Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 51
Tổng truy cập: 1356089
DIỄN TỪ VỀ BÁNH HẰNG SỐNG
Trong bốn Chúa Nhật liên tiếp, từ Chúa Nhật XVIII đến Chúa Nhật XXI, Phụng Vụ Lời Chúa đề nghị cho chúng ta một trong những bản văn chính yếu của Tin Mừng Gioan: bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”.
Xh 16: 2-4, 12-15
Tất cả các Bài Đọc I của bốn Chúa Nhật liên tiếp đều được chọn theo cùng một viễn cảnh nầy. Vì thế, vào Chúa Nhật XVIII nầy, chúng ta đọc đoạn trích sách Xuất Hành tường thuật bánh man-na, “bánh bởi trời” nầy nuôi dưỡng dân Do thái trong hoang địa.
Ep 4: 17, 20-24
Trong đoạn trích thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô mời gọi người Ki-tô hữu thay đổi đời sống tận căn để trở nên một con người mới, được tái tạo theo hình ảnh Thiên Chúa.
Ga 6: 24-35
Tin Mừng dâng hiến cho chúng ta phần đầu của bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống”, sau dấu lạ hóa bánh ra nhiều. Trong phần đầu này, bánh Hằng Sống mà Đức Giê-su ban cho thế gian để có sự sống đời đời là Lời của Ngài.
BÀI ĐỌC I (Xh 16: 2-4, 12-15)
Sách Xuất Hành không chỉ là chuyện tích về cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập và cuộc hành trình trong hoang địa, nhưng còn là bản phác thảo lộ trình tâm linh. Chính hoang địa đã là nơi ưu tiên Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân, nhưng cũng còn là nơi Thiên Chúa thử thách dân Ngài.
*1.Nơi thử thách:
Để đến được Đất Hứa, ông Mô-sê đã có thể dẫn dân Do thái đi theo một lộ trình ngắn nhất, tức là con đường chạy dọc theo Địa Trung Hải (thật ra con đường nầy đã được quân đội Ai-cập xây dựng những đồn lủy để ngăn chận mọi cuộc xâm nhập của ngoại bang), ấy vậy, ông đã chọn con đường băng qua hoang địa đầy gian khổ và khó khăn.
Một tháng đã trôi qua kể từ lúc ra khỏi đất Ai-cập, dân Do thái vừa mới đóng trại trong ốc đảo trù phú mà sách Dân Số nói có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là (Ds 33: 9); giờ đây họ đi sâu vào trong sa mạc Xin, ở đây họ lâm vào cảnh thiếu lương thực. Đây là lần đầu tiên, nhưng không là lần cuối cùng trong suốt cuộc hành trình dài lâu nầy, toàn thể “cộng đồng” con cái Ít-ra-en kêu trách: khi còn ở Ai-cập, chúng tôi đâu có thiếu thịt và bánh.
Dù dân kêu ca trách cứ, Thiên Chúa đáp trả bằng tấm lòng nhân hậu của Ngài; tuy nhiên, Ngài đòi hỏi họ phải tin tưởng vào Ngài: “Các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Chúa các ngươi” (Xh 16: 12).
*2.Chim cút và bánh man-na.
Đoạn trích sách Xuất Hành cho thấy Thiên Chúa ân cần chăm sóc dân Ngài như thế nào: chim cút bay đến rợp cả trại và bánh man-na rơi xuống đầy trên mặt đất. Hiện tượng chim cút bay đến rợp cả trại xem ra là cuộc thiên di của đàn chim, chúng bay từ lục địa Phi-Châu vượt qua Địa trung Hải, và khi đến hoang địa thì kiệt sức sà cánh xuống mặt đất, nên rất dễ bị tóm bắt. Man-na có thể do từ nhựa cây liễu bách tiết ra khi bị những côn trùng châm vào; khi đêm xuống khí trời lạnh, nhựa đông cứng lại và rơi trên mặt đất trông như những hạt nho nhỏ mịn màng có vị mật ngọt. Theo sách Dân Số, “man-na như hạt ngò và trông nó như nhựa hương. Dân cứ việc chia nhau đi lượm, cho vào cối xay hoặc cối giã mà nghiền tán ra, rồi bỏ vào nồi nấu bánh, và mùi vị của nó như mùi vị bánh chiên dầu. Đêm về sương rơi trên doanh trại, thì manna cũng rơi xuống” (Ds 11: 7-9).
Bánh man-na là bánh Thiên Chúa ban, nhưng cũng là dịp thử thách: “Ta muốn thử thách chúng xem chúng có tuân theo luật pháp của Ta hay không” (Xh 16: 4). Đức Chúa phối hợp thiên ân với sự thử thách qua lời căn dặn rõ ràng: “Dân sẽ ra mà lượm lấy khẩu phần cho mình từng ngày một” (Xh 16: 16), mỗi người tùy theo nhu cầu của mình. Không được tích trữ. Không được bận lòng đến ngày mai, nghĩa là hoàn toàn tin tưởng vào Lời Chúa. Từ đó, có một mối giây liên kết chặc chẽ hầu như cho đến mức đồng hóa giữa bánh man-na và Lời Chúa. Đó cũng là bài học Đức Giê-su ban cho các môn đệ Người khi dạy họ kinh Lạy Cha: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mt 6: 11).
*3.Bánh bởi trời.
Cho đến lúc đó, đối với dân Do thái, đây là lương thực bất ngờ và lạ thường xảy đến đúng vào thời điểm khó khăn. Vì thế, truyền thống đã thần thánh hóa bánh man-na được xem như “bánh bởi trời”. Sách Xuất Hành nói rồi: “Đó là bánh Đức Chúa ban cho anh em làm của ăn” (Xh 16: 15). Theo sách Đệ Nhị Luật, Đức Chúa “đã cho anh em ăn man-na là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông của anh em đã chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không phải chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời Đức Chúa phán ra” (Đnl 8: 3). Thánh Vịnh 78: 25 gợi lên bánh man-na là “bánh của những kẻ mạnh” mà bản Bảy Mươi đã chuyển dịch thành “bánh thiên thần”. Sách Khôn Ngoan ca ngợi bánh man-na là lương thực bởi trời, “bánh có muôn hương vị, thỏa mãn mọi sở thích” (16: 20-29). Văn chương kinh sư loan báo rằng bánh man-na sẽ là lương thực của thời thiên sai, khúc dạo đầu cho bàn tiệc cánh chung. Theo cùng cách thức giải thích của truyền thống Cựu Ước, thánh Phao-lô xem bánh man-na là “thức ăn thần thiêng” (1Cr 10: 3).
Chính ở nơi truyền thống Cựu Ước nầy mà Đức Giê-su quy chiếu, dù minh nhiên hay mặc nhiên, trong bài diễn từ về “Bánh Hằng Sống” của Người.
BÀI ĐỌC II (Ep 4: 17, 20-24)
Sau phần đạo lý (ch. 1-3), thánh Phao-lô đưa ra những lời khuyên luân lý: trước hết thánh nhân kêu gọi mọi người Ki-tô hữu hãy hiệp nhất với nhau (chủ đề của đoạn trích thư Chúa Nhật vừa qua) và sống một cuộc sống mới trong Đức Ki-tô, đó là chủ đề của đoạn trích thư Chúa Nhật hôm nay.
Để là một người Ki-tô hữu đích thật, thánh Phao-lô đưa ra ba chỉ dẫn tổng quát: trước hết đừng ăn ở như dân ngoại, tiếp đó học biết Đức Giê-su để mà sống như Ngài đã sống và sau cùng thay đổi đời sống tận căn, mặc lấy con người mới.
*1.Đừng ăn ở như dân ngoại (4: 17):
Thánh Phao-lô ngỏ lời với các Ki-tô hữu thuộc các cộng đoàn Tiểu Á, đa số họ xuất thân từ lương dân; nhưng lời khuyên bảo của thánh nhân cũng có giá trị đối với những Ki-tô hữu gốc Do thái. Cả thư gởi tín hữu Rô-ma lẫn thư gởi tín hữu Cô-lô-xê cũng đều chứa đựng những lời cảnh giác tương tự. Trước khi tiếp tục đề cập đến những lời cảnh giác, thánh nhân nêu lên phẩm chất của người Ki-tô hữu, chính phẩm chất này đòi buộc phải thay đổi đời sống.
*2.Học biết Đức Giê-su để mà sống như Người (4: 20-21)
Thánh nhân nhắc nhở giáo huấn mà họ đã lãnh nhận khi họ “học biết Đức Giê-su” (4: 20). Người Ki-tô hữu không gắn bó với bất kỳ thứ đạo lý trừu tượng nào, nhưng với một con người, con người ấy chính là Đức Ki-tô, “đúng như sự thật ở nơi Đức Giê-su” (4: 21)
*3.Mặc lấy con người mới (4: 22-24):
Thánh Phao-lô khai triển tư tưởng của mình với mệnh lệnh: trước tiên, phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa; tiếp đó, phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em; và sau cùng, phải mặc lấy con người mới.
Đây là chương trình giáo lý về phép Rửa. Ý tưởng chủ đạo là đổi mới triệt để đời sống Ki-tô hữu. Trước tiên, phải cởi bỏ con người cũ, con người trước đây phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối. Tiếp đó, chính nhờ Chúa Thánh Thần khai lòng mở trí mà người Ki-tô hữu đổi mới cuộc đời mình, chủ đề mà thánh Phao-lô chủ ý lấy lại để minh chứng rằng Ki-tô giáo mở ra hướng đến sự khôn ngoan cao vời. Và cuối cùng, người Ki tô hữu là một con người mới, mà phép Rửa đã tái sinh, đã tái tạo, đã phục hồi trong tình trạng ban đầu “theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống theo sự công chính và thánh thiện” (4: 24).
TIN MỪNG (Ga 6: 24-35)
Với đoạn trích Tin Mừng nầy, chúng ta bắt đầu bài diễn từ về Bánh Hằng Sống của Đức Giê-su mà thánh Gioan định vị vào ngày hôm sau dấu lạ hóa bánh ra nhiều.
Việc định vị bài diễn từ về Bánh Hằng Sống vào biến cố này thật là quan trọng: dấu lạ hóa bánh ra nhiều đánh dấu đỉnh cao sứ vụ của Chúa Giê-su ở Ga-li-lê. Khởi đi từ đó, Đức Giê-su đòi hỏi phải chọn lựa càng lúc càng quyết liệt hơn: tin vào Đức Giê-su hay từ chối Người. Diễn từ về Bánh Hằng Sống là một trắc nghiệm có tính quyết định, nó mở ra một giai đoạn: hoặc từ chối tin vào Người mà ra đi hay khẳng định niềm tin vào Người. Vì thế, Đức Giê-su sắp nhấn mạnh tiên vàn phải “tin” vào Người.
Bài diễn từ về Bánh Hằng Sống bắt đầu ở “bên kia Biển Hồ” (6: 25) và chấm dứt ở “trong hội đường Ca-phác-na-um” (6: 59).
*1.Bối cảnh.
Vào buổi chiều dấu lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giê-su đã buộc các môn đệ lên thuyền trở lại thành Ca-phác-na-um. Còn Người thì lánh mặt đám đông cuồng nhiệt nầy mà đi lên núi cầu nguyện một mình, đoạn, giữa đêm Người đã đi trên Biển Hồ sóng to gió lớn mà đến với các ông. Đám đông đã thấy các môn đệ ra khơi một mình trong khi Đức Giê-su không xuống thuyền cùng với các ông (thánh Gioan xác định ở đó chỉ có một con thuyền: 6: 22). Sáng hôm sau, mọi người nhận thấy rằng Đức Giê-su không còn ở trên bờ Biển Hồ nữa; họ quyết định quá giang những thuyền đến từ Ti-bê-ri-a mà trở về Ca-phác-na-um để tìm Người (6: 23). Khi đến thành Ca-phác-nu-um, họ gặp thấy Đức Giê-su ở đây: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?” (6: 25). Câu hỏi của họ mặc lấy một lời chứng gián tiếp về việc Đức Giê-su đi trên mặt biển.
Đức Giê-su không trả lời câu hỏi này, Người nói thẳng ra ý định nào thôi thúc đám đông mong ước được gặp lại Người: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (6: 26). Trong Tin Mừng Gioan, lời khẳng định đặc trưng: “Thật, tôi bảo thật”, đem lại một cung giọng trang trọng cho những lời nói theo sau: Đức Giê-su quở trách tâm trí của những người Ga-li-lê nầy quá trần tục: họ chỉ thấy Người là một người phép thuật thần thông đã cho họ ăn no nê. Điều Ngài mong chờ ở nơi họ là khám phá ra ý nghĩa của thực tại mà dấu lạ hóa bánh ra nhiều nhắm đến. Lúc đó, cuộc đối thoại sắp được thiết lập mà tuyến phát triển của câu chuyện rõ ràng cùng một tuyến phát triển như cuộc đối thoại của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri.
*2.Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với đám đông dân chúng.
Trước tiên, Chúa Giê-su muốn họ biết rằng Người là một con người mầu nhiệm, Ngài có khả năng ban cho nhân loại những thiện hảo còn hơn cả bánh vật chất nữa.
Với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã nói: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã hẳn ban cho chị nước hằng sống” (4: 10).
Với những người Ga-li-lê, Đức Giê-su nói: “Các ông hãy ra công làm việc không phải lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh, là thứ lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi vì Con Người là Đấng Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận” (6: 27). Ở nơi câu trả lời của mình, Đức Giê-su quy chiếu về mình tước hiệu “Con Người” được lấy từ thị kiến ban đêm của Đn 7: 13, để mặc khải cho họ biết Ngài không đơn thuần là một phàm nhân, nhưng còn là một nhân vật huyền nhiệm được Chúa Cha ghi dấu xác nhận.
Những lời nầy gây ấn tượng mạnh trên họ, vì thế vài người đặt ra cho Đức Giê-su một câu hỏi, có thể với ý định ngay thẳng, nhưng cũng có thể với mục đích làm cho Người lúng túng: “Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?” (6: 28). Chúa Giê-su trả lời: “Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến” (6: 29). Đức Giê-su không muốn giản lược việc Thiên Chúa muốn họ làm vào một việc duy nhất là “tin vào Người”, nhưng những lời mà Ngài sắp công bố quá mạnh mẽ đến mức khó mà hiểu được, nếu trước hết những người đối thoại với Ngài không có niềm tin tưởng tuyệt đối vào Ngài. Đức tin phải là thái độ tiên quyết mà Đức Giê-su đòi hỏi ở nơi họ.
*3.Phải mở tâm trí ra trước mầu nhiệm:
Nhưng ngay lập tức dân chúng tỏ thái độ nghi ngờ và bắt bẻ Ngài: “Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? Tổ tiên chúng tôi đã ăn man-na trong sa mạc, như có lời chép: ‘Ngài đã cho họ ăn bánh bởi trời” (6: 30-31). Ở nơi lời bắt bẻ nầy, chúng ta gặp lại cũng một lời bắt bẻ của người phụ nữ Sa-ma-ri trong cuộc đối thoại với Ngài bên bờ giếng Gia-cóp: “Thưa ông, ông không có gàu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lại lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng nước nầy? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy” (4: 11).
Đức Giê-su trả lời: “Thật, tôi bảo thật các ông, không phải ông Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời đâu, mà chính là Cha tôi cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thật, vì bánh Thiên Chúa ban là bánh từ trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian” (6: 32-33). Ở nơi câu trả lời của Đức Giê-su, chúng ta lưu ý: với cụm từ “tổ tiên chúng tôi” trong lời bắt bẻ của những người Ga-li-lê nầy, Đức Giê-su đáp lại với từ “Cha tôi”, bằng cách đồng hóa “Cha tôi” với “Cha trên trời”, Đấng đã cho họ bánh bởi trời đích thật, đồng thời cũng đồng hóa bản thân Ngài với Bánh Hằng Sống. Ngoài ra, điểm nhấn được đặt ở nơi việc Đức Giê-su so sánh “bánh bởi trời xuống, bánh đem lại sự sống cho thế gian”, với bánh man-na trong sa mạc “nuôi sống chỉ một mình dân Ít-ra-en”. Nói cách khác, Đức Giê-su là Mô-sê mới, nhưng cao vời khôn ví trên ông Mô-sê. Lúc đó, những người Ga-li-lê thốt lên: “Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh nầy” (6: 34), cũng như người phụ nữ xứ Sa-ma-ri đã thưa: “Thưa ông, xin cho tôi thứ nước ấy , để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4: 15).
*4-Bánh Hằng Sống mà Đức Giê-su ban chính là Lời của Ngài:
Lúc đó, Đức Giê-su vén mở thêm nữa bức màn mầu nhiệm của Người: “Chính tôi là bánh ban sự sống” (6: 35a). Trong Tin Mừng Gioan đây là lần thứ ba xuất hiện biểu thức: “Chính tôi là” (Ego eimi). Lần thứ nhất, Đức Giê-su tỏ mình ra với người phụ nữ Sa-ma-ri khi chị gợi lên việc Đấng Mê-si-a đến: “Đấng ấy chính là tôi” (theo sát từ: “Ego eimi”: 4: 26) và lần thứ hai Đức Giê-su tỏ mình ra với các môn đệ Người, họ kinh hoàng khi thấy một người đi trên mặt nước: “Thầy đây mà, đừng sợ” (theo nghĩa văn tự: “Ego eimi”: 6: 20). Biểu thức: “Chính tôi là bánh ban sự sống” nầy khai mạc một loạt “tôi là” đi theo với thuộc từ: “tôi là đường, là sự thật và là sự sống”, “tôi là mục tử nhân lành”, vân vân (những lời khẳng định luôn luôn được liên kết với viễn cảnh của ơn cứu độ).
“Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (6: 35b). Ở đây cốt là cái đói và cái khát thần thiêng. Cách nói nầy quy chiếu đến Kinh Thánh, chính xác là đến bản văn của sách Huấn Ca. Tuy nhiên có một sự khác biệt giữa lời của sách Huấn Ca và lời của Chúa Giê-su. Lời mà sách Huấn ca áp dụng cho Đức Khôn Ngoan theo hình thức khẳng định: “Hỡi những ai khao khát Ta, nào hãy đến… Ai ăn Ta sẽ còn đói, ai uống Ta sẽ còn khát” (Hc 24: 19-21).
Qua hình thức khẳng định này, sách Khôn Ngoan muốn nói rằng ai đã nếm lương thực mà Đức Khôn Ngoan ban thì người ấy ước muốn được nếm mãi không thôi. Trái lại, Đức Giê-su lập lại lời của sách Khôn Ngoan và áp dụng vào chính mình theo hình thức phủ định, nghĩa là, những thiện hảo siêu nhiên mà Ngài hứa ban làm no thỏa hết mọi nhu cầu của cái đói và cái khát thần thiêng, nghĩa là những ai đã nếm lương thực mà Ngài ban sẽ chẳng còn đói và khát Thiên Chúa bao giờ. Đúng là lời mặc khải của Đức Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri khi Ngài chỉ nước của giếng Gia-cóp mà nói: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”(4: 13-14).
(*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt
CHÚA NHẬT XVIII THƯỜNG NIÊN- B
LƯƠNG THỰC CHÚA BAN- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
– Bài đọc I (Xh 16,2-4.12-15) : Chúa ban manna cho dân do thái trong sa mạc.
– Đáp ca (Tv 77) : “Chúa ban bánh bởi trời nuôi dưỡng họ”
– Tin Mừng (Ga 6,24-35) : Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu bắt đầu bài giảng về bánh hằng sống.
*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chúa nhật vừa qua chúng ta đã thấy Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê. Nhưng hôm sau họ lại tìm đến Ngài, mong được ăn bánh nữa, thì Ngài nói với họ về một thứ bánh khác : “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”.
Chúng ta đến đây vì chúng ta biết rằng chúng ta cần một thứ lương thực khác, thứ lương thực mà chỉ có Chúa mới ban cho chúng ta.
*II. GỢI Ý SÁM HỐI
– Chúng con quá lo tìm lương thực vật chất, đến nỗi sao lãng lương thực thần linh.
– Ngay cả khi chúng con dự Thánh Lễ, chúng con cũng chỉ xin Chúa ban lương thực vật chất cho chúng con.
– Chúng con chưa đủ lòng phó thác để tin rằng Chúa sẽ lo cho chúng con lương thực hằng ngày.
*III. LỜI CHÚA
*1. Bài đọc I (Xh 16,2-4.12-15)
Phép lạ manna xảy ra trong sa mạc. Sa mạc là nơi trơ trụi, thiếu thốn mọi thứ, cho nên sa mạc cũng là nơi thử thách. Mà một trong những thử thách lớn nhất đối với con người là đói, không có thức ăn. Bởi vậy, Chúa đã nói với Môsê : “Ta muốn thử lòng chúng”
Tuy nhiên, thử thách này cũng có cái lợi là nhắc con người nhớ rằng lương thực họ ăn hằng ngày là do Chúa ban. Chính vì thế, Thiên Chúa bảo dân do thái chỉ được lượm một phần bánh đủ ăn trong ngày.
*2. Đáp ca (Tv 77)
Phép lạ manna vẫn được các thế hệ về sau nhắc tới như là một trong những công cuộc lẫy lừng của Thiên Chúa, cho người ta thấy quyền phép và tình thương to lớn Chúa dành cho dân Ngài.
*3. Tin Mừng (Ga 6,24-35)
Sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, hôm sau người do thái lại tìm đến với Đức Giêsu mong được ăn bánh nữa. Đức Giêsu hướng họ lên cao hơn một bước : “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”. Họ tưởng đó là manna ngày xưa trong sa mạc. Đức Giêsu nói rõ : “Chính Ta là bánh trường sinh. Ai đến với Ta không hề phải đói. Ai tin vào Ta chẳng khát bao giờ”.
*4. Bài đọc II (Êp 4,17-20.24) (Chủ đề phụ)
Thánh Phaolô khuyên tín hữu một khi đã theo Đức Kitô thì phải từ bỏ nếp sống cũ, tư tưởng cũ và tinh thần cũ như hồi còn là dân ngoại. Thay vào đó, hãy mặc lấy con người mới, tinh thần mới và cách sống mới như Đức Kitô.
*IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Nhiều thứ đói
Năm 1885 Vincent van Gogh đến viện bảo tàng Amsterdam để được ngắm một họa phẩm nổi tiếng của họa sĩ Rembrandt, bức “Cô dâu do thái”. Sau khi ngắm xong, van Gogh thố lộ : “Tôi thà giảm thọ 10 năm để được ngồi 2 tuần trước bức danh họa này, chỉ cần ăn bánh mì khô thôi cũng được. Thực ra, thứ mà tôi đói nhất không phải là thức ăn mà là hội họa. Mỗi khi tôi có tiền tôi liền đi săn tìm các mẫu vẽ cho tới khi nhẵn túi”.
Không phải chỉ cơ thể mới biết đói, mà con tim và tinh thần cũng biết. Cơm bánh không thể nào thỏa mãn cơn đói của con tim và tinh thần. Nuôi sống một người không giống như nuôi một con vật, chỉ cần cho nó ăn no. Chúng ta là người, chúng ta không chỉ có một thứ đói mà có hàng trăm thứ đói. Ngoài cơm bánh ra chúng ta còn đói rất nhiều thứ :
– đói được người ta tôn trọng : không ai muốn bị coi là đồ bỏ ; ai cũng muốn có người khác trọng mình, ít ra là một người.
– đói được người ta chấp nhận : nếu không ai chấp nhận chúng ta thì chúng ta không sao thể hiện chính mình được.
– đói những tương giao : không được tương giao với người khác thì chúng ta sẽ trở nên cô độc buồn sầu.
– đói nguồn động viên : không có gì động viên chúng ta thì chúng ta giống như những cánh buồm không gió.
– đói niềm tin : ai cũng cần đức tin hay ít ra là một số điều mình tin tưởng. Nếu không thì dòng đời chúng ta bị trôi dạt như những con thuyền không định hướng.
– đói hy vọng : bao lâu con người còn hy vọng thì còn có thể làm được nhiều việc ; một khi đã mất hy vọng thì mất tất cả.
– đói tình yêu : nếu cơn đói này được thỏa mãn thì hầu hết những cơn đói khác sẽ biến mất.
Và còn một thứ đói nữa, sâu xa nhất, hàm chứa trong mọi cơn đói khác, kể cả đói tình yêu. Đó là đói sự sống đời đời, hay nói cách khác, đói Thiên Chúa. Cảm nghiệm đói Thiên Chúa không phải là một bất hạnh nhưng là một phúc lành, vì nó giúp cho đời ta khỏi bị tù hãm trì trệ, nhưng đưa thuyền đời chúng ta hướng tới đại dương mênh mông. (Viết theo Flor McCarthy)
* 2. Cậy trông nơi Chúa
Khi ban Manna cho dân do thái, Thiên Chúa nói với Môsê rằng : “Ta sẽ cho lương thực từ trời rơi xuống cho các ngươi. Mỗi ngày, dân hãy ra khỏi trại để nhặt lấy phần lương thực cho ngày đó. Băng cách này, Ta muốn thử xem họ có tuân theo lề luật của Ta hay không”. Những lời này của Thiên Chúa có nghĩa gì ?
Nếu bạn hỏi một tín hữu là có tin rằng Thiên Chúa là Chúa duy nhất của vũ trụ không, thì người đó sẽ trả lời ngay không chút ngần ngại : “Dĩ nhiên là tôi tin thế”. Nhưng nếu bạn lại hỏi người đó có tin rằng Thiên Chúa ấy thấy mọi nhu cầu đời sống của họ và sẽ lo cho họ có mọi thứ họ cần không, thì họ sẽ chần chừ không dám trả lời xác quyết.
Đức tin và đức Cậy liên hệ chặt chẽ với nhau. Người nào tin vững vàng thì cũng trông cậy hoàn toàn. Còn ai không trông cậy trọn vẹn vào Chúa thì đức tin của họ cũng bị lung lay.
Kinh nghiệm trong sa mạc là cơ hội giúp dân do thái trông cậy vào Chúa. Bởi thế Chúa bảo họ chỉ lượm manna cho đủ ăn một ngày thôi, ngày mai để Thiên Chúa lo. Đức Giêsu cũng dạy như thế : “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”. Ngày nay, những lời dạy như thế xem ra xa lạ và thậm chí điên khùng nữa, bởi vì nhiều người rất phòng xa bằng cách để dành tiền, gửi tiết kiệm, mua bảo hiểm v.v. Họ trông cậy vào những thứ đó hơn là vào Chúa.
Xét cho cùng thì cái nâng đỡ dân do thái trong sa mạc không phải là manna mà là đức tin và đức cậy. Đối với chúng ta cũng thế, lương thực nuôi chúng ta chính là đức tin và đức cậy. Nhất là khi chúng ta gặp khó khăn thử thách, khi đó không phải chúng ta giữ đức tin và đức cậy, mà ngược lại hai nhân đức ấy gìn giữ chúng ta.
Dù cho cuộc sống có khó khăn thế nào đi nữa thì đối với người trông cậy vào Chúa và biết sống từng ngày từng giờ trong niềm trông cậy ấy, manna vẫn rơi xuống mỗi ngày. (Viết theo Flor McCarthy)
- Cái giá của tự do
Hình như có một quy luật của cuộc sống là trong lúc khó khăn thì nghị lực của con người lên tới đỉnh cao nhất, nhưng khi khó khăn qua rồi thì nghị lực lại tuột xuống mức thấp nhất. Primo Levi, một người sống sót sau nhiều năm ở trong trại giam Auschwitz của Đức quốc Xã, đã viết : “Trong đa số trường hợp, giờ được giải phóng chẳng vui mà cũng chẳng mừng gì cả. Nhiều vụ tự tử đã xảy ra ngay sau ngày giải phóng. Ngược lại, những cuộc tự tử rất hiếm trong thời gian bị giam cầm”. Elie Wiesel, một cựu từ nhân Auschwitz khác cũng nói : “Trong cơn thử thách, tôi sống trong sự mong chờ, mong chờ một phép lạ hoặc mong chờ cái chết. Nhưng khi cơn ác mộng đã qua thì tôi bị rơi vào cơn khủng hoảng rất đau đớn và dằn vật, tôi đặt lại vấn đề về tất cả những niềm tin của tôi”. Còn Oscar Wilde thì viết : “Sự tàn bạo của ngục tù chỉ bắt đầu khi bạn ra khỏi đó”.
Tại sao vậy ? Vì trong lúc khó khăn, ước mơ được giải thoát đã giúp cho người ta có nghị lực để sống. Nhưng khi được tự do rồi, thực tế không phải luôn luôn đúng như họ đã ước mơ.
Dân do thái cũng trải qua kinh nghiệm ấy. Ngày họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai cập, họ đã vui mừng ra đi và tràn đầy hy vọng một tương lai tươi sáng. Thế nhưng chẳng bao lâu sau, họ lãi đòi trở lại Ai cập, họ muốn làm nô lệ nữa. Lý do là những khó khăn họ gặp phải trong cuộc xuất hành. Sự tự do đã không biến hết những ước mơ của họ thành sự thật. Có lẽ họ chưa được chuẩn bị sẵn sàng để sống cái ơn ban tự do ấy. Phải chờ thế hệ sau mới sẵn sàng qua sông Giođan và vào Đất hứa. Bởi vậy có người đã nói : “Dân do thái chỉ cần một ngày để ra khỏi Ai cập, nhưng phải cần đến 40 năm để hình ảnh Ai cập thoát khỏi đầu óc của họ”.
Tự do có những thách thức của nó. Tự do nghĩa là phải tự gánh lấy trách nhiệm của đời mình. Điều này thật không dễ đối với những ai đã quen để cho người khác quyết định thay mình, còn mình chỉ biết vâng lời thôi. Tự do còn đòi phải có kỷ luật bản thân. Tuân theo kỹ luật do người khác đặt ra cho mình thì dễ hơn là làm theo kỹ luật do chính mình tự đặt ra. Biến một người tự do thành người nô lệ thì dễ hơn giúp một người nô lệ thành người tự do.
Dân do thái nhìn lại quá khứ và nghĩ : “Sống ở Ai cập còn tốt hơn, vì ít ra mình cũng có đủ ăn”. Thế là họ cằn nhằn với Môsê. Lẽ ra, họ phải mang theo họ những đức tính đã từng giúp họ chịu đựng những khó khăn thời làm nô lệ. Nhưng lúc được tư do họ đã không xử dụng nghị lực như khi còn làm nô lệ.
May thay Thiên Chúa đã ban manna cho dân do thái để nâng đỡ cuộc sống của họ trong cuộc hành trình về Đất Hứa.
Qua Bí Tích Rửa tội, chúng ta cũng được giải phóng : giải phóng khỏi ách nô lệ của tội lỗi và giải phóng khỏi sự lệ thuộc vào những bảo đảm vật chất (xem bài đọc II). Tuy nhiên cuộc hành trình của chúng ta cũng rất gian truân. Nhiều khi chúng ta muốn trở lại kiếp sống nô lệ. Chúng ta thà làm nô lệ cho thế gian và tội lỗi hơn là làm những người con tự do của Thiên Chúa. May thay Đức Giêsu đã nâng đỡ cuộc hành trình của chúng ta. Đặc biệt Ngài đã ban manna mới cho chúng ta là bí tích Thánh Thể. Không phải chúng ta gìn giữ đức tin, mà chính đức tin gìn giữ chúng ta.
Dù cho cuộc sống có khó khăn thế nào đi nữa thì đối với người trông cậy vào Chúa và biết sống từng ngày từng giờ trong niềm trông cậy ấy, manna vẫn rơi xuống mỗi ngày. (Viết theo Flor McCarthy)
*4. Theo Chúa, nhưng vì động lực nào ?
Chúng ta nên đặt đoạn Tin Mừng này trong bối cảnh của nó. Đó là thời kỳ Đức Giêsu đang được quần chúng ngưỡng mộ nhất : Ngài đi đâu dân chúng cũng đông đảo ùa theo đến đó, thậm chí họ còn muốn tôn Ngài lên làm vua khiến Ngài phải trốn đi. Nhưng dù Ngài trốn đi họ cũng vẫn tìm ra được chỗ Ngài và sáng hôm sau lại ùa tới vây quanh Ngài.
Nhưng tại sao quần chúng ùa theo Ngài như thế ? Thưa vì lợi lộc vật chất :
. Chúa đã chữa nhiều bệnh tật : mù, què, câm, điếc, cả kẻ chết Ngài cũng làm cho sống lại được. Thậm chí có những người chỉ cần chạm tới gấu áo của Ngài hay chỉ cần chờ Ngài đi qua cho cái bóng của Ngài cho phủ lên họ thì cũng được khỏi bệnh.
. Ngài lại vừa mới làm cho họ có bánh ăn : hàng mấy ngàn người đi theo Ngài, Ngài chỉ dùng có 5 chiếc bánh và 2 con cá mà biến ra cho đủ lương thực cho họ ăn no nê thừa thải. Chắc là họ nhủ thầm : Giá mà có ông này bên cạnh ta mãi thì ta chẳng bao giờ sợ đói khát, cũng chẳng cần phải làm lụng cực nhọc mà vẫn luôn no đủ. Chính vì có ý nghĩ như thế, cho nên họ mới định tôn Ngài lên làm vua. Đức Giêsu biết ý họ nên trốn đi. Nhưng sáng hôm sau họ cũng tìm được chỗ và lại đến vây quanh Ngài.
. Khi đó Đức Giêsu nói thẳng : “Các ngươi tìm ta là vì đã được ăn no”. Rồi Đức Giêsu muốn đưa họ lên cao hơn, Ngài nói “Các người đừng theo Ta vì của ăn vật chất, nhưng hãy tìm của ăn tinh thần không hư nát”.
. Nghe lời đó, dân chúng chán nản, bỏ Ngài mà đi gần hết. Chỉ còn lại 12 tông đồ. Đức Giêsu hỏi các tông đồ “Chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi nữa không ?” Phêrô lên tiếng đáp thay anh em “Bỏ Thầy chúng con biết theo ai vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời”.
Con người ta là thế đấy : Hễ thấy có lợi lộc vật chất thì chạy theo, khi không có lợi thì bỏ đi. Ngay trong việc theo đạo cũng vậy. Trong một quyển truyện mang tựa đề “Chìa khóa Nước Trời”, nhà văn A.J.Cronin kể lại có một Linh mục kia đi truyền giáo tại một vùng quê nước Trung Hoa, ông truyền giáo bằng cách phân phát đồ viện trợ nào tiền nào gạo nào thuốc men, những người giúp việc tông đồ cũng được trả lương tháng rộng rãi. Kết quả là chỉ trong vòng có một năm đã có tới 5000 người theo đạo. Nhưng sau khi ông về hưu thì hầu như tất cả đều bỏ đạo, thậm chí Nhà thờ cũng bị những giáo dân bỏ đạo ấy tháo gở đập phá về sửa nhà riêng. Vị Linh mục thứ hai được gởi đến, tưởng mình sẽ gặp được một họ đạo đông đúc và sốt sắng theo như bản báo cáo, nhưng đến nơi ông thấy chẳng có gì cả : Không một giáo dân, không còn nhà thờ. Cuối cùng có hai người đến tự xưng là các giảng viên giáo lý của Linh mục trước, họ đòi lương 15.000 đồng một tháng. Linh mục mới này quá nghèo không có tiền trả nên cả hai giáo dân đó cũng bỏ đi hết. Cha ấy phải khởi sự tất cả lại từ con số không.
Truyền đạo bằng mồi vật chất là xây nhà trên cát – Theo đạo chỉ vì lợi lộc vật chất cũng là xây nhà trên cát !
Suy lại phần mình, chúng ta cũng theo đạo, nhưng thử hỏi vì động lực nào ? Chắc hẳn không ai trong chúng ta quá tệ theo đạo chỉ vì những lợi lộc vật chất đâu. Tuy nhiên trong cuộc đời sống đạo của chúng ta, có lẽ nhiều lần chúng ta bị yếu tố vật chất tác động mạnh mẻ : nghĩa là khi sung túc thì sốt sắng, còn khi túng thiếu thì nguội lạnh. Biết bao lần khi lâm cảnh túng thiếu, chúng ta không muốn dự lễ, không muốn cần nguyện nữa, và thậm chí không muốn tin có Chúa nữa.
Đó là một thứ cám dỗ, nói mạnh hơn, đó là một mưu mô thâm độc của ma quỷ : Ma quỷ luôn muốn làm hại ta. Khi chúng ta túng thiếu, kể như chúng ta không còn một chỗ dựa nào hết, chỉ còn mỗi một nơi nương tựa là Thiên Chúa. Ma quỷ cám dỗ ta bỏ Chúa luôn để ta hoàn toàn không còn một chỗ dựa nào hết. Nghèo nàn hoàn toàn : Nghèo cả vật chất và nghèo cả tinh thần. Đó thật là một mưu mô thâm độc, những ai xưa nay chỉ theo đạo vì lợi lộc vật chất chắc chắn sẽ mắc bẫy của nó.
Chính vì thế, Đức Giêsu khuyến cáo chúng ta “Các ngươi đừng chỉ tìm những của ăn hay hư nát, nhưng hãy tìm những của ăn tinh thần không bao giờ hư nát”.
Những của ăn tinh thần ấy là gì ?
. Là một cuộc sống lương thiện : Người ta thì bần cùng sinh đạo tặc, nhưng kẻ theo Chúa thật thì dù nghèo cũng vẫn thanh cao, công bình.
. Là một cuộc sống bác ái : Người ta thì có phú quý mới sinh lễ nghĩa, còn nghèo túng thì lục đục với nhau : Nhưng kẻ theo Chúa thật dù nghèo túng cũng biết thương yêu chia sốt cho nhau.
. Là một quan niệm sống đầy đủ : không chỉ lo cho thân xác mà còn lo cho phần hồn nữa.
Trở lại với câu chuyện truyền giáo của Linh mục kia. Vì Cha nghèo, không có tiền nhiều để làm mồi câu những người tòng giáo – mà dù có Cha cũng không muốn truyền giáo theo kiểu đó – Cha chỉ đem tinh thần bác ái của Tin Mừng ra để sống với người khác : Cha thăm viếng những người bệnh, Cha cư xử với những người khác tín ngưỡng như những người bạn, Cha nuôi những đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi. Một hôm đứa con trai duy nhất của một ông điền chủ bị bệnh nặng. Nhờ có hiểu biết chút ít về Tây Y, Cha đã cứu cho nó sống. Ông điền chủ chiều hôm ấy tìm đem cha về xin theo đạo. Nhưng Cha thẳng thắn từ chối vì thừa hiểu rằng ông ta chưa có niềm tin. Cha chỉ giữ liên hệ láng giềng tốt với ông ta thôi. Phần ông ta càng ngày càng có cảm tình với Cha. Sau 30 năm truyền giáo như thế, vị Linh mục nghèo tiền nhưng giàu lòng bác ái ấy đã có được số giáo dân khoảng 500 người, nhưng đều là những giáo dân có niềm tin vững chắc. Một ngày trước khi Cha giả từ họ đạo để về hưu, Cha nhận được một niềm vui to lớn : ông nhà giàu kia lại xin theo đạo, và lần này vì một lý do rất vững chắc, ông nói : Thưa Cha, cách đây 30 năm tôi xin theo đạo để trả ơn Cha đã cứu sống con trai tôi, khi đó Cha không nhận vì thấy tôi chưa có niềm tin. Hôm nay, 30 năm sau tôi lại xin theo đạo, lần này không phải để trả ơn Cha, mà vì tôi thấy tôi cần có đạo. Cuộc sống của Cha trong 30 năm đã giúp tôi thấy đạo rất là đẹp, rất là tốt và rất là cần cho con người. Vậy lần này tôi mong Cha đừng từ chối nữa. Dĩ nhiên là Vị Linh mục già ấy nhận lời. Buổi lễ tiễn biệt được trở thành lễ Rửa tội thật là cảm động.
Xin Chúa giúp chúng ta theo đạo vì lý do vững chắc như ông ấy, và biết sống đạo như vị Linh mục ấy. Chúng ta hãy ghi nhớ Lời Chúa “Các người đừng chỉ tìm của ăn vật chất hay hư nát, nhưng hãy tìm của ăn tinh thần không hư nát bao giờ” ; cũng đừng bao giờ vì khó khăn vật chất mà bỏ Chúa : “Bỏ Ngài con biết theo ai vì Ngài có Lời ban sự sống”.
Ngày 20 tháng 10 năm 1995, hơn 200 triệu người trên 100 quốc gia đã theo dõi cuộc phỏng vấn đặc biệt công nương Diana – vợ hoàng tử Charles Anh quốc do hãng thông tấn BBC thực hiện.
Diana nhìn nhận đã ngoại tình với sĩ quan kỵ binh James Hewitt. Lý do dẫn đến việc bất trung ấy là vì hoàng tử Charles đã dan díu với nàng Camilla Packer Bowles. Diana nói :“Tôi biết điều đó nhưng không làm gì được. Có tới ba người trong hôn nhân của chúng tôi. Và điều đó khiến nó trở nên chật chội”.
*
Hôm nay dân chúng lên thuyền nỗ lực tìm kiếm Đức Giêsu, chỉ vì đã được ăn bánh no nê. Miếng ăn là nỗi ưu tư của những người nghèo, nên Đức Giêsu không trách cứ họ. Người chỉ hướng dẫn họ đến với Bánh Trường Sinh : nuôi dưỡng tâm hồn, và đem lại sự sống đời đời.
Con người thời nay không khác gì dân chúng ngày xưa. Người nghèo thì bị cuốn hút vào cơm áo gạo tiền, để thỏa mãn nhu cầu cấp bách của thể xác. Người giàu lại chạy theo xa hoa vật chất, để hưởng thụ nhu cầu cao cấp của con người. Để rồi kẻ giàu người nghèo đều có chung một nguy cơ : là quên đi cái đói khát tâm linh.
Thật ra, càng hưởng thụ con người càng khao khát hơn, thỏa mãn đấy rồi lại khao khát. Mọi thứ của cải trần gian, con người không cho làm đủ. Dù có tiền bạc, thế lực, chức quyền và danh vọng nhưng hoàng tử Charles và công nương Diana vẫn là những con người bất hạnh. Họ vẫn còn đói khát một của ăn tâm hồn. Tiên tri Amos đã nói về niềm khao khát ấy như sau : “Có lúc cả xứ bị đói, không phải đói cơm bánh, không phải là khát nước uống là mà đói khát Lời Chúa” (Am.8,11).
Thấu hiểu cơn đói khát ấy, Đức Giêsu đã không cho Manna từ trời rơi xuống, để mỗi ngày người ta phải lượm mà ăn. Nhưng Người đã cho họ Bánh Ban Sự Sống, để những ai ăn Bánh thì được sống đời đời : “Chính Ta là Bánh ban Sự Sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ” (Ga.6,35).
Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Phụng vụ Thánh, số 47 có viết : “Khi lãnh nhận Đức Kitô, tâm hồn được tràn đầy ân sủng, đồng thời cũng được bảo đảm cho vinh quang đời đời”.
Quả thật, nếu người thứ ba trong cuộc hôn nhân của Diana và Charles không phải là Camilla mà chính là Đức Kitô, thì gia đình ấy sẽ no thỏa hạnh phúc biết bao. Cha Mark Link viết : “Trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy”.
Đức Giêsu chính là Tấm Bánh cho tâm hồn đói nghèo, là cánh tay cho người yếu đuối, là bạn đồng hành cho kẻ cô đơn, là ánh lửa hy vọng cho tất cả mọi người.
*
Lạy Chúa, chỉ một mình Chúa mới đem lại cho chúng con sự no thỏa tâm hồn và niềm vui đích thực.
Xin cho chúng con luôn biết khao khát Chúa là Bánh ban Sự Sống, là nguồn hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, dân Do thái xưa đã tìm đến Đức Giêsu vì được ăn no. Đức Giêsu bảo họ : “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh”. Chúng ta hãy dâng lên Chúa những lời nguyện sau đây :
*1. Chúng ta cầu nguyện cho Hội thánh đang chăm sóc những người nghèo khổ, bệnh tật và chậm tiến / cùng giúp cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là nguồn gốc gây ra mọi đau khổ.
*2. Chúng ta cầu nguyện cho các nhà cầm quyền đừng chỉ chuyên tâm đến vấn đề vật chất và kinh tế / mà bỏ quên vấn đề nhân phẩm, giáo dục, và tự do của mỗi người.
*3. Chúng ta cầu nguyện cho những người đang chạy theo tiền bạc và ham mê hưởng thụ vật chất / biết nhận ra rằng con người còn có tâm hồn và tình yêu / để hướng tới những gì là cao thượng và linh thiêng hơn.
*4. Chúng ta cầu nguyện cho anh chị em trong họ đạo chúng ta / đừng vì âu lo sinh sống vật chất mà bỏ quên bổn phận là con của Chúa, và là anh em của mọi người.
Chủ tế : Lạy Đức Giêsu, Chúa hằng thương lo cho mọi người chúng con cả hồn xác, xin cho chúng con biết nghe lời Chúa, để ra công làm việc không phải vì lương thực hay hư nát, nhưng để có lương thực đem lại phúc trường sinh. Chúa là đấng hằng sống hiển trị muôn đời.
*VI. TRONG THÁNH LỄ
– Trước kinh Lạy Cha : Khi chúng ta cầu xin cho có “lương thực hằng ngày”, một mặt chúng ta xin Chúa quan tâm đến những nhu cầu đời sống chúng ta, nhưng mặt khác chúng ta cũng hãy xin cho mình biết phó thác cuộc sống trong tay Chúa quan phòng.
– Trước Rước lễ : Mình Thánh Chúa mà chúng ta sắp rước còn quý giá gấp bội so với những chiếc bánh và những con cá mà dân do thái ngày xưa được ăn. Chúng ta hãy rước lễ trong tâm tình yêu mến và tạ ơn sốt sắng.
*VII. GIẢI TÁN
Chúa đã nuôi dưỡng chúng ta trong Thánh lễ này và hằng nuôi dưỡng chúng ta mãi mãi. Chúng ta cũng hãy rộng rãi chia xẻ với anh chị em chúng ta.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam