh giam cầm ở Ba-by-lon chỉ là một hình ảnh mờ nhạt, nhưng cảnh giam cầm của tội lỗi. Ngài sẽ thiết lập triều đại của Ngài, cho đến cùng trời cuối đất.
BÀI ĐỌC II (Dt 1: 1-6)
Bản văn này là lời mào đầu của thư gởi cho các tín hữu Do thái, trình bày tư tưởng rất thân cận với tư tưởng của Tin Mừng Gioan: cả hai đều tán dương quyền tối thượng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể. Vì thế, phụng vụ đề nghị cả hai vào ngày đại lễ Giáng Sinh này.
Chủ đề trung tâm của thư gởi cho các tín hữu Do thái:
Thư gởi các tín hữu Do thái gần với văn phong giảng huấn hơn là thể loại thư tín. Quả thật, chúng ta không biết cả người viết (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô) lẫn người nhận. Việc nêu tên “tín hữu Do thái” không tự nguồn gốc, chỉ được thêm vào sau này, vào thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, để chỉ những Ki tô hữu gốc Do thái. Bức thư này được đặt vào bối cảnh của giữa năm 62 và 70.
Chủ đề trung tâm là “Chức Tư Tế” của Chúa Ki-tô. Khi cho Chúa Ki-tô tước hiệu “Thượng Tế Giao Ước Mới”, ông muốn chứng tỏ chức tư tế Tân Ước trổi vượt hơn biết mấy so với chức tư tế Cựu Ước. Để dẫn vào chủ đề này, một lời mào đầu, được viết rất hoa mỹ và rất điêu luyện, liệt kê những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Con Thiên Chúa.
Kiện toàn Mặc Khải:
Các ngôn sứ (được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các tổ phụ và ông Mô-sê, vân vân) đã chỉ đón nhận những ánh sáng từng phần về mầu nhiệm Thiên Chúa và những dự định của Thiên Chúa. Thánh Tử đến để kiện toàn Mặc Khải (chúng ta nghĩ đến dụ ngôn về những tá điền sát nhân: ông chủ vườn nho liên tục sai phái những đầy tớ, sau cùng đứa con trai duy nhất của mình)). Thánh Gioan trong Tựa Ngôn cũng gợi lên nhịp độ tăng dần Mặc Khải này: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn kia. Lề Luật được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 16-17).
Phải nêu lên rằng trong bản văn, từ “Thánh Tử” không có mạo từ. Danh hiệu “Thánh Tử” của Ngài được diễn tả một cách tuyệt đối, không có bất kỳ ai khác; điều mà thánh Gioan sẽ diễn tả khi nói: “Con Một” (Ga 1: 14).
Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật:
Thánh Tử vừa là Đấng thừa tự vừa Đấng Tạo Hóa: Ngài là Đấng thừa tự với tư cách con người và Ngài là Đấng Tạo Hóa với tư cách Thiên Chúa.
“Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài”. Địa vị làm con bao gồm quyền thừa tự, nhưng quyền thừa tự được diễn đạt cách tinh tế theo truyền thống Kinh Thánh là phúc lộc của Thiên Chúa; hai ý tưởng được hội tụ ở đây. Xuống dưới một chút, tác giả viết: “Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền con người, Thiên Chúa không để cho một sự gì không phục quyền con người” (2: 8).
Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật này, chính là vương quyền của Đấng Mê-si-a, vương quyền mà xưa kia đã hứa cho hậu duệ của ông Áp-ra-ham (thừa tự và lời hứa là hai từ bất khả phân ly trong Cựu Ước), tức là quyền tối thượng được định đoạt trong công trình cứu độ loài người. Thánh Phao-lô cũng diễn tả một cách như vậy trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát: “Thế mà những lời hứa đã được ban cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh không nói: và cho những dòng dõi, như thể nói về nhiều, mà chỉ nói một: và cho dòng dõi người là Đức Ki tô” (Gl 3: 16).
Ngài là Đấng Tạo Hóa:
“Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ”. Thánh Gioan cũng sẽ nói như vậy trong Lời Tựa Ngôn: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành” (Ga 1: 3). Ở đây, từ “vũ trụ” có ngữ nghĩa rất rộng để chỉ muôn loài muôn vật sống ở trong vũ trụ này từ những thế hệ này đến những thế hệ khác.
Vẻ vinh quang và hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa:
“Người là phản ảnh vẻ vinh quang”. Để diễn đạt mối thâm giao của Cha với Con và căn tính Thần Linh của Cha và Con, tác giả thư gởi các tín hữu Do thái sử dụng cùng những hình ảnh như tác giả của sách Khôn Ngoan khi diễn tả sự mật thiết khôn sánh giữa Đức Khôn Ngoan và Thiên Chúa: “Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26). Nếu từ “vinh quang” thường xuất hiện trong Cựu Ước, cách diễn tả: “phản chiếu ánh sáng” chỉ được gặp thấy trong đoạn văn của sách Khôn Ngoan này. Thánh Gioan viết: “Ngôi lời là ánh sáng thật…Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”, điều mà Công Đồng Ni-xê-a sẽ diễn tả: Ngài là “ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành”.
Tác giả thư gởi cho các tín hữu Do thái nói thêm: “là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”, như vậy, ông siết chặc gần hơn nữa ý tưởng theo đó Thánh Tử đồng bản thể với Chúa Cha, điều mà Công Đồng Ni-xê-a cũng sẽ khẳng định.
Bảo tồn vạn vật:
“Người là Đấng đã dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật”. Ý tưởng Ki-tô học cũng được thánh Phao-lô diễn tả trong bài thánh thi của mình tán dương Đức Ki-tô: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 17).
Đấng Cứu Độ duy nhất của loài người:
Trong bản tóm tắt thần học này, tác giả loan báo một cách ngắn gọn một chủ đề căn bản của bức thư: hy tế của Đức Ki-tô thì cao vời trên mọi hy tế không ngừng được tái diễn của Cựu Ước, vì hy tế của Đức Ki tô đã vĩnh viễn tẩy trừ tội lỗi của con người. Như ở gần cuối bức thư, tác giả viết: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc viễn cho chúng ta” (9: 12).
Sau khi đã tự hạ và chịu nhiều đau khổ, Thánh Tử được tôn vinh ngự bên hữu Chúa Cha trên các thiên thần.
Thánh Tử cao trọng trên các thiên thần:
Những suy luận về các thiên thần đã được phát triển đáng kể vào những thế kỷ trước thời Đức Ki-tô, sau các sách khải huyền. Người ta có khuynh hướng gán cho các thiên thần một vai trò quan trọng trong việc tổ chức thế giới hữu hình cũng như trong thế vô hình. Người ta thấy ở nơi các ngài không chỉ những người canh giữ Lề Luật Mô-sê, nhưng còn những thiên linh có thể đem đến ơn cứu độ như các bản văn của cộng đoàn Qumran cho thấy.
Thánh Phao-lô nhiều lần lên tiếng chống lại những suy luận như vậy. Cũng thế, tác giả thư gởi các tín hữu Do thái công bố quyền tối thượng của Đức Ki-tô trên các thiên thần: “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu”, tức là danh Thiên Chúa, như lời nhắc nhở của thánh Phao-lô cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2: 9).
Để chứng minh quyền tối thượng này của Đức Ki-tô, tác giả áp dụng vào việc phong vương của Thánh Tử ngự bên hữu Đấng Tối Cao trên trời những bản văn liên quan đến việc phong vương thời xưa, ở đó vị tân vương được gọi “thiên tử” theo cách biểu tượng và nghĩa tử. Câu trích dẫn đầu tiên được trích từ Thánh Vịnh 2: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7). Câu trích dẫn thứ hai được mượn ở sách Sa-mu-en quyển thứ hai: Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít ban cho vua một hoàng nam kế vị ngai báu của vua: “Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con” (2Sm 7: 14).
TIN MỪNG (Ga 1: 1-18)
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan là một bài thánh thi được viết theo thể văn vần khác biệt với phần còn lại của sách Tin Mừng được viết theo thể văn xuôi. Ngôn từ đơn giản, những từ chủ chốt được láy đi láy lại tạo thành nhịp điệu của bài thơ như những đợt sóng đuổi nhau càng lúc càng dâng cao cho đến khi hình thành nên con sóng cả vỗ vào bờ mầu nhiệm.
Từ chủ chốt của Tựa Ngôn là từ “Ngôi Lời”. Tự nguồn gốc, từ “Ngôi Lời” được dịch từ “Logos” của Hy ngữ, nhưng được thánh ký sử dụng một cách độc đáo đến nỗi từ Hy ngữ nầy thấm nhuần tư tưởng của từ “Đa-va” (“Lời”) của Cựu Ước. Trong Cựu Ước, Logos có nghĩa là lời Thiên Chúa nói ra, là điều Thiên Chúa mặc khải qua vũ trụ, qua biến cố và, nói chung, qua Thánh Kinh (Cn 8: 23-36; Hc 24: 1-22). Tất cả những tư tưởng ấy đều gặp trong Tin Mừng Gioan. Nhưng còn hơn thế nữa, tác giả đã chọn từ Hy lạp “logos”với mạo từ không để diễn tả “Lời” cách chung chung, nhưng Lời là một ngôi vị. Ngôi Lời ngay từ khởi thủy đã hiện diện trong cung lòng của Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Cl 1: 15), là phản ảnh vẽ huy hoàng và trung thực của bản thể Thiên Chúa (Dt 1: 3). Với biến cố Nhập Thể, Ngôi Lời là Mặc Khải tuyệt mức và dứt khoát của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại (1Ga 1: 2). Tuy nhiên, thế gian đã không biết Ngài, dân Ngài cũng khước từ Ngài. Nhưng ai tiếp đón Ngài, Ngôi Lời ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Họ được quyền làm con Thiên Chúa như vậy, không phải do người phàm, mà là do Thiên Chúa (1: 12-13).
Do đó, chỉ vỏn vẹn mười tám câu, bài thánh thi được tạo dáng một cách nghệ thuật tóm tắt những chủ điểm Thần Học của Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su Na-da-rét là Mặc Khải tối hậu của Thiên Chúa, Đấng có thẩm quyền giải thích Thiên Chúa. Nói cho cùng, Đức Giê-su không chỉ là Đấng Trung Gian của Thiên Chúa đối với chúng ta, Ngài đích thực là Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa và Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa hiện thân để nói lời tối hậu của Thiên Chúa.
Trong bầu khí tươi vui của ngày lễ Giáng Sinh, tôi xin được chú giải câu 14:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm:
Câu này được dịch theo sát từ: “Ngôi lời đã trở thành xác thịt”. Theo thuật ngữ Kinh Thánh, “xác thịt” không chỉ xác thể phân biệt với linh hồn, nhưng trọn vẹn con người. “Ngôi Lời đã trở thành xác thịt” có nghĩa Ngôi Lời đã thật sự trở thành một phàm nhân như chúng ta, nhưng Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Điều này muốn nói rằng khi đã nhập thể, Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa, và sau khi Nhập Thể, Ngôi Lời vẫn còn là một con người. Mầu nhiệm Nhập Thể mà chúng ta hằng tuyên xưng: Ngài là Thiên Chúa thật và con người thật.
Ngôi Lời cư ngụ giữa chúng ta:
Câu này được dịch sát từ: Ngôi Lời “dựng lều giữa chúng ta”. Với thuật ngữ “dựng lều”, tác giả gợi lên nhiều ý tứ man mác. Trước hết, “dựng lều” là đến và ở tạm thời. Như người du mục cắm lều nay đây mai đó, Ngôi Lời cũng chỉ đến và ở với chúng ta trong một thời gian nào đó mà thôi, vì Ngài phải về cùng Chúa Cha. Nhưng nói đúng hơn, thuật ngữ “dựng lều” gợi lại việc Thiên Chúa ở với dân Ngài trong cuộc hành trình băng qua sa mạc. Trên con đường từ Ai-cập về Đất Hứa, dân Do thái dựng lều nay đây mai đó như dân du mục. Trong thời gian Xuất Hành ấy, Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê Ngài sẽ đồng hành với dân về Đất Hứa. Vì thế, Ngài đã bảo ông Mô-sê dựng cho Ngài một lều ở giữa các lều của dân. Vào ngày khánh thành, Thiên Chúa cho lều của Ngài tràn ngập những áng mây và vinh quang rực rỡ như dấu chỉ cho biết “Ngài hiện diện trong lều”. Thế là, Thiên Chúa dựng lều giữa dân Ngài và ở lều như dân Ngài (Xh 33: 9-10).
Từ đó, “dựng lều” trở thành thành ngữ để chỉ Thiên Chúa ở giữa dân Ngài (Ds 12: 5; 2Sm 7: 6; Tv 78: 60; Ge 4: 17, 21; Dcr 2: 14; Hc 24: 8). Trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài trong lều của Ngài vào thời Xuất Hành, ở trong Đền Thờ khi dân định cư ở Đất Hứa, và còn ở trong Lề Luật Mô-sê nữa (Hc 24: 7-22; Br 3: 36-44). Nhưng trong thời Tân Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài còn thân thiết và gần gũi hơn nhiều. Ngài hiện diện bằng chính bản thân và một cách hữu hình, chứ không bằng áng mây hay Lề Luật như thuở xưa. Quả vậy, Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc lấy xác phàm hữu hình để ở giữa chúng ta và đưa chúng ta từ thế giới chóng qua đến thế giới vĩnh cữu: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12: 32).
Chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người:
Trong Cựu Ước, kiểu nói: “vinh quang của Thiên Chúa”, đồng nghĩa: “Thiên Chúa tỏ mình” trong quyền năng của Ngài. Nói chung, những quyền năng mà Thiên Chúa đã thực hiện lúc dẫn đưa dân Ngài từ Ai-cập về Đất Hứa, hiển lộ quyền năng và vinh quang của Ngài (Xh 15: 1-7; 16: 7-8). Trong Tân Ước, nhân tính của Ngôi Lời, thân thể của Ngài, trở thành nơi tuyệt mức Thiên Chúa ở giữa dân Ngài và bày tỏ vinh quang của mình. Ngài bày tỏ vinh quang của Ngài qua những dấu lạ mà Tin Mừng Gioan chỉ ghi lại “bảy dấu lạ” trong phần thứ nhất được gọi là “Tin Mừng về Các Dấu Lạ” (ch. 1-12), và dấu lạ tuyệt mức cuối cùng là “Cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài” trong phần thứ hai được gọi là “Tin Mừng về Vinh Quang” (ch. 13-21). Vì thế, câu nói, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” có nghĩa là chúng ta đã được nhìn thấy “các dấu lạ Người làm lúc sinh thời”. Những dấu lạ khả dĩ làm cho thiên hạ phải tôn vinh Người.
Nói riêng, khi viết, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng”, tác giả liên tưởng đặc biệt đến việc Đức Giê-su biến đổi hình dạng, một sự kiện mà chính tác giả là một trong ba môn đệ được diễm phúc chứng kiến. Quả thật, so sánh câu phát biểu nầy với các bài trình thuật Nhất Lãm về cuộc Biến Hình đều có hai yếu tố: các tông đồ nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su và Đức Giê-su được Chúa Cha công bố là Con Một của Ngài.
Nói tóm lại, vinh quang của Thiên Chúa là những gì làm cho loài người nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa và vinh quang của Ngài rực rỡ đến mức người phàm nhìn thấy là có thể chết ngay (Xh 24: 16tt). Vì thế, để cho loài người có thể nhìn thấy được, vinh quang ấy phải có cái gì phủ che, thời xưa là áng mây, ngày nay là nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể. Tuy nhiên, người phàm cũng được thoáng thấy vinh quang ấy đôi khi, như nhân dịp Đức Giê-su biến đổi hình dạng (Lc 9: 32, 35) hoặc qua các dấu lạ (Ga 2: 11; 11: 40; 14: 24-27 và 15: 7), nhất là sự kiện “Phục Sinh là một sự tỏ mình ra thập phần vinh quang” (17: 5tt).
Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật:
Trong Cựu Ước, hai từ “ân sủng” và “sự thật” thường đi đôi với nhau để diễn tả hai ưu phẩm của Thiên Chúa là “tình thương” và “thành tín”. Nói Thiên Chúa giàu tình thương và thành tín là nói Thiên Chúa “trước sau như một, luôn luôn yêu thương và tha thứ” (Xh 34: 6; Tv 25: 10; 40: 11; 61: 8 và nhất là Tv 89). Vì thế, chúng ta có thể hiểu, cũng như Chúa Cha, Ngôi Lời cũng giàu lòng yêu thương và hay tha thứ. Vì thế, cộng đoàn Gioan, cộng đoàn của Giao Ước Mới xác quyết rằng nơi con người của Đức Giê-su, họ đã nhận thấy vinh quang mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài, Đấng giàu lòng nhân nghĩa và thành tín, trước sau như một.
(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt
LỄ GIÁNG SINH 2022- LỄ NGÀY
NGÔI LỜI ĐÃ TRỞ NÊN NGƯỜI PHÀM VÀ CƯ NGỤ GIỮA CHÚNG TA- Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
Lời Tựa là một Thánh Thi.
Matthêu mở đầu tin Mừng bằng “Gia phả của Đức Giêsu Kitô, Con vua Đavít, con Apraham”. Luca thì bắt đầu “trình thuật về những biến cố đã diễn ra giữa chúng ta ” (1,1) bằng cách trình bày gẫy gọn một ít giai thoại về đời thơ ấu của Đức Giêsu: những giai thoại này vừa giới thiệu vừa tiên báo về cuộc đời Chúa. Máccô (như ta đã đọc ở Chúa nhật thứ II Mùa Vọng) đặt cho tác phẩm của Ông một tựa đề đầy ý nghĩa: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”.
Về phần Gioan, ông bắt đầu Tin Mừng bằng một Lời Tựa dưới dạng Thánh Thi, mà nhiều nhà chú giải nghĩ rằng thánh thi này đã được hát trong cộng đoàn của Gioan, trước khi được đặt vào đầu cuốn Tin Mừng. Cũng giống như khúc mở đầu một bản hoà tấu – hay đúng hơn như đoạn kết, thánh thi này nối kết các đề tài thành một bản tóm tắt đầy sức mạnh.
Alain Marchadour giải thích: “Để mở đầu cho Tin Mừng của mình. Gioan đã chọn một thánh thi. Lời mở đầu này như khúc dạo đầu một bản nhạc, lần lượt kể ra những đề tài lớn của Tin Mừng và nói đến nguồn gốc cũng như nguyên thủy của Đức Giêsu mà Tin Mừng sẽ tường thuật cuộc đời của Ngài khi Ngài sống giữa loài người. Lúc khởi đầu Ngài là Ngôi Lời, thường tình thân thiết với Thiên Chúa đến nỗi thi sĩ quả quyết rằng ngôi là Thiên Chúa. Vai trò của người vượt khỏi ranh giới dân Israel bởi vì Người là Đấng tạo thành, là Sự Sống, là Anh Sáng cho mọi người sinh ra nơi trần thế. Biến cố nhập thể đánh dấu việc Ngôi Lời xâm nhập lịch sử, cuộc gặp gở định mệnh với loài người và với dân Do Thái, người thì từ chối, kẻ thì đón nhận. Những người đón nhận là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh thi này long trọng kể ra cuộc hành trình của Ngôi Lời, từ lúc ở với Thiên Chúa (câu 1-2), rồi đến giũa loài người (3-5), chọn dân Israel (9-11) rồi nhập thể (14) cho đến ngày trở lại, “Người là Đấng hằng ở nơi cung lòng Thiên Chúa”, ” (“L Evangile de Jean”, Centurion 1 992, trang 31).
Ca ngợi cuộc hành trình của Ngôi Lời Thiên Chúa
Chúng ta hãy theo dõi sự triển khai từng phần một.
Nguồn gốc bí nhiệm của Đức Giêsu, Ngôi Lời sáng tạo:
+ Hai từ đầu tiên “Khởi đầu” liên kết việc Đức Giêsu xuống trần với những chương đầu sách Sáng Thế, như thế phải đọc về Đức Giêsu từ giây phút đầu của mạc khải: xuyên suốt Tin Mừng, Người được giới thiệu “như điểm hoàn tất của tất cả mạc khải, như Đấng mạc khải tối cao, như ân huệ tối hậu của Thiên Chúa, như con đường duy nhất dẫn tới ơn cứu độ, và như khuôn mặt của Thiên Chúa giữa loài người” (A.Marchadour, Sđd, trang 34).
+ Trước hết, thánh thi nói đến “Ngôi Lời Thiên Chúa” (danh hiệu của riêng Gioan trong Tân ước) trong hiện hữu vĩnh cửu, tình nghĩa thiết muôn đời với Chúa Cha nhưng khác biệt với Cha: và thiên tính của Người: “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa”.
Sau đó thánh thi công bố tính phổ quát của công cuộc tạo thành do Đấng là Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa: “Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Đồng thời, Người trao ban sự sống cho vạn vật, Người đem họ vào cuộc sống.
Ngôi Lời của Thiên Chúa, Anh Sáng và Sự Sống loài người.
Ở gần Thiên Chúa và là Thiên Chúa, Ngôi Lời từ nguyên thuỷ đã sống trong tương quan độc nhất với con người: Người
không chỉ là Đấng tạo thành, Người còn là “Sự Sống” và “Ánh Sáng”. Người không chỉ là nguồn gốc của mọi sinh vật, nhưng sự hiện diện của Người ở giữa chúng sinh còn tạo nên sự hiệp thông với sự sống siêu nhiên. Người cũng là Anh Sáng: Không phải là ánh sáng vũ trụ, mà là ánh sáng thần linh và siêu phàm, hướng dẫn con người.
– Chứng tá của Gioan Tẩy Giả.
Trái ngược với vẻ trịnh trọng trong nhưng câu đầu của Lời Tựa, giờ đây Gioan Tẩy Giả bước lên sân khấu: “Có một Người…”
Sự Sáng đến thế gian đã có một nhân chứng đi trước, đó là Gioan, con ông Giacaria. Vẻ cao cả của con người này là ông được Thiên Chúa sai đến, và ông đã đón nhận sứ mệnh làm chứng cho Anh Sáng: với tư cách là Tiền hô, ông hướng dẫn người ta đến với đức tin, tin vào Đấng là Anh Sáng, là Đấng phải chiếm được tất cả địa vị: “ông không phải là Anh Sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng”.
– Anh Sáng đã đến trong thế gian.
+ Nhưng khi Anh Sáng đến thế gian thì con người lại từ chối và chống đối. Thế gian mà Ngôi Lời đã tạo thành lại khước từ Anh Sáng, thật là trớ trêu! (vấp phạm): Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người”.
Còn trớ trêu hơn nữa, là “gia nhân của Người”, dân của Lời hứa, dân của Giao ước, “đã không đón nhận Người”.
+ “Còn những ai đón nhận Người – dù là dân Israel hay dân ngoại thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa?
– Ngôi Lời đã trở nên người phàm.
+ Gioan đã viết “người phàm”, theo đúng chữ là “trở nên xác thịt”; từ “xác thịt” ở đây không có nghĩa đối nghịch với linh hồn, nhưng có ý nói con người dưới chiều kích mỏng giòn, dễ hư nát.
+ “Người cư ngụ giữa chúng ta” ( theo đúng chữ: Người cắm lều của Người giữa chúng ta): độc giả của Gioan đọc cụm từ này liền nghĩ ngay đến “nơi ở” của Thiên Chúa ở giữa dân Người. Sự hiện diện của Đức Chúa ở giữa dân Người, được tượng trưng bằng Lều giao ước trong sa mạc, thời Xuất Hành, rồi bằng Đền thờ Giêrusalem, giờ đây thể hiện cách hoàn hảo nơi Đức Giêsu trở nên người phàm: (Ga 2,19-22: “Chúa nói về Đền thờ thân xác Người”).
+ “Chúng tôi được nhìn thấy vinh quang của người” trong con người Giêsu, cộng đoàn của Gioan quả quyết rằng họ được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa, nghĩa là: một phẩm chất, một vầng hào quang mạc khải Thiên Chúa.
– Đức Giêsu Kitô đã mạc khải Thiên Chúa vô hình.
“Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả, nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng vốn hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết”.
Jean Perron nhận xét: “Bài Thánh Thi đã khởi đầu từ Ngôi Lời ở nơi cung lòng Chúa Cha cũng kết thúc bằng tư tưởng “Con Một ở nơi cung lòng Chúa Cha”: đó chính là dòng chảy cuộc sống của Đức Giêsu, cũng giống như sẽ nhắc lại ở câu kết vào cuối đời Người: “Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa” (Ga 13,3). Nhưng trong “tiến trình đi lên cùng Đấng duy nhất cần nhận biết (không ai đã nhìn thấy Thiên Chúa, ngay cả đến Môsê ), Người muốn đem ta đi cùng: “Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (14,3). Và còn hơn thế nữa, trong cuộc sống thân mật mà Người đã dẫn ta vào: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy” (14,23)” (“Lire de Bible”, số 52, trang 34-35).
BÀI ĐỌC THÊM.
Một câu không có “động từ ” thì không có nghĩa (“Bible du Dimanche” trang 51 1-512). (Trong tiếng Pháp, “verbe” vừa nghĩa là động từ, vừa là Lời: một cách chơi chữ ở đây.)
“Và Ngôi Lời đã trở nên người phàm”. Một từ ngữ, nhẹ hơn một làn khói, làm sao có thể nắm bắt được?
Thiên Chúa đã không sử dụng thuật pháp của tử ngữ, mà đã nói qua một trẻ thơ được bọc trong tã nơi máng cỏ và còn chưa biết nói, đã nói qua một tử tội không còn có thể nói được nằm trên thập giá. Người nói trong yếu đuối và thinh lặng. Sự thinh lặng hùng biện từ nay đã chứng minh cho mọi người rằng Thiên Chúa không im lặng. Lời của Người không còn là một chuỗi tiếng nói mà đã trở nên người phàm.
Từ khi con người trông đợi Thiên Chúa, họ cảm nghiệm sự xa vắng của Người hơn là được hưởng sự hiện diện của Người: “Không ai đã được thấy Thiên Chúa’? Điều đó không ngăn cản họ nói nhiều về Người, tuy Người vẫn vắng bông và xa lạ. Họ nói mà không cần nhờ đến những bậc hiền triết, Môsê, Lề Luật, và ngay cả đến Gioan Tẩy Giả hoặc các nhà thông thái. Dù dùng rất nhiều từ cũng không thể có sức thuyết phục bằng một lời nói. Bởi vậy trong Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa không ngừng nói “Lời cuối cùng” của Người.
Chỉ có Lời (“động từ”) này mới làm cho câu có ý nghĩa. Nhờ Người mà những chuỗi từ của con người mới tìm được sự mạch lạc Người không loan báo những chân lý phụ thuộc, nhưng chính Người là Chân lý; Người soi sáng những sai lầm nơi chúng ta vì chỉ có Người là Anh Sáng.
Tuy nhiên, chỉ có Anh sáng mới khơi dậy bóng tối. Chỉ có chân lý mới làm thương tổn. Bởi vậy, số phận của Lời này là bị chống đối và đôi khi bị khai trừ. Nhưng cũng chính vì vậy mà Lời Chúa đánh động chúng ta và trờ nên hiển nhiên trước mắt chúng ta”.
Vài câu Kinh Thánh tóm tắt hoàn hảo cả công trình Thiên Chúa đã thực hiện thể cứu-độ nhân loại. (L. Sintas trong “Parole de diệu pour la méditation ét l’homélte -Năm C”, Médiaspaul. trang 20-2).
Mấy câu Gioan dùng để bắt đầu Tin Mừng là những câu nổi trọng nhất trong truyền thống bình dân của tội Thánh. Cách đây không lâu, mọi thánh lễ đều kết thúc bàng bản văn này. Trong, các giáo xứ ở Pháp, khi cha mẹ lo lắng về con cái đến xin linh mục cầu nguyện cho chúng, thì họ đưa chúng đến nhà thờ, và linh mục thường đọc những câu Tin Mừng này, trong khi đặt dây stola trên đầu chúng. Đó không chỉ do lòng sùng mộ của một vài người, mà là một thói quen phổ biến trong quần chúng Kitô giáo. Việc chọn những câu Tin Mừng này thật ra rất chính đáng. Bởi vì những câu này là như bản tóm lược tất cả công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu độ nhân loại.
– Khởi đầu là xác quyết long trọng về bản tính của Đức Giêsu, Lời của Thiên Chúa. Do Lời, Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ. Thiên Chúa phán… và sự vật liền có. Nhờ người vạn vật được tạo thành, và không có Người thì chẳng có gì được tạo thành”. Gioan đã cả quyết rằng lúc tạo dựng, dù bóng tối dày đặc, cũng không thể cản được ánh sáng tạo dựng. Anh sáng đã xô đẩy và quét sạch bóng tối để ngự trị.
Trái với quyền lực mạnh mẽ lúc ban đầu của Lời Thiên Chúa, bỗng chốc Lời đó trở nên bất lực. “Ngôi Lời là sự sáng thật. Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng thế gian lại không nhận biết Người”. Đó là xác quyết về mầu nhiệm Nhập Thể. Lời của Thiên Chúa, Lời tạo thành, đã đến ở giữa phàm nhân. Nhưng bóng tối dày đặc đã ngăn cản ánh sáng nên thế gian không đón nhận ánh sáng. Ngay khi xác định việc Thiên Chúa Nhập thể, thì cũng cho thấy sức mạnh của tự do con người. Tự do ấy có thể khiến họ khước từ ánh sáng. Tội lỗi là một chướng ngại ngăn cản con người đến với Thiên Chúa, chướng ngại mà chính Thiên Chúa cũng không. thể vượt qua nếu con người không đồng ý.
Con Thiên Chúa “đã đến nơi nhà Người và gia nhân Người không đón nhận Người”. Đó là số phận của Người mới đến giữa nhân loại. Từ khi trốn sang Ai Cập, cho đến cuộc khổ nạn, chết trên thập giá, Người từ Thiên Chúa mới đến này bị anh em đồng loại của mình ruồng bắt, nghi ngờ, tố cáo, xét xử và hành quyết. Đó là công việc của ý muốn con người khi ý muốn ấy bị chi phối bởi đam mê xác thịt, đam mê trần thế và tính khát máu. Chúng ta gọi tên nó là tội. Khi phạm tội, người ta tìm thoả mãn ý riêng mình, thay vì tìm ý Chúa và vinh quang của Người. Như vậy, qui ngã là dấu cho thấy con người có thể gây cho Thiên Chúa những đau khổ tệ hại nhất, nỗi nhục nhằn kinh khủng nhất.
Tuy nhiên, Lời Thiên Chúa sẽ chiến thắng. Chiến thắng không do áp chế con người nhưng nhờ sự hoán cải trong tâm hồn. “Nhưng những ai đón nhận Người, những kẻ tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên Con Thiên Chúa”.
Một bức hoạ diễn tả thảm kịch của nhân loại đã được vẽ lên. Nó họa lai sự cao cả của Thiên Chúa, Đấng Sáng tạo và ơn cứu độ danh cho những người thiện tâm. Là nạn nhân của tính tự mãn, loài người không thể nào nhận biết Con Thiên Chúa nên đã đóng đinh Người trên thập giá. Chính thập giá lại trở nên cửa mở vào sự sống lại cho những ai chấp nhận đóng đinh tính tự mãn của mình trong cuộc sống hằng ngày, bằng tự nguyện từ bỏ vì đức tin. Lúc đó ánh sáng sẽ phủ ngợp con người họ”.
Tổng hợp sống động giữa hai quy trình xem là trái ngược (“Célébrer” số 264, trang 41-42).
Có thể coi phần thứ nhất (1-14) là lịch sử của Ngôi Lời; người ta dùng ngôi thứ ba để nói về Ngài: “Người”, “trong Người”, “nhờ người”. Qua việc dùng các động từ khác nhau, người ta lần lượt kể ra mối tương quan của Ngôi Lời với Thiên Chúa, vai trò của Người trong công cuộc tạo dựng, hoạt động của Người ở trần gian, và việc Người đến trong lịch sử nhân loại.
Cách trình bày này có lẽ do thánh thi ở sách Châm Ngôn đoạn 8 và sách Ben Sira đoạn 24 gợi ý. Ở hai sách này, Khôn Ngoan tự thuật về đời mình: được Thiên Chúa tạo dựng, Khôn Ngoan gợi ý cho Thiên Chúa trong việc tạo dựng, Khôn Ngoan đi lại với con người, chất vấn con người và sau vậy sự Khôn ngoan được nhân cách hoá này là gì? Có lẽ phải hiểu là kế hoạch mà Thiên Chúa có ở trong trí khi tạo dựng vũ trụ. Ngay từ đầu, Người biết rằng một ngày kia Người sẽ mạc khải mình trọn vẹn để đem hạnh phúc đến cho loài người. Kế hoạch này đã có sẵn trong mọi công trình của Người, mọi sự đều nói lên ý nghĩa do Người đặt định; mọi tạo vật nói về Người, ai cũng có thể nhận biết Người và giao tiếp với Thiên Chúa…
– Đọc phần thứ hai của Lời Tựa, ta cảm thấy mình ở trong một bối cảnh hoàn toàn khác: ba lần dùng danh xưng “chúng tôi” để chỉ cộng đoàn các môn đệ, ba câu vang lên như tiếng reo mừng, biểu lộ một cảm nghiệm ưu tuyển, mà ta cũng thấy ở thời Gioan, chương 1: “Điều vẫn có ngay từ lúc thời đầu, điều mà chúng tôi đã nghe…? Lần này không còn nói về điều ở trên trời, nhưng nói về cuộc gặp gỡ lịch sử, cự thể với Đức Giêsu Nagiarét, một cảm nghiệm không thể quên, được kêu lên trong niềm kinh ngạc và xúc động: phải, chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Chúa Cha, phải, chúng tôi đã nhìn thấy sự sống chiến thắng sự chết, phải chúng tôi đã nhìn thấy bóng tối không ngăn cản được ánh sáng. Từ cuộc gặp gỡ lịch sử này, chúng ta đi ngược lên tới tận nguồn gốc của Ngôi Lời. Như vậy Lời Tựa đã tổng hợp hai quy trình xem ra trái ngược nhau một cách sống động: giải thích tổng quát lịch sử và cảm nghiệm độc nhất vào một thời điểm nhất định. Bởi vậy, Ngôi Lời đã trở nên người phàm, có nghĩa cụ thể là: ý định mà Thiên Chúa có khi tạo thành vũ trụ đã được tỏ lộ qua sự kiện Nhập Thể – đó là dấu chỉ mà Người nhắn gởi đến nhân loại qua mọi thành phần trong vũ trụ, qua sự gắn bó chặt chẽ của mọi vật trong trời đất, qua Giao ước tạo lập nên một dân tộc tất cả những điều đó giờ đây đã hình thành và mang khuôn mặt của Đức Giêsu Nagiarét, Lời duy nhất của Chúa Cha, và từ nay mọi người hoàn thành số phận của mình bằng cách trở nên giống Chúa Con”.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam