Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 107
Tổng truy cập: 1358197
DẤU CHỈ KÈM THEO
Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật IV Thường Niên Năm B, Bài Đọc I và Tin Mừng minh chứng rằng Đức Giê-su đến để thực hiện một trong những niềm mong đợi của dân Ít-ra-en: chính Ngài là vị Ngôn Sứ tuyệt hảo xuất thân từ họ và ở giữa họ.
Đnl 18: 15-20
Theo sách Đệ Nhị Luật, ông Mô-sê cảnh giác dân Ít-ra-en coi chừng những “ngôn sứ mạo danh”, nhưng đồng thời ông cũng loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban cho dân Ngài một vị ngôn sứ đích thật. Vị Ngôn Sứ này sẽ là “Phát Ngôn của Thiên Chúa” bên cạnh dân Ngài.
1Cr 7: 32-35
Trong đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô này, thánh nhân đề cập đến đời sống hôn nhân và đời sống độc thân.
Mc 1: 21-28
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô giới thiệu Đức Giê-su có quyền năng trong lời nói cũng như việc làm; Ngài là Phát Ngôn của Thiên Chúa bên cạnh dân Ngài, đồng thời là Phát Ngôn của dân Ngài bên cạnh Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Đnl 18: 15-20)
Sách Đệ Nhị Luật là cuốn sách cuối cùng của bộ Ngũ Thư mà dân Do thái gọi là sách “To-ra”, nghĩa là sách “Luật”.
Nhan đề: “Đệ Nhị Luật”, có nghĩa “luật thứ hai” (“Thứ luật”). Quả thật, sách nầy được đặt vào trong bối cảnh ông Mô-sê nhắc lại những lời dạy của Đức Chúa cho dân Ít-ra-en như những lời trăn trối sau cùng, bản di chúc của ông, trước khi qua đời. Sách được soạn thảo vào thế kỷ thứ bảy trước Công Nguyên. Như vậy, việc khai triển Luật được định vị vào trong việc nối dài giáo huấn của ông Mô-sê. Điều nầy muốn nói rằng có một sự liên tục và trung thành với Luật; uy quyền của Luật luôn luôn được đặt dưới sự bảo lãnh của người khởi xướng. Thật ra, sách Đệ Nhị Luật phản ảnh bối cảnh dân Ít-ra-en định cư lập nghiệp ở xứ Ca-na-an hơn năm thế kỷ rồi. Vì thế, bầu khí hăng say nhiệt thành thuở ban đầu đã lắng xuống. Tuy nhiên, nhờ độ nhạy bén của những sấm ngôn, tâm tình tôn giáo lại được hâm nóng trở lại.
*1.Định chế ngôn sứ.
Đoạn văn nầy được trích từ một diễn từ dài của ông Mô-sê trong đó ông tiên báo định chế quân chủ và định chế ngôn sứ. Đoạn trích hôm nay nêu lên định chế ngôn sứ. Theo văn mạch, trong một đoạn văn trước đó, ông Mô-sê vừa mới căn dặn rằng nếu dân chúng muốn tôn một người lên làm vua, thì người đó không phải là một người ngoại quốc, nhưng phải là một người trong số họ, được Thiên Chúa chọn (Đnl 17: 14-15).
Trong đoạn trích hôm nay, cũng một cách đề phòng như vậy đối với một ngôn sứ. Dân chúng không được đi tìm kiếm một nhân vật ngoại quốc nào khác thực hành ma thuật, bùa chú, bói toán, hay gieo quẻ xem xăm, vân vân. Chính “từ giữa đồng bào của anh em” mà Thiên Chúa sẽ cho xuất hiện ngôn sứ của Ngài, người ấy sẽ là phát ngôn của Ngài bên cạnh dân Ngài: “Ta sẽ đặt lời Ta trong miệng người ấy, và người ấy sẽ nói với chúng tất cả những gì Ta truyền cho người ấy”.
Đây không phải là lời tiên báo về một ngôn sứ độc nhất, nhưng về những ngôn sứ mà mỗi lần dân chúng cần đến một người trung gian như ông Mô-sê. Vì thế, ông Mô-sê đã tiên báo trào lưu ngôn sứ một cách khái quát, như câu trích sau cùng nói lên cách rõ ràng hơn: “Ngôn sứ nào cả gan nhân danh Ta mà nói lời Ta đã không truyền cho nói, hoặc nhân danh những thần khác mà nói, thì ngôn sứ đó phải chết”.
Sau nầy, khi trào lưu ngôn sứ đã biến mất, người ta sẽ đọc lại bản văn này theo một cách khác và người ta sẽ hiểu lời tiên báo nầy về một vị ngôn sứ vĩ đại vào thời Thiên Sai, một Mô-sê mới. Đó là lý do tại sao những người được Giáo Quyền Giê-ru-sa-lem cử đến hỏi ông Gioan: “Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?” (Ga 1: 21).
*2.Thấy Thiên Chúa mà vẫn sống.
Lời tiên báo nầy đáp lại nguyện ước của dân chúng. Trên đỉnh núi Xi-nai, Thiên Chúa đã tỏ mình ra và phán dạy trực tiếp với dân chúng khiến họ khiếp sợ nên cầu xin ông Mô-sê: “Xin chính ông nói với chúng tôi, chúng tôi mới dám nghe; nhưng xin Thiên Chúa đừng nói với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất” (Xh 20: 19).
Đây là sự sợ hãi linh thánh rất phổ biến vào thời đó, vì người ta tin rằng không ai thấy thần linh mà có thể vẫn sống. Giữa thần linh và phàm nhân có một khoảng cách vô tận đến mức con người như bị tan biến vào trong cõi hư vô. Vì thế, khi đặt của dâng cúng trên bàn thờ, tín đồ không được nhìn ngoái lại đằng sau kẻo chẳng may nhìn thấy thần linh đến nhận của lễ mà mình phải chết chăng. Có rất nhiều giai thoại cấm nhìn lại đằng sau như bà vợ của ông Lót vì “ngoái lại đằng sau mà hóa thành cột muối” (St 19: 26) hay ngôn sứ Ê-li-a lấy áo choàng che mặt khi gió hiu hiu thổi báo hiệu sự hiện diện của Đức Chúa; vì thế, ông chỉ nghe tiếng chứ không nhìn thấy hình (1V 19: 12-13).
Bản văn Đệ Nhật Luật nầy, được đọc trong ánh sáng Tân Ước, mặc lấy tất cả mọi chiều kích của nó. Đức Giê-su là vị Ngôn Sứ đã được ông Mô-sê tiên báo. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, Phát Ngôn trung thành của Chúa Cha, Đấng Trung Gian tuyệt hảo giữa Thiên Chúa và con người. Ngoài ra, Đức Giê-su chính là hiện thân của Thiên Chúa ở giữa loài người mà con người có thể tiến lại gần, chẳng những không phải chết, trái lại được đón nhận “hết ân nầy đến ân khác” của Ngài nữa (Ga 1; 16).
BÀI ĐỌC II (1Cr 7: 32-36)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích hôm nay, thánh nhân ca ngợi đời sống độc thân trổi vượt trên đời sống hôn nhân, vì người sống đời độc thân mới có thể tận tâm tận lực “chuyên lo việc Chúa”. Có hai cách giải thích thái độ của thánh nhân trong việc đề cao đời sống độc thân và giảm nhẹ đời sống hôn nhân.
*1.Kinh nghiệm bản thân.
Cách giải thích thứ nhất từ chính kinh nghiệm bản thân của thánh nhân. Với tư cách là người lữ hành của Thiên Chúa, thánh Phao-lô rong ruỗi trên khắp mọi nẽo đường, tận tâm tận lực chu toàn “sứ mạng loan báo Tin Mừng cho muôn dân”. Vì thế, trong một đoạn văn trước đó, thánh nhân không ngần ngại viện dẫn đời sống độc thân của mình ra làm gương: “Tôi ước muốn mọi người đều như tôi” (1Cr 7: 7).
*2.Quan niệm văn hóa và xã hội.
Cách giải thích thứ hai từ quan niệm văn hóa thời đó, đặc biệt vị thế của người phụ nữ trong xã hội xưa. Thánh nhân vừa mới nói một cách tế nhị về đời sống hôn nhân và những bổn phận hỗ tương giữa chồng và vợ, cũng như nhắc nhở họ mối giây ràng buộc bất khả phân ly của hôn nhân. Từ đó suy ra rằng đời sống độc thân giải phóng chúng ta khỏi những mối dây ràng buộc trong đời sống vợ chồng và con cái, vì thế chúng ta được hoàn toàn tự do trong việc “chuyên lo phục vụ Chúa”.
Chuyện vợ chồng giúp nhau thăng tiến đời sống tâm linh trong việc chuyên lo phụng sự Chúa không thể không nẩy sinh trong tâm trí thánh nhân. Tuy nhiên, theo quan niệm văn hóa và xã hội vào thời thánh nhân, chủ nghĩa thượng tôn nam giới tạo nên rào cản cho sự phát triển về quyền bình đẳng giữa chồng và vợ trong đời sống gia đình Ki-tô giáo. Thật ra, môi trường Cô-rin-tô thấm nhuần văn hóa Hy lạp, vì thế những người phụ nữ hưởng được một sự tự do khiến thánh nhân kinh ngạc. Chính trong bức thư nầy, thánh nhân nhắc nhở các người phụ nữ phải trùm khăn che đầu và không được lên tiếng trong các buổi hội họp cộng đồng, vì người nữ phải giữ thái độ im lặng và phục tùng, vân vân. Về quan điểm nầy, thánh Phao-lô vẫn chịu ảnh hưởng rất sâu đậm những quan niệm Do thái giáo kém tiến bộ. Tuy nhiên, thánh nhân biết công bố quyền bình đẳng của tất cả con cái Thiên Chúa: “Trong Chúa, không nam thì chẳng có nữ, và không nữ thì chẳng có nam” (1Cr 11: 11).
TIN MỪNG (Mc 1: 21-28)
Sau khi kêu gọi các môn đệ đầu tiên và được họ đáp trả một cách quảng đại và mau mắn (Chúa Nhật vừa qua), Đức Giê-su tiếp tục con đường của mình. Ngài đi dọc theo bờ hồ đến thành Ca-phác-na-um.
*1.Thành Ca-phác-na-um.
Thành Ca-phác-na-um hưởng được một vị thế địa lý đặc biệt: giáp ranh giới với ba nước: Sy-ri, Phê-nê-xi, Pa-lét-tin, và có một đại lộ chạy từ Giê-ru-sa-lem đến Đa-mát. Vì thế, thành phố được mệnh danh là “Ngã Tư Quốc Tế”. Chính thành này Đức Giê-su sẽ thiết lập cứ điểm truyền giáo của Ngài, dấu chỉ hàm ẩn chiều kích phổ quát sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, Đức Giê-su bắt đầu giảng dạy trong các hội đường như sau nầy các Tông Đồ và cả thánh Phao-lô cũng sẽ theo gương Ngài.
Hội đường là nơi các tín hữu tụ họp và cầu nguyện. Chỉ ở Giê-ru-sa-lem mới có đền thờ và hàng giáo sĩ, ở đó các tín hữu mới có thể dâng hy lễ lên Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Vào ngày Sa-bát, các tín hữu tụ họp ở hội đường, luôn luôn vào buổi sáng, để cử hành phụng vụ Lời Chúa (các bản văn Luật và các sách ngôn sứ), hát thánh thi chúc tụng, ngâm thánh vịnh và cầu nguyện. Mọi tín hữu, hoặc tự nguyện hay được chỉ định, có thể công bố và giải thích những bản văn Kinh Thánh. Chính như vậy mà Đức Giê-su được mời công bố và giải thích Kinh Thánh vào một buổi phụng vụ sa-bát ở hội đường Na-da-rét, nơi Ngài sinh trưởng.
Thánh Mác-cô tường thuật cho chúng ta hai hoạt cảnh diễn ra trong hội đường Ca-phác-na-um. Một mặt, thánh ký bận tâm phác thảo diện mạo của Đức Giê-su, nêu bật uy quyền đặc biệt mà người ta nhận ra ở nơi Ngài: Đức Giê-su xuất hiện không chỉ với uy quyền của Ngôi Lời Thiên Chúa, chủ tể của Kinh Thánh, nhưng cũng với uy quyền của một con người thanh khiết và hoàn hảo đến nổi không bất kỳ sự thâm hiểm gian ác nào có thể chịu đựng nổi sự hiện diện của Ngài. Mặt khác, ngay từ đầu, thánh Mác-cô cũng nêu bật hai phương cách tiến hành thường hằng mà Đức Giê-su sẽ thực hiện trong suốt sứ vụ của Ngài: giảng dạy và dấu chỉ kèm theo, qua đó người ta nhận ra mầu nhiệm của Ngài: Đấng có uy quyền trong lời nói và việc làm, hay đúng hơn Đấng có uy quyền trong lời nói được minh chứng qua việc làm.
*2.Cách thức Đức Giê-su giảng dạy:
“Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư”. Các kinh sư thường nhất là những người có bằng cấp học vị, được đào tạo trường lớp về những cách thức giải thích Kinh Thánh một cách tinh tế và uyên bác. Vì thế, những giáo huấn của họ dựa trên những truyền thống của các bậc kinh sư danh tiếng của họ. Riêng Đức Giê-su, Ngài không xuất thân từ bất cứ trường lớp nào và cũng không quy chiếu đến bất kỳ “bậc kinh sư” nào. Ngài giải thích và khai triển Kinh Thánh từ uy quyền của riêng Ngài và loan báo rằng mọi điều Kinh Thánh loan báo đều được ứng nghiệm ở nơi Ngài.
*3.Dấu chỉ kèm theo:
Không ai có thể buộc tội Ngài về bất cứ điều gì, đây là một sự mới lạ khiến Xa-tan phải tò mò muốn biết. Rồi, trong hoang địa, nó đã thử hiểu mầu nhiệm của con người nầy; ở Ca-pha-na-um, nó bày tỏ qua một người bị quỷ ám khốn khổ. Đối mặt với Đức Giê-su, tên hiểm ác phải công khai nhìn nhận sự thật và sự thật khiến nó phải nao lòng chột dạ: “Ông đến để tiêu diệt chúng tôi. Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Tuy nhiên, Đức Giê-su buộc nó phải câm lặng.
Hoạt cảnh Ca-pha-na-um không là duy nhất, nhưng còn xảy ra nhiều lần ở những nơi khác nữa. Chính thánh ký nói với chúng ta: “Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai” (Mc 1: 34).
*4.Mầu nhiệm của Đức Giê-su.
Đức Giê-su vẫn còn muốn giữ riêng bí mật về con người Ngài, vì sợ người ta hiểu lầm sứ mạng của Ngài. Thánh Mác-cô nhấn mạnh nhiều lần Đức Giê-su muốn bảo vệ mầu nhiệm của Ngài. Đó là điều mà các nhà chú giải gọi “bí mật Đấng Thiên Sai” theo Tin Mừng Mác-cô. Quả thật, trong suốt Tin Mừng nầy, Đức Giê-su kiên quyết bắt ma quỷ không được hé lộ chân tính của Ngài, cũng như Ngài cấm những người được chữa lành và ngay cả các môn đệ của Ngài không được tuyên xưng phẩm tính Thiên Sai của Ngài.
Thật không khó để hiểu được thái độ nầy của Đức Giê-su. Đấng Thiên Sai mà dân chúng biết bao mong đợi khác với hình ảnh mà Ngài sắp thực hiện: một Đấng Thiên Sai “nhân hậu và khiêm hạ tận mức”, theo hình ảnh của một Người Tôi Trung chịu đau khổ. Mầu nhiệm nầy chỉ có thể được bày tỏ một cách rực rỡ ở nơi biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
HÃY THEO ĐỨC GIÊSU VÌ NGÀI LÀ ĐẤNG CÓ UY QUYỀN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Đnl 18,15-20) : Môsê báo trước rằng sau này Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một Vị Ngôn Sứ trổi vượt tất cả các ngôn sứ.
– Đáp ca (Tv 94) : Lời kêu gọi tín hữu hãy lắng nghe tiếng Chúa.
– Tin Mừng (Mc 1,21-28) : Đức Giêsu chính là Vị Ngôn Sứ uy quyền mà Môsê đã tiên báo.
– Bài đọc II (1 Cr 7,32-35) (chủ đề phụ) : bàn về cuộc sống độc thân.
*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Có khi nào anh chị em đặt vấn đề : Thực ra sống đạo chủ yếu là gì không ? Lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết rằng sống đạo không chỉ là gia nhập tổ chức Giáo Hội, cũng không phải là cố gắng tuân giữ những quy luật và lễ nghi, mà sống đạo chủ yếu là đi theo Chúa. Mà Chúa là người rất đáng được chúng ta đi theo, bởi vì Ngài là Đấng rất uy quyền.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta kiên trì đi theo Ngài.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Tuy mang danh là tín hữu của Chúa, nhưng chúng ta ít khi chú ý lắng nghe tiếng Ngài.
– Chúng ta cố gắng đọc kinh, dự lễ, nhưng không quan tâm học hỏi gương Chúa để sống theo gương Ngài.
– Nhiều khi chúng ta không tin tưởng vào uy quyền của Chúa, mà lại cậy dựa vào những uy quyền thế tục như tiền bạc, địa vị, thậm chí có khi mê tín dị đoan nhờ đến quyền lực của ma quỷ.
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I (Đnl 18,15-20)
Dân do thái đã đi trong sa mạc 40 năm dài. Bây giờ họ sắp vào Đất Hứa, Môsê thì sắp từ giã cõi đời.
Trong những lời từ biệt dân chúng, Môsê an ủi bảo họ đừng buồn tiếc, và ông nói tiên tri rằng Thiên Chúa sẽ cho nổi lên một vị Ngôn Sứ chẳng kém gì ông mà còn trổi vượt hơn ông để dẫn dắt họ.
*2. Đáp ca (Tv 94)
Thánh vịnh này triển khai ý tưởng của bài đọc I. Vì Thiên Chúa sẽ cho nổi dậy một Ngôn Sứ trổi vượt mọi ngôn sứ, cho nên các tín hữu hãy lắng nghe tiếng Ngài.
*3. Tin Mừng (Mc 1,21-28)
Đức Giêsu chính là Vị Ngôn Sứ ưu việt mà Môsê tiên báo. Thánh Marcô trình bày Ngài là một Đấng rất uy quyền :
– Uy quyền trong lời nói : “Dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Ngài, vì Ngài giảng dạy người ta như một Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ”.
– Uy quyền trong hành động : Ngài chỉ cần nói một lời thì quỷ ô uế phải xuất khỏi người bị nó ám : “Ngài dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế”.
*4. Bài đọc II (1 Cr 7,32-35) (chủ đề phụ)
Thánh Phaolô đề cập đến các bậc sống : bậc độc thân thì thảnh thơi lo việc Chúa hơn bậc có gia đình.
*IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Đi tìm “minh chủ“
Trong lịch sử nước Trung Hoa, có những thời kỳ hỗn loạn vô chính phủ. Những tay hảo hán nổi lên xưng hùng xưng bá, mỗi người cát cứ một vùng. Có những bậc anh hùng hào kiệt bỏ công chịu khó tìm hiểu và cân nhắc để nhận định ai là minh chủ để dốc sức phò tá.
Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo Hội, cũng có một câu chuyện tương tự. Nhân vật chính là một người không tên. Chàng có sức mạnh hơn người và chỉ muốn dùng sức mạnh đó để phục vụ cho kẻ nào mạnh nhất. Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp nên xin đi theo hộ vệ cho một tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ một thầy phù thuỷ làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp để đi theo phù thuỷ. Một hôm, thấy phù thuỷ đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng lực sĩ bỏ rơi phù thuỷ đến đứng bên cạnh cây Thánh giá để chờ chủ nhân nó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh Giá. Nơi đó gần một khúc sông cạn. Một hôm, một câu bé đến nhờ chàng cõng minh qua sông, vì không có đò ngang. Chàng lực sĩ sẵn sàng. Nhưng mới bơi được một đoạn ngắn, chàng cảm thấy chú bé quá nặng, liền hỏi lý do. Cậu bé đáp “Ta nâng đỡ cả trái đất trên tay Ta, làm sao mà không nặng cho được” Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh Giá. Thế là chàng lực sĩ xin theo phò tá vị Chúa Tể trái đất ấy. Chúa dạy : muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang. Chàng lực sĩ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Chistophe, nghĩa là người đã mang Chúa Kitô trên vai.
Nếu chúng ta muốn tìm một minh chủ để phụng sự, chúng ta cũng hãy làm như thánh Christophe, bởi vì không ai xứng đáng hơn ngoài Đức Giêsu Kitô để cho ta đi theo phụng sự.
Hoàng đế César Augustô của đế quốc La Mã là người đã biến La Mã gạch ngói thành một La Mã nguy nga tráng lệ, với những tòa nhà cẩm thạch.
Nhưng trong triều đại của César Augustô, một biến cố đã thay đổi cục diện của thế giới và lịch sử nhân loại, mà ông không hề biết tới.
Ông làm sao có thể biết trẻ Giêsu chào đời trong một tỉnh lẻ xa xôi, sẽ biến La Mã cẩm thạch của ông thành những vương cung thánh đường vĩ đại nhất.
Ông đâu có ngờ các thần minh của ông sẽ phải lui bước để nhường chỗ cho một Thiên Chúa duy nhất, thánh thiện và chân thật.
Ông cũng không ngờ trẻ Giêsu ấy lại có một sức mạnh siêu phàm đảo lộn mọi giá trị hiện có, và thiết lập một bậc thang giá trị hoàn toàn mới mẻ.
*
Sức mạnh siêu phàm ấy hôm nay đã bắt đầu xuất hiện. Đức Giêsu giải thích Thánh Kinh trong hội đường khiến cho nhiều người phải kinh ngạc, vì : “Người giảng dạy người ta như Đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ” (Mc.1,22).
Có uy quyền vì Người dùng quyền mình mà giảng dạy chứ không lệ thuộc vào thế giá của người khác. Quyền này được chứng tỏ khi Người sửa sai các tập tục tiền nhân : “Người xưa đã dạy rằng… Phần Ta, Ta bảo các ngươi” (Mt.5,21).
Khác với các luật sĩ, họ chỉ đọc và giải thích kinh thánh, mà không dám thêm một ý tưởng mới. Họ gò bó con người vào lề luật hơn là dùng luật để giải thoát con người.
Lời Người là “Giáo lý mới mẻ”. Cái mới mẻ đó làm cho người ta tin nhận Người là Đấng Cứu Thế. Cái mới mẻ đó làm cho danh tiếng Người lan tràn khắp vùng lân cận Galilê.
Lời Người là : “Lệnh truyền cho cả các thần ô uế và chúng phải vâng theo” (Mc.1,27). Chính thái độ tuân phục của ma quỉ trước uy quyền của Đức Giêsu, đã nói lên thời cứu độ đã tới.
Là tín hữu Kitô, chúng ta cần học hỏi, suy niệm và sống Lời Chúa, để khám phá ra sự mới mẻ của Lời Người, đồng thời nhận ra quyền năng Chúa tỏ bày trong vũ trụ.
- Courtois khẳng định : “Nếu chúng ta khiêm nhu sống Lời Chúa trong môi trường của mỗi người, chúng ta sẽ âm thầm trở nên “muối men” cho cả nhân loại vì “ánh sáng” của những người sống Lời Chúa chiếu tỏa xa hơn người ta tưởng rất nhiều“.
Jacques Delarue viết : “Mọi phần tử trong Giáo hội phải sống Lời Chúa và yêu mến với cùng một tình yêu của Đức Giêsu, chính vì thế mà ngày Chúa Nhật họ đi gặp gỡ Chúa trong Lời Người và trong Thánh Thể trước khi nghe đọc : “Hãy ra đi bình an”. Hãy ra đi, đừng ở lại. Các bạn được sai đi cho mọi tạo vật“.
Sống Lời Chúa là soi mình vào tấm gương Giêsu để tìm cho mình một phong cách đẹp nhất, vì :
“Lời Chúa là đèn soi cho con bước.
Là ánh sáng chỉ đường cho con đi” (Tv.118,105).
*
Lạy Chúa, qua Kinh thánh, Chúa vẫn giảng dạy cho chúng con ; qua bí tích giải tội Chúa vẫn trừ quỷ cho chúng con ; qua bí tích Thánh thể, Chúa vẫn sống trong chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sử dụng những phương tiện Chúa ban để nên giống Chúa hơn và làm sáng danh Chúa nhiều hơn. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 3. “Hãy để tôi yên“
Khi vừa gặp Đức Giêsu, người bị quỷ ám liền la lớn “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi ?” Nói như thế cũng có nghĩa là nói “Hãy để cho tôi yên. Tôi tội lỗi đấy, xấu xa đấy, nhưng mặc kệ tôi, đừng quấy rầy tôi”.
Đây không chỉ một lần, mà nhiều lần những người bị quỷ ám trong Tin Mừng đều la lên như vậy. Họ biết là họ đang ở trong tình trạng xấu đó, nhưng họ không muốn thay đổi tình trạng, vì thay đổi thì đau đớn.
Ngày nay cũng có rất nhiều người đang ở trong tình trạng xấu nhưng không muốn thay đổi. Các nhà tâm lý cho biết rằng nhiều người không muốn được chữa trị, vì chữa trị thì phải thay đổi, mà thay đổi thì đau đớn.
Một bà mẹ kia vừa sinh con ra thì khám phá con mình bị mù. Bà gọi tất cả những người nhà đến căn dặn đừng ai cho đứa bé biết nó bị mù, cũng đừng ai bao giờ nói đến ánh sáng hay màu sắc gì cả trước mặt nó. Đứa trẻ cứ thế lớn lên, vẫn tưởng nó cũng bình thường như mọi người khác. Thế nhưng một hôm, một đứa trẻ hàng xóm leo hàng rào vào và gặp đứa bé mù. Do không được căn dặn trước, nó đã nói tất cả những gì mà người mẹ không muốn nó nói. Thế là mọi sự sụp đổ tan tành.
Câu chuyện trên phần nào minh họa cho thái độ của chúng ta. Chúng ta không muốn nhìn nhận những khuyết tật của mình, và cũng không muốn ai chữa trị cho mình, vì nhìn nhận thì đau khổ và chữa trị thì nhọc nhằn.
Nhưng không thể tự lừa dối mình bằng cách trốn tránh sự thật như thế mãi. Hãy can đảm đối diện với sự thật và cầu xin Chúa cứu chữa. Chắc hẳn Ngài sẽ cứu được chúng ta, bởi vì Người là Đấng rất uy quyền (Viết theo Flor Mc Carthy)
*4. Bệnh tật
Bài Tin Mừng hôm nay thuật chuyện Đức Giêsu chữa khỏi một người bệnh. Chúng ta hãy suy nghĩ đôi điều về vấn đề bệnh tật và chữa bệnh.
Trong vấn đề này có một sự chuyển biến từ chỗ mù mờ đến chỗ càng ngày càng sáng tỏ hơn nhờ ánh sáng mặc khải soi chiếu :
– Các dân quanh Israel xưa coi bệnh tật là hình phạt của thần linh trừng trị một sự xâm phạm đến các Ngài. Vì thế để khỏi bệnh luôn luôn họ kêu cầu đến thần linh. Việc chữa bệnh không phải là việc của thầy thuốc mà là việc của các đạo sĩ.
– Dân Israel xưa cũng coi bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Vì người ta phạm tội nên Chúa phạt cho mang bệnh. Muốn khỏi bệnh thì phải xin Chúa tha tội.
– Nhưng dần dà người ta thấy có những người hoàn toàn vô tội lại đạo đức mà phải bệnh tật. Cho nên người ta thấy được những ý nghĩa khác của bệnh tật : đó là việc Chúa thử thách lòng trung tín của loài người, hay đó còn là dịp cho người ta chịu khổ mà đền tội cho kẻ khác. Truyện ông Gióp là một bằng chứng rõ ràng nhất về những tư tưởng này.
– Đến thời Đức Giêsu, Ngài mặc khải thêm một ý nghĩa nữa cho việc chữa bệnh. Trong khi đi rao giảng ơn cứu độ, Đức Giêsu đã chữa lành rất nhiều bệnh tật, và Ngài coi việc chữa bệnh là một dấu chỉ rằng ơn cứu rỗi đã đến. Bởi lẽ ơn cứu rỗi là ơn giải phóng người ta khỏi mọi sự dữ như tội lỗi, nô lệ, đau khổ, tật bệnh… Ơn cứu rỗi muốn giải phóng con người khỏi tất cả những sự dữ đó. Nhưng trong số những sự dữ đó, tật bệnh là cái dễ thấy nhất và việc chữa bệnh là một bằng chứng rõ ràng nhất, cho nên Đức Giêsu đã chữa bệnh để làm dấu chỉ cho thấy ơn cứu rỗi đã đến.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, chữa bệnh không phải là một điều dị đoan, chữa bệnh cũng không phải là mục đích duy nhất và tối hậu của hoạt động cứu rỗi. Chữa bệnh chỉ là một dấu chỉ, là một tiếng kêu mời người ta tiến đến đức tin. Chính vì thế mà mặc dù Đức Giêsu đã chữa bệnh rất nhiều nhưng không phải là chữa tất cả các người bệnh thời đó. Ngài chỉ chữa bệnh để làm cho người ta tin hơn và nhờ tin mà được cứu rỗi. Ngày nay cũng thế, có nhiều phép lạ chữa bệnh xảy ra ở Lộ Đức, ở Fatima, ở nơi này nơi nọ. Nhưng đâu phải tất cả mọi người tới Lộ Đức, Fatima đều được chữa khỏi. Một số phép lạ thôi cũng đủ để cho mọi người tin tưởng hơn.
Có những kẻ rất thờ ơ với việc đạo, chỉ khi gặp bệnh tật, khốn đốn mới biết cầu nguyện nhưng lời cầu nguyện cũng chỉ là xin cho tai qua nạn khỏi. Rồi khi tai đã qua nạn đã khỏi thì lại trở về với nếp sống nguội lạnh.
Có những người khác gặp bệnh tật tai ương đã hết sức sốt sắng cầu nguyện xin Chúa giúp. Nhưng cầu nguyện nhiều mà chưa được ơn thì đâm ra ngã lòng, mất đức tin.
Đó là những người có một đức tin còn ở một trình độ hết sức thấp kém : tin vì một quyền lợi vật chất chứ không phải tin vì yêu. Tin để được ơn chứ không phải tin mà phó thác cả cuộc đời cho Chúa dù khi vui dù lúc buồn, dù khi giàu hay khi nghèo, dù khi mạnh hay khi đau yếu.
Đức tin trưởng thành phải là Đức tin ở trình độ của ông Gióp. Gióp đã thốt lên trong cơn khốn khổ cùng cực : “Chúng ta biết nhận điều lành nơi Thiên Chúa, sao lại không biết nhận sự khổ sở Chúa gởi đến ?”
Chúng ta hãy cầu nguyện để tất cả mọi sự dù là sướng dù là khổ đều làm cho đức tin của chúng ta càng vững mạnh hơn. Bởi vì ơn cứu rỗi chính là cái đức tin vững mạnh ấy, đúng như lời Chúa đã nói “Ai tin thì sẽ được rỗi” vậy.
*5. Dị đoan
Theo nghĩa chữ, “đoan” là đầu mối, “dị” là kỳ lạ. Tin “dị đoan” là tin vào những việc mà liên hệ giữa chúng với nhau kỳ lạ, không hợp lý ; hay nói cách khác, không có liên hệ nhân quả với nhau rõ ràng. Thí dụ chữa bệnh không bằng y khoa mà bằng bùa ngãi, thần chú ; tìm hiểu sự việc không bằng trí óc, phán đoán mà bằng bói toán v.v.
Đạo công giáo bài bác những chuyện dị đoan vì dị đoan vừa ngược với lý trí vừa nghịch với đức tin. Là tín hữu của Chúa, một mặt chúng ta phải biết sử dụng những khả năng Chúa ban để giải quyết những việc khó khăn xảy đến trong đời mình, và mắt khác hãy biết phó thác cuộc đời cho Chúa dẫn dắt. Đừng vì yếu đức tin mà chạy theo những việc mê tín dị đoan khi gặp phải chuyện khó khăn.
*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, quỉ dữ vẫn đang hoành hành trên trần gian, chúng ta rất cần được Đức Giêsu cứu độ giải thoát khỏi quyền lực của quỉ dữ. Chúng ta hãy sốt sắng kêu xin Người :
*1. Quỉ dữ luôn quyết tâm phá hoại công trình Tin mừng hóa của Hội thánh / Xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn vững tin và can đảm thi hành sứ vụ Chúa đã trao phó.
*2. Quỉ dữ luôn tìm cách lôi cuốn những người có quyền lực chống lại công lý và hòa bình / Xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới biết quan tâm đến công ích và xây dựng hạnh phúc thật cho mọi người.
*3. Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách những người đang gặp đau khổ hoạn nạn / để họ ngã lòng trong bất mãn và tuyệt vọng / Xin Chúa cho họ biết chạy đến cầu cứu Chúa để được giải thoát.
*4. Quỉ dữ luôn cám dỗ thử thách mỗi người chúng ta ham mê vật chất, tiền bạc, danh vọng / để cắt đứt tình hiệp thông với Chúa và với mọi người / Xin Chúa giúp mọi người trong họ đạo chúng ta luôn trung thành thờ phượng một mình Chúa và sẵn sàng phục vụ anh chị em chúng ta.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa đã đến trần gian để loại trừ quyền lực của quỉ dữ, xin Chúa đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cưu chúng con cho khỏi quỉ dữ. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen.
*VI. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Trong lời Kinh Lạy Cha sau đây, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa uy quyền giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của ma quỷ và các thế lực gian tà.
– Sau kinh Lạy Cha : “Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin chữa chúng con khỏi những bệnh tật thể xác và tâm hồn, xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an…”
– Trước lúc rước lễ : Mình Thánh Chúa là thần dược chữa trị những bệnh tật xác hồn. Chúng ta hãy dọn lòng cho xứng đáng để rước lấy thần dược ấy. “Đây Chiên Thiên Chúa….. Lạy Chúa con chẳng đáng… nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành sạch”
*VII. GIẢI TÁN
Tuần này chúng ta hãy quyết tâm luôn đi theo Chúa, làm theo ý Chúa trong tất cả mọi biến cố xảy đến.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam