Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 43

Tổng truy cập: 1362362

ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN

ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN(*) Chú giải của Noel Quesson

 

Vào chiều hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần… các môn đệ khi đó tụ tập lại… Tám ngày sau, các môn đệ lại ở trong nhà…

Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai sự hiện tỏ của Đức Giêsu đã sống lại, cách khoảng 8 ngày. Một cách tự nhiên, chúng ta có xu hướng tập trung chú ý vào cuộc hiện ra lần thứ hai, đó là với Tôma… bởi vì chúng ta thường khi tự động hóa mình với ông, và tìm được một giải pháp thực tiễn là có dưới tay mình một người nào đó hoài nghi, một người nào đó khó tin… và tìm ra được nơi ông một thứ biện minh cho sự thiếu lòng tin của chính chúng ta.

Nhưng những sự thông đồng của chúng ta với Tôma không ngăn chúng ta đọc toàn thể văn bản. Trước hết chúng ta lưu ý rằng Đức Giêsu hằng sống hiện ra, chuyện đó có phải tình cờ không? Vào Chúa nhật. Ngày thứ nhất trong tuần. Chúng ta biết rất rõ những Kitô hữu ban đầu không họp nhau mỗi ngày đâu. Chính họ, họ cũng có cuộc sống hằng ngày của mình. Họ không thể luôn luôn ở với nhau được. Vì thế, chính trong khuôn khổ cuộc gặp gỡ hằng tuần của họ, mà Đức Giêsu sống lại đến thăm. Chúng ta có thể sai lầm khi nghĩ rằng đức tin là một công việc có nhiều tính cách riêng tư hay cá nhân: chúng ta nhận thấy rằng sự hiện diện của Đức Kitô sống lại chủ yếu được người ta thử nghiệm, nhận biết, cảm thấy trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ cộng đoàn. Họ ở với nhau,…hội họp lại… trong Giáo Hội.

Các môn đệ đã gài chốt các cửa nơi họ ở, bởi vì họ sợ. Đức Giêsu hiện đến và ở giữa họ.

Khi thánh Gioan viết điều đó, thì lúc ấy luôn luôn là thời gian sợ hãi và bách hại. Các môn đệ của Chúa Giêsu có thói quen khi hội họp ở nhà người này, khi ở nhà kia. Họ đón tiếp nhau… Họ tin cậy nhau. Có những vụ bỏ cuộc, những người bỏ đức tin và nhóm… Họ cũng sợ… Họ cài chốt các cửa lại. Nhưng ở mỗi Chúa nhật, dấu chỉ của phòng tiệc ly được làm lại, Chúa nhật đầu tiên này: một cách huyền nhiệm, Đức Kitô lẻn vào giữa những người thân của Người, tại nơi họ đang ở: E-phê-sô, Cô-rin-tô, Giêrusalem, Roma. Vâng, mỗi Chúa nhật, chính là lễ Phục sinh! Chúa ở đó, ngay giữa cuộc đời chúng con, và chính Chúa đã làm cho chúng con được sống… Không thấy Chúa, chúng con vẫn tin.

Lạy Chúa hôm nay, chúng con cũng bị cám dỗ cài chết cữa nhà một cách sợ hãi. Khi Thần Khí thổi vào, chớ chi các bức tường trong nhà tù của chúng con sập đổ, chớ chi thời giờ ca hát của chúng con trở lại: Chúng ta hãy mở cửa nhà chúng ta cho Đức Kitô sống lại!

Trước khi đi xa hớn trong cuộc suy niệm Tin Mừng này chúng ta hãy xin Đức Kitô, để giải thoát chúng ta, làm cho chúng ta sống lại khỏi tình huống chết chóc nào. Như tội lỗi, như thử thách về sức khỏe, như những gò bó đau đớn và tuyệt vọng, như khó khăn gia đình và nghề nghiệp… Nơi mà ở đó họ đã gài then cửa!

Người nói với họ: “Bình an cho anh em!”.Nói xong Người cho họ xem bàn tay và cạnh sườn Người. Các môn đệ tràn ngập vui mừng khi thấy Chúa. Đức Giêsu lại nói với họ: “Bình an cho anh em!”

Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô giáo trước hết không phải là một niềm vui dễ dãi, niềm vui tự phát, thứ niềm vui nâng chúng ta lên cao khi mọi chuyện xuông xẻ, khi sức khỏe được tốt lành, tuổi trẻ ở đó đầy sức sống, khi các doanh nghiệp của chúng ta thành công, khi các quan hệ bạn bè và gia đinh được dễ chịu. Niềm vui Phục sinh, chính là niềm vui đến sau sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an đi trở lên từ một tinh huống về cơ bản là thất vọng (cái chết của một Đấng bị đóng đinh) mà không gì có thể tước đoạt được! Đó là niềm vui và sự bình an đến từ lòng tin vào Đức Giêsu, ở mỗi cuộc hội họp Chúa nhật, giống như ngày đó, Đức Giêsu nguyện chúc sự bình an qua tiếng nói của vị linh mục: “Bình an cho anh chị em!”. Và Công đồng Vatican II đã lập lại truyền thống xưa “hôn bình an: các Kitô hữu được mời ban bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô. Trao cho nhau một cái bát tay, ôm lấy nhau, mỉm cười với nhau, trong khi vừa chúc với nhau: Bình an Đức Kitô. Đó không phải là một cử chỉ tầm thướng… chính là “trở nên Đức Kitô” với người gần ta…, khi nhiều người họp nhau lại nhân danh Ta. Ta sẽ ở giữa họ.

“Như Chúa Cha đã sai Thầy. Thầy cũng sai anh em..”

Đấy! Chúng ta không tin là nói quá tốt như thế!chính Đức Kitô nói lại với chúng ta… Tôi, người đàn ông đáng thương người đàn bà đáng thương, tôi là “Giêsu” được sai đến cùng anh em tôi… đúng như Người đã được Cha mình sai đi. Ta đừng đi quá nhanh trên các từ này. Ta đừng đi quá nhanh để bắt kịp Tôma, người cứng lòng tin. Hãy nán lại trên các từ về Đức Giêsu. Chúng ta hãy nghe trách nhiệm cao vời mà Người trao cho chúng ta: “sứ mệnh” của Đức Kitô được trao cho Giáo Hội, cho tôi, một phần. Tôi được Đức Giêsu sai đi… như Đức Giêsu đã được Cha sai đi! Tôi còn phải khám phá ra ý nghĩa của hai từ này, thêm một lần nữa, đó là những từ Latinh và Hy Lạp không được dịch ra, hỡi ôi. “Sứ mệnh” có nghĩa “sự sai đi” (từ missus trong Latinh)… và “tông đồ có nghĩa là “người được sai đi” (từ Apostolos trong tiếng Hy Lạp)…

Khi tôi gặp gỡ một người nào, trong công việc của tôi, trong môi trường cuộc cống của tôi, tôi không ở đó chỉ nhân danh riêng tôi, vì lợi ích của tôi: Tôi được Đức Giêsu sai đến đó nhân danh Người, vì lợi ích của chính Người! Như Đức Giêsu đã được Cha Người sai đi! Tôi còn phải nói với một sứ điệp của Đức Giêsu: chính Người nói cho bạn biết điều mà tôi sắp nói với bạn… người đang sống trong tôi là đôi môi và thân xác của Người, ở gần với Người, để tỏ ra cho bạn tình yêu của Chúa Cha.

Khi đã nói xong. Người thổi hơi trên họ và Người nói với các ông: “Anh em nhận lấy Thánh Thần”.

Ơn huệ của Thánh Thần, sự sáng tạo mới… Thần Khí của Đức Giêsu được truyền đạt cho các môn đệ của Người. Đức Giêsu đã chết, “trở lại cùng với Cha”. Nhưng người Kitô hữu nhận lấy đà tiếp sức! Họ là những người mang hơi thở đầy sinh lực và Thần Khí Người… họ đi theo công trình của Người: Thánh Phaolô sẽ nói: “Anh em là Thân thể Đức Ki- tô, anh em là Đền Thờ của Thánh Thần. Thánh Gioan, chính ông cho chúng ta thấy, vì lợi ích chính mình, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Sáng Tạo trong sách Sáng Thế (St 2,7): “Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin hãy đến (Veni, Creator Spintua)”.

Đối với Gioan, Lễ Hiện Xuống, chính là buổi chiều ngày Lễ PS cái chính yếu trong hoạt động của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng cái chết, chính là ơn huệ của Chúa Thánh Thần, Người đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ trong những kẻ chết (Rm 8,11). Trong kinh Tin Kính, đó là điều mà chúng ta khẳng định một cách chính yếu về Chúa Thánh Thần: Ngài là Đức Chúa, và Ngài ban sự sống. Thánh Thần được ban cho con người ngay chính chiều ngày Phục sinh, và Ngài sẽ tỏa sáng rực rỡ trên công trường năm mươi ngày sau, vào ngày lễ Hiện Xuống, chính cùng một Thánh Thần này, vừa mới thành công một đòn bậc Thầy nếu ta cấm nói như thế, bằng cách kéo Đức Giêsu khỏi sự chết, đồng thời mạc khải Người là Con Thiên Chúa nhờ sự Phục sinh. “Nhờ sự Phục Sinh Người được lập là Con Thiên Chúa theo Chúa Thánh Thần”.

“Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha..”

Trói buộc, và tháo gỡ, tha thứ và cầm buộc… các tội lỗi. Lời lẽ này là một công thức ngữ pháp aramên: người ta dùng hai từ trái nghĩa để khẳng định mạnh mẽ hơn nữa một thực tại, và nhấn mạnh lên từ “tích cực”. Vì thế, khi ban cho họ Thần Khí của Người, Đức Giêsu cũng ban cho các môn đệ của Người quyền tháo gỡ con người khỏi sự xấu của mình: Từ nay, trên trần gian này, họ là những người mang theo lòng thương xót của Thiên Chúa… như Đức Giêsu khi trước: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Các Kitô hữu được mặc lấy sứ mệnh mà chính Đức Giêsu đã nói là của Người, trong giáo đường Na-da-rét, đầu tác vụ của Người: Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi, Thần Khí Thiên Chúa đã thánh hóa tôi. Người đã sai tôi đi mang Tin Mừng cho người nghèo khó, loan báo một năm hồng ân do bởi Thiên Chúa, giải thoát những người tù đầy ” (Lc 4,18-19). Tôi có phải là người mang tinh thần đó, Thần Khí giải phóng, của Thần Khí ban sự sống, của Thần Khí yêu thương, và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không? Sự tha thứ là một ân huệ Phục sinh.

Một trong Nhóm Mười Hai, Tôma, lúc đó không ở với các ông, khi Đức Giêsu hiện đến… ông tuyên bố: “Nếu tôi không thấy… tôi sẽ không tin…”

Đấy là “người đến trễ, đến sau cuộc lễ Gặp gỡ. Tôma, luôn luôn, trong Tin Mừng, là người chỉ tin vào lương tri của mình, con người tích cực ngờ vực những hành vi táo bạo của Đức Giêsu. “Lạy Chúa, chúng con không biết Chúa đi đâu” (Ga 14,15). Khi Đức Giêsu nói về sự sống lại của La-da-rô, thì chính Tôma chỉ thấy sự chết (Ga11,15-16).

Tám ngày sau… Đức Giêsu lại đến: “Đặt ngón tay anh vào đây, hãy xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin nữa…”

Đức Giêsu, dù đã sống lại, vẫn có tính khôi hài? Người đã để cho Tôma, bên ngoài, xem ra có lý trong một tuần. Chính với một cách mỉm cười mà tôi đã xem Đức Giêsu nói thẳng với Tôma. Đức Giêsu như có vẻ nói với ông: Anh bạn đáng thương của tôi ơi, bạn đã tưởng tôi chết, và vắng mặt, khi bạn nói với các bạn khác, bảo với họ là bạn không tin… nhưng tôi vẫn ở đó, vô hình, có nghe chuyện bạn nói. Dẫu vậy, tôi không tỏ mình cho bạn lúc đó. Ôi! Sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người luôn có tất cả thời gian của Người.

Tôma nói: “Lạy Chúa của con và Thiên Chúa của con”.

Đó chính là tiếng kêu đức tin của một người mà đối với anh ta, sự đụng chạm cũng thành vô ích. Anh ta đã hiểu rằng Đức Giêsu, dù vồ hình, vẩn có ở đó. Ngay giờ phút ông hoài nghi, thì Người cũng có mặt ở đó.

Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin.

Một mối phúc thật, mối phúc cuối cùng. Người ta không thể trông thấy những thực tại cao cả nhất của Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới đưa chúng ta tới đó. Đó chính là hạnh phúc đích thực.

(*)Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT II PHỤC SINH- A

TỪ NHẬN THỨC ĐẾN TRUYỀN GIÁO- Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:

*1.Từ Chúa nhật.

Phần đầu của Phúc âm Chúa nhật này – năm nào ta cũng đọc lại – đưa ta đến “Sau cái chết của Đức Giêsu” buổi chiều “ngày thứ nhất trong tuần, ngày qui tụ phụng vụ của các Kitô hữu, thời gian thuận tiện để Chúa hiện diện giữa cộng đoàn mà Người qui tụ để chia sẻ Lời và Bánh, và để sai họ đi vào thế giới.

Trong trình thuật, ta gặp lại 3 thời gian đặc biệt của tiến trình phục sinh.

– Sáng kiến của Đấng Phục Sinh “đến” thăm.

– Nhận biết Đức Giêsu đang sống thắng vượt cái chết.

– Sứ mệnh nhận từ Đấng Phục Sinh.

Các môn đệ hội họp ở một nơi mà các cửa đều đóng kín vì họ sợ người Do Thái, tức là chức quyền tôn giáo ở Giêrusalem. Có lẽ qua việc xác định rõ ràng này, tác giả muốn nói tới cảnh bắt bớ mà những người nghe Phúc âm phải chịu: bị loại ra khỏi Hội Đường vì họ nhận Đức Giêsu là Kitô. Dần dà, họ tìm những địa điểm họp riêng, tránh ánh mắt của những kẻ bắt bớ. Trong lúc họ họp nhau, Đức Giêsu tới với họ “Đức Giêsu đến và ở giữa họ”. Lời đầu tiên của Người là lời chúc bình an. “bình an cho các con” (Shalom). Ơn cứu độ không chỉ là một lời chúc lịch sự, nhưng là ơn cứu độ có hiệu quả, của niềm vui, và niềm bình an.

Nhận Đức Giêsu sống vượt qua cái chết.

Đức Giêsu cho họ xem: “Tay và cạnh sườn Người (đối chiếu với ngọn giáo của Gioan). Marchadour bình luận: “Dấu vết của việc đóng đinh trên tay và cạnh sườn Đức Giêsu chứng tỏ rằng, dù những điều kiện lạ lùng trong các cuộc tỏ mình ra của Đức Giêsu, tác giả Phúc âm không muốn các độc giả lầm Chúa với một bóng ma, nghĩa là một người khác với Đấng chịu đóng đinh. Chắc chắn, sự hiện diện thể lý bình thường của Đức Giêsu không còn nữa, nhưng Đấng ngự giữa họ vẫn là Chúa Giêsu, nghĩa là cũng vẫn là Đấng mà họ đã biết và đã yêu, nhưng từ nay đã biến hình đổi dạng qua cuộc phục sinh. Sợ hãi tiêu tan, các môn đệ tràn đầy niềm vui.

Sứ mệnh nhận từ Đấng phục sinh.

Sự hiện ra của Đấng phục sinh không có một mục đích tự thân. Nó khai mở ra một sứ mệnh: sai đi, với sức mạnh của Thánh Linh, đem cho mọi người Tin Mừng về ơn tha thứ của Thiên Chúa. “Như Cha đã sai Thầy thế nào, Thầy cũng sai các con như vậy”. Nói thế rồi Người rồi thổi hơi trên các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha…”

A.Marchadour bình luận: Đó không phải chỉ là một so sánh, đó chính là một nền tảng, một cội rễ. Các môn đệ được sai đi (nguyên ngữ là: trở thành tông đồ) để nối dài hoạt động của Đức Giêsu… Như Thiên Chúa đã thổi hơi thần khí của Người vào Ađam (St 2,7), như Thánh Thần xuống trên Đức Giêsu (1,33-34), Đức Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn phong làm Đức Chúa, cũng thổi hơi cùng một động từ như ở (St 2,7) sức mạnh của Thánh Thần trên các tông đồ… Như Thiên Chúa, rồi như Đức Giêsu kẻ được Thiên Chúa sai đi, các môn đệ tha thứ tội lỗi nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong sức mạnh của sự chết của Đức Giêsu.

*2. Tới Chúa nhật.

Sự vắng mặt của Tôma vào ngày thứ nhất trong tuần cho phép tác giả Phúc âm dẫn nhập vào màn kế tiếp, “tám ngày sau”. Típ người tiêu biểu cho sự cứng lòng, ông từ chối xếp mình vào hàng ngũ chứng nhân của các tông đồ khác và ông nghi ngờ Đức Giêsu phục sinh: ông đòi “thấy” và “sờ” rồi mới “tin”.

Thế là Đức Giêsu đến một lần nữa, ngôn ngữ dùng miêu tả cũng như lần hiện ra trước. Đức Giêsu lại hiện diện, dù các cửa đều “khoá chặt”. Lại một lần nữa, Người gởi lời chào phục sinh: “Bình an cho các con”. Một lần nữa, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Hơn nữa, Người nói với Tôma, nhấn mạnh đến tính cách liên tục và tính cách mạch lạc giữa tình trạng bị đóng đinh và tình trạng vinh hiển hiện tại: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, hãy xem tay Thầy, hãy thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy. Gérard Bessière thắc mắc: “Người tông đồ cứng lòng tin ấy có làm như thế không. Từ lâu người ta đầy tranh cãi về điều ấy. Những bức hoạ thường chỉ vẽ Tôma đang giơ tay về phía những vết thương. Điều quan trọng ấy là lời nói thốt ra: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin. Và đây tìm lại được đức tin, Tôma kẻ cứng lòng đã tặng Đức Giêsu danh hiệu lớn lao nhất của cả Phúc âm: “Lạy Chúa là Thiên Chúa tôi”. “Một đỉnh cao mà các định nghĩa tín lý sau này không vượt qua nổi. Giữa “Ngôi Lời là Thiên Chúa” ở khởi đầu (1,1) và lời tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa và là Thiên Chúa”, không còn gì để nói thêm nữa. Càng rõ ràng hơn nữa khi kẻ làm chứng về chân lý này lại là kẻ không muốn tin vào lời chứng của các tông đồ.

  1. Cho tới Chúa nhật hôm nay

Màn kịch kết thúc bằng một mối phúc hứa ban cho những ai sống trong thời đại vắng bóng sự hiện diện thể lý của đức Giêsu, là chính chúng ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin. Mối phúc cuối cùng của eáe Phúc âm, mối phúc của những kẻ tin. A. Marchadour nói tiếp: Đó là câu kết luận của cả cuốn Phúc âm và nhấc lại một chủ đề lớn trong Do Thái giáo: Giữa điều thấy và điều tin, cảnh tượng và lắng nghe, sự trình bày và lời lẽ, chính từ thứ 2 tạo nên điều kiện bình thường và lý tưởng của tín hữu. Ngay cả những kẻ đã thấy cũng phải tin vượt quá điều họ thấy. Ngôi Lời, ngay từ phút giây trở thành “nhục thể” đã chỉ cho các môn đệ thấy “nhục thể” nghĩa là nhân tính nơi lẽ ra ta phải “thấy Thiên Chúa tỏ mình ra trong vinh quang”. Chúng ta thật phúc đức những người tiếp nhận Phúc âm. Chúng ta không thấy, nếu, do lời chứng của các tông đồ mà ta gắn bó với Đức Kitô và trở thành tín hữu.

BÀI ĐỌC THÊM

Sai đi như Chúa Cha đã sai.

Phòng đóng kín, Đức Giêsu đột ngột hiện ra giữa các môn đệ, ba lời vắn vỏi: bình an, Thánh Thần, tha tội. Ở đây các môn đệ sợ người Do Thái chứ không sợ ma. Trái lại, họ tràn đầy niềm vui. Sao họ có thể dè dặt về căn tính của Đấng hiện ra, vì Người đã cho họ xem thấy và cạnh sườn Người? Đức tin vào sự phục sinh phát sinh từ khám phá này, cũng với niềm bình an và niềm vui được gặp lại Người, 2 món quà của thời đại Messia mà Người đã hứa cho họ. Theo Gioan và Luca, sự hiện diện của Người không có mục đích đưa họ trở lại quá khứ nhung nhớ: Đức Giêsu “sai” họ như Cha Người đã sai Người. Họ trở nên “Tông đồ” của Người. Để tấn phong, người thổi hơi, nghĩa là ban Thánh Thần của Người cho họ theo 2 nghĩa của từ ngữ bằng tiếng Do Thái và Hy lạp. Theo Gioan, thổi hơi liên hệ đến việc ban phát hào sóng Thánh Thần mà Luca đặt vào thời điểm 50 ngày sau, trong lễ Hiện Xuống. An ban Thánh Thần cho phép họ tha thứ tội lỗi mà theo Gioan, chủ yếu là tội từ chối tin Đức Giêsu là Con Chúa Cha. Ai tuyên xưng Người sẽ được tha tội, vượt qua cái chết đến sự sống. Sứ mạng của các tông đồ là loan báo tha tội này nhân danh Đức Giêsu.

Chiêm ngắm Đức Giêsu trong “tấm gương” đức tin của những kẻ đã thấy.

Đức Giêsu tuyên bố từ nay sẽ là chế độ đức tin. Người đã tỏ mình ra trong vinh quang phục sinh cho các tông đồ và các môn đệ. Họ sẽ là những chứng nhân ưu tuyển đã thấy trước điều mai sau sẽ tỏ ra cho mọi người: khi chúng ta thấy- Người diện đối diện, ta sẽ nhận ra Đấng đã cho ta xỏ ngón tay vào vết thương trên bàn tay và ở cạnh sườn người. Trong khi chờ đợi ngày mạc khải chung cuộc ta tìm thấy sự bảo đảm và niềm vui của đức tin trong chứng từ của các môn đệ đầu tiên. Phúc cho những ai không thảy mà tin. Ta tin khi chiêm ngắm Đức Giêsu trong tấm gương đức tin của những chứng nhân đã thấy Chúa, cho dù đối với ta sự phục sinh vẫn là một điều khó hiểu. Nếu ta tiếp nhận phép lạ phục sinh trong sự vững vàng tăm tối của đức tin, một ngày kia Đấng phục sinh sẽ tỏ mình cho ta, và ta sẽ phải kêu lên như Tôma: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con.

home Mục lục Lưu trữ