Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 38

Tổng truy cập: 1361153

ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ NÊN MÔN ĐỆ DỨC KITÔ

ĐIỀU KIỆN ĐỂ TRỞ NÊN MÔN ĐỆ DỨC KITÔ(*)-  Suy niệm chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay có chung một bài học: đường lối của Thiên Chúa không là đường lối của con người; vì thế, những người Ki-tô hữu phải có thái độ dứt khoát không chạy theo thời, không rập khuôn theo thói đời.

Gr 20: 7-9

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a trung thành loan báo sứ điệp Thiên Chúa, dù phải đi ngược lại với bản tính của ông và những ước muốn của những người đương thời với ông.

Rm 12: 1-2

Thánh Phao-lô cảnh giác cộng đoàn tín hữu Rô-ma, sống giữa môi trường dân ngoại, “đừng có rập theo đời nầy”.

Mt 16: 21-27

Trong Tin Mừng, thánh Phê-rô phản ứng như một phàm nhân, phẩn nộ trước ý định Thiên Chúa dẫn Đấng Mê-si-a bước đi trên con đường đau khổ.

BÀI ĐỌC I (Gr 20: 7-9)

Trong lịch sử trào lưu Ngôn Sứ Kinh Thánh, chắc chắn ngôn sứ Giê-rê-mi-a là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất. Vốn hiền hòa, đa cảm và không muốn làm mất lòng một ai, ấy vậy, ông phải trung thành loan báo những sứ điệp của Thiên Chúa, ngược lại với bản tính của mình và những kỳ vọng của những người đương thời với ông, vì thế, ông rất khổ tâm và không ngừng bị chống đối.

*1.Bối cảnh lịch sử:

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, giữa những năm 626 và 587 tCn; nghĩa là ông đã sống vào thời kỳ bi thảm nhất của vương quốc Giu-đa: hai lần thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đế quốc Ba-by-lon vây hãm (598-587), và cuối cùng thành thánh bị tàn phá và Đền Thánh bị phá hủy. Ông đã loan báo tai họa sắp giáng xuống mà không được ai chú ý đến, kêu gọi hoán cải để được thứ tha mà không được ai lắng nghe: trở nên trò đùa, bị nhạo báng, bị xem như kẻ phản quốc, bị tống giam, thật sự là một bi kịch diễn ra trong tận đáy lòng của vị ngôn sứ.

*2.Bi kịch nội tâm:

Đoạn văn được trích dẫn hôm nay là một trong những đoạn văn thống thiết nhất mà vị Ngôn Sứ đã viết. Qua lối nói phóng dụ và những hình ảnh mạnh mẽ, đoạn trích nầy nói lên tất cả bi kịch của trào lưu Ngôn Sứ: đón nhận ơn đặc sủng mà không thể nào cưỡng kháng lại được, ý muốn của Thiên Chúa ngược lại với tất cả những ước muốn của phàm nhân, đấu tranh không hề mỏi mệt với sự dữ và dối trá mà không nhận được bất cứ điều gì ngoài những lời nhục mạ và cam chịu vì không được ai hiểu.

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a thân thưa với Thiên Chúa về sức mạnh của Ngài trên sứ mạng ngôn sứ của ông:

“Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con,

và con đã để cho Ngài quyến rũ.

Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng”.

Ông phàn nàn với Chúa về những thử thách nặng nề mà ông phải chịu khi trung thành thi hành sứ vụ Thiên Chúa đã giao phó. Người đương thời chẳng những không đón nhận, mà còn lăng nhục ông, vì sứ điệp của Thiên Chúa trái với những kỳ vọng của con người.

“Suốt ngày con đã trở nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con.

Mỗi lần nói năng là con phải la lớn,

phải kêu lên: ‘Bạo tàn! Phá hủy!’.

Vì lời Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt này” (20: 7c-8).

Vì thế, ông mong muốn được thoái thác sứ vụ của mình:

“Có lần con tự nhủ: ‘Tôi sẽ không nghĩ đến Người,

cũng chẳng nhân danh Người mà nói nữa’” (20: 9a).

Dù đã ra sức cố dồn nén lại trong lòng, không công bố lời Chúa nữa, nhưng ông không thể:

“Nhưng lời Ngài như một ngọn lửa cháy bừng trong tim,

ầm ỉ trong xương cốt.

Con nín chịu đến phải hao mòn, nhưng làm sao nén được!” (20: 9b)

Không bản văn nào hơn bản văn nầy giúp chúng ta thấu hiểu bản chất ơn gọi ngôn sứ, nguồn gốc siêu nhiên của nó, và đồng thời, quyền năng của nó ở tận cõi thâm sâu nhất của con người. Ngôn sứ Giê-rê-mi, bị người đời ruồng bỏ, quay về Thiên Chúa trong một lời khẩn nguyện khôn nguôi, dưới hình thức đối thoại hay độc thoại rất cô động. Ông thật xứng danh là “cha của lời khẩn nguyện”. Cũng chính ông loan báo “giao ước mới được ghi khắc trong lòng” và cũng là người đầu tiên sống giao ước mới mà ông loan báo.

BÀI ĐỌC II (Rm 12: 1-2)

Với chương 12, khởi sự phần luân l‎ý của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô ngỏ lời với toàn thể cộng đoàn tín hữu Rô-ma (dù họ xuất thân từ đâu: Do thái hay dân ngoại). Thánh nhân vừa mới ca ngợi lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, vì thế ngài khai triển chủ đề nầy. Trong phần trích hôm nay, chúng ta đọc thấy hai lời khuyên của thánh nhân: phụng thờ đích thật và đổi mới con người.

*1.Phụng thờ đích thật (12: 1):

“Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”: “Của lễ sống động” là trọn một cuộc đời dâng hiến cho Thiên Chúa, đối nghịch với tế vật của những súc vật chết được hiến dâng trên bàn thờ. Tất cả cuộc đời Ki-tô hữu phải là một cuộc đời phụng tự. Đó mới thật là “của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Thánh Phao-lô đã áp dụng từ ngữ tế tự vào chính mình. Thánh nhân xem sứ vụ của mình như một hành vi tế tự như trong lời kết thư gởi tín hữu Rô-ma nầy: “Ân sủng Thiên Chúa đã ban cho tôi là làm người phục vụ Đức Giê-su Ki-tô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hóa mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa” (Rm 15: 16). Trong thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, khi ám chỉ đến việc mình bị kết án tử, có lẽ sắp đến gần, thánh nhân thấy “máu của mình phải đổ ra hợp làm một với hy lễ” (Pl 2: 17).

Hiến dâng chính bản thân mình lên Thiên Chúa, đó là “cách thế xứng hợp để anh em thờ phượng Thiên Chúa”. Ở đây, thánh nhân phân biệt sự khác biệt giữa tế tự hình thức và tế tự đòi hỏi dấn thân trọn vẹn bản thân mình. Tế tự đòi hỏi dấn thân trọn vẹn bản thân mình là cách thức phụng sự Thiên Chúa xứng hợp nhất.

*2.Đổi mới con người (12: 2):

Lời khuyên thứ hai nhắm đến việc đổi mới con người. Việc đổi mới nầy đòi hỏi hai chuyển động đồng lúc: “Đừng rập theo đời nầy”, nhưng “hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần”.

Do thái giáo phân biệt thế giới hiện tại và thế giới sắp đến, tức vương quốc Thiên Chúa. Đối với thánh Phao-lô, thế giới hiện tại là thế giới tội lỗi, thế giới ngoại giáo. Đối với thế giới nầy, người tín hữu phải có thái độ không theo thời, không tìm cách rập khuôn theo thói đời. Đó thật sự là một thử thách khủng khiếp thường ngày đối với các Ki-tô hữu hiện sống trong thủ đô của Đế Quốc Rô-ma.

Thánh Phao-lô sẽ không ngừng lập đi lập lại: Hãy trở nên một con người mới “hầu có thể nhận ra đâu là ‎ý muốn của Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo”.

TIN MỪNG (Mt 16: 21-27)

Đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật nầy nối tiếp với đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước.

*1.Loan báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó và Phục Sinh:

Sau khi đã nghe thánh Phê-rô tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Đức Giê-su nghĩ rằng đây là giây phút thuận tiện để dẫn đưa các môn đệ của mình vào trong mặc khải mầu nhiệm của Ngài: đây là lần đầu tiên (sẽ còn hai lần khác nữa) Ngài loan báo cho họ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Người phải chịu nhiều đau khổ, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Mỗi lần loan báo về cái chết của mình, Ngài liên kết những viễn cảnh của cuộc Tử Nạn của Ngài với biến cố Phục Sinh.

“Người phải…”: Điều tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên ở đây không là tất yếu của một định mệnh; nhưng là tất yếu thuộc trật tự thần học, cái tất yếu của kế hoạch Thiên Chúa. Tử Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh đến để đền bù, nhưng dự phần vào mầu nhiệm cứu độ con người. Đức Giê-su không cho các môn đệ bất cứ giải thích nào khác ngoài cái tất yếu “phải” nầy (tất cả các từ “phải” quan trọng của Tân Ước đều quy về ơn cứu độ).

*2.Phản ứng của thánh Phê-rô:

Chúng ta hiểu được phản ứng của thánh Phê-rô. Ông quan niệm Đấng Mê-si-a vinh quang và chiến thắng. Trong tư tưởng của ông, những viễn tượng về Đấng Mê-si-a trần thế chắc chắn vẫn còn hiện diện.

Rất tế nhị, thánh Phao-lô kéo riêng Ngài ra khỏi tầm nhìn của các môn đệ và trách cứ Ngài: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”: Chắc chắn thánh nhân lầm khi lôi kéo Thiên Chúa vào việc gìn giữ Thầy mình cho “tai qua nạn khỏi”. Tuy nhiên, tiếng kêu của ông không chỉ bày tỏ những kỳ vọng mà ông đặt vào Đức Giê-su, nhưng cũng trọn tấm lòng yêu mến của ông đối với Thầy mình. Chúng ta không thể nào chấp nhận người mình yêu mến phải chịu đau khổ.

Đức Giê-su phản ứng dữ dội. Vào lúc nầy, những cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa hiện ra trong tâm trí Ngài giữa “Đấng Mê-si-a quyền năng” mà dân Ít-ra-en mong đợi và “Người Tôi Tớ đau khổ” mà Kinh Thánh loan báo. Trước đây, Đức Giê-su đã xua đuổi chước cám dỗ của Xa-tan bởi lời quyền năng: “Xa-tan kia, xéo đi!” (4: 10), nay Ngài phản kháng thánh Phê-rô cũng một cách tương tự như thế: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy!”. “Xa-tan” có nghĩa “kẻ cản lối” làm người ta vấp ngã.

Khi truyền lệnh cho Phê-rô: “Lui lại đằng sau Thầy”, Đức Giê-su không xua đuổi ông, nhưng mời gọi ông “hãy đi theo sau Ngài” để khỏi cản lối đi của Ngài. Ngài muốn Phê-rô hiểu rằng đức tin mà ông đã tuyên xưng, việc tấn phong mà ông đã lãnh nhận, đòi hỏi ông phải dứt khoát dấn thân vào trong cùng một vận mệnh của Ngài vì đó là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa: “Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

*3.Những điều kiện để trở nên môn đệ của Đức Giê-su:

Ngay lúc đó, quay về các môn đệ, Đức Giê-su cũng nói với các ông một cách như thế khi liên kết các môn đệ vào với vận mệnh của Ngài, yêu cầu họ bước đi trên cùng một con đường của Ngài.

“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”: Hình ảnh “thập giá” vào thời đó không xa lạ gì với những người đương thời của Đức Giê-su. Chính quyền Rô-ma đã áp dụng hình phạt thập giá cho những ai dám chống lại quyền cai trị của họ. Đã có những cuộc hành hình tập thể như thế xảy ra rồi ở Giê-ru-sa-lem. Ở nơi hình ảnh “thập giá” Đức Giê-su chất chứa những gian khổ mà những ai muốn trở nên môn đệ của Ngài phải trải qua. Trước đây, trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su đã gợi lên hình phạt thập giá nầy rồi: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10: 38). Thánh Lu-ca, trong một đoạn văn song song (Lc 9: 23), đã thêm chữ “hằng ngày” làm cho “vác thập giá” mang nghĩa biểu tượng: “vác thập giá hằng ngày” nghĩa là chấp nhận mọi khốn khó của cuộc đời.

“Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”: Lời nầy của Đức Giê-su được cả bốn tác giả Tin Mừng ghi lại, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca đến hai lần (Mt 10: 38; 16: 25; Mc 8: 35; Lc 9: 24; 17: 33; Ga 12: 25). Một âm vang như thế hàm chứa rằng họ đã hiểu tất cả ‎ý nghĩa của chúng và ghi khắc chúng vào lòng như một bài học lớn lao về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Trong viễn cảnh của những lần tiên báo về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, cái chết của Ngài không là dấu chấm hết, nhưng mở ra sự sống: “Mạng sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ‎ ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10: 18). Thánh Mát-thêu viết những lời nầy trong bối cảnh của những năm 80, bối cảnh của những ngày bách hại khắc nghiệt nhất, người tín hữu nào liều mất mạng sống mình vì Đức Giê-su và Tin Mừng, chính là bảo đảm cho mình một cuộc sống trong Vương Quốc Thiên Chúa.

“Vì nếu người ta được cả thế giới, mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”: Ở đây, Đức Giê-su đối lập giữa sở hữu của cải vật chất được gói trọn ở nơi “người ta được cả thế gian” và “thiệt mất mạng sống” được hiểu theo nghĩa mạnh: “tổn hại sự sống đời đời”, “đánh mất ơn cứu độ”.

Để kết thúc tư tưởng của mình, Đức Giê-su mời gọi các môn đệ biết chọn lựa cách khôn ngoan giữa cuộc sống đời này với cuộc sống vĩnh cửu mai sau khi đặt cho các ông một câu hỏi: “Người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?”. Cuối cùng, Đức Giê-su kết hợp viễn cảnh chung cuộc nầy với ngày quang lâm của Ngài: “Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”.

Vì thế, để được sở hữu “sự sống đích thật”, một con đường duy nhất được ban cho các môn đệ và sau họ, cho tất cả các Ki-tô hữu: noi gương Đức Giê-su, từ bỏ chính mình, như Ngài, cho đến chết. Lời nghiêm trang, không hoa mỹ, nhưng trào dâng một niềm hy vọng vinh quang. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Giê-su không đòi buộc nhưng đề nghị: “Ai muốn …”.

 (*) Tựa đề do BTT.GPBR đặt

CHÚA NHẬT XXII THƯỜNG NIÊN- A

THEO CHÚA LÀ TỪ BỎ VÀ VÁC THẬP GIÁ- Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái

*I. DẪN VÀO THÁNH LỄ

Anh chị em thân mến

Lời Chúa hôm nay sẽ không êm ái dễ nghe chút nào, mà trái lại rất đáng sợ : “Ai muốn theo Ta thì phải từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo”.

Xin Chúa giúp chúng ta ý thức rõ về con đường thập giá và xin Ngài ban cho chúng ta đủ can đảm để theo Ngài trên con đường ấy.

*II. GỢI Ý SÁM HỐI

– Chúng ta tôn kính Thánh Giá Chúa, nhưng không chấp nhận vác những thập giá của mình trong cuộc sống thường ngày.

– Chúng ta quá tôn trọng cái tôi của mình.

– Chúng ta không quen từ bỏ.

*III. LỜI CHÚA

*1. Bài đọc I (Gr 20,7-9)

Đoạn này được các nhà nghiên cứu Thánh Kinh gọi là “Lời tự thú của Giêrêmia”, trong đó vị ngôn sứ than thở về biết bao đau khổ ông phải chịu do sứ mạng làm ngôn sứ cho Chúa.

Thực vậy, sứ mạng của Giêrêmia không được trơn tru và thành công, nhưng gặp phải rất nhiều chống đối : lời ông giảng không được người ta đón nghe, trái lại còn chế nhạo, phản đối, thậm chí lên án nữa (vì ông công kích cuộc sống tội lỗi của họ, loan báo án phạt của Chúa…). Nhiều lần người ta âm mưu sát hại ông khiến ông chỉ thoát chết trong đường tơ kẻ tóc…

Nhưng dù than thở như thế, Giêrêmia cũng thú nhận là ông không thể nào từ bò sứ mạng đau khổ đó, bởi lẽ “Chúa đã quyến rũ được con, Chúa đã hùng mạnh hơn con và đã thắng con”.

*2. Đáp ca (Tv 62)

Thánh vịnh này được xếp vào loại các Thánh vịnh cầu nguyện trong cơn khốn khó.

Tác giả là người thiết tha yêu mến Chúa. Yêu mến ai thì khát khao gặp được người đó. Tác giả cũng thế, nhất là trong lúc khốn khó, tác giả khao khát được gặp Chúa, như đất khô cằn mong gặp được nước.

*3. Tin Mừng (Mt 16,21-27)

Sau khi Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ chịu nạn chịu chết, Phêrô kéo Ngài lại và ngăn cản. Đức Giêsu trách mắng ông rất nặng lời, Ngài gọi ông là Satan.

Sau đó, Đức Giêsu còn nói về điều kiện của những ai muốn làm môn đệ Ngài (“đi theo” trong cách nói do thái có nghĩa là làm môn đệ) :

– Điều kiện thứ nhất là từ bỏ mình.

– Điều kiện thứ hai là vác thập giá mình.

Nên chú ý một số chi tiết có ý nghĩa sâu sắc :

. “Từ bỏ chính mình” : xem ra từ bỏ mình nghĩa là tha hoá, vong thân (aliénation), mình không còn phải là mình nữa. Xét theo tâm lý học thì điều này không tốt, vì mỗi người phải giữ cái độc đáo của mình. Nhưng xét theo thần học thì lại rất tốt : tuy ta không còn là mình nữa nhưng ta hóa nên giống Đức Giêsu thì thật tuyệt vời. Lý tưởng mà thánh Phaolô luôn nhắm tới là được trở nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Giêsu. Hơn nữa đây thực sự không phải là “tha hóa” mà là tìm lại chính mình, bởi vì từ đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người “giống hình ảnh” Ngài. Chỉ sau đó do tội lỗi nên con người bị “tha hóa”. Nay cố gắng trở nên giống Đức Giêsu chính là tìm lại hình ảnh ban đầu.

. “Vác thập giá mình” : Kiểu nói này có nhiều nghĩa : a/ Đón nhận những khổ cực của mình, cũng như Đức Giêsu đã đón nhận những khổ cực của Ngài ; b/ Theo luật hình sự Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự mình vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế, “vác thập giá mình” nghĩa là coi như mình đã bị kết án tử ; c/ câu 25 giải thích câu 24 : “Quả thật ai liều mất mạng sống mình vì tôi…”. Như thế “vác thập giá” có nghĩa là “liều mất mạng sống”, hay nói nôm na là “liều mạng” vì Chúa.

*4. Bài đọc II (Rm 12,1-2)

Những lời Thánh Phaolô viết trong đoạn thư này cũng có ý nghĩa tương đương với lời Đức Giêsu kêu gọi môn đệ hãy từ bỏ và vác thập giá mình : tín hữu hãy coi mình như một của lễ, cho nên hãy dâng bản thân mình cho Chúa, giống như chủ tế dâng của lễ lên Thiên Chúa trong một Thánh lễ.

Thánh Phaolô khuyến khích : đó là một việc rất đẹp lòng Chúa, và đó chính là việc phụng thờ hợp lý đáng làm nhất.

*IV. GỢI Ý GIẢNG

*1. Từ bỏ là một quy luật

Đa số chúng ta nghĩ rằng từ bỏ là một điều gì đó bất thường, vì thế chúng ta không muốn từ bỏ.

Thực ra, từ bỏ là điều rất bình thường, rất cần thiết nữa là đàng khác, cho nên có thể nói từ bỏ là một quy luật.

– Quy luật của sinh tồn : có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ thì ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.

– Quy luật của phát triển : cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó cơ thể lớn dần lên. trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh, đứa trẻ con ấu trĩ… có thế mới phát triển dần thành người lớn.

– Quy luật của cải thiện : cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt để lấy vào những cái tốt hơn.

– Quy luật của tiếp nhận : có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít rượu thì trước hết phải đổ bỏ một lít nước kia ra khỏi cái chai.

Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia… mà có khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá nặng, nếu tiếp tục xài thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này bộ phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc xe khác.

Làm môn đệ Đức Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không lạ gì khi Ngài bảo chúng ta phải “từ bỏ mình”. Cái phần “mình” được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần “Chúa” được gia tăng bấy nhiêu. “Từ bỏ mình” hoàn toàn thì sẽ trở thành “Kitô khác” hoàn toàn.

Như thế tuy bỏ nhưng không mất, mà lại được ; không thiệt thòi mà lại có lợi hơn. Thánh Phanxicô Assisi nói : “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.

*2. Từ “từ bỏ” đến “hiến dâng

Nói “từ bỏ” thì ta cảm thấy tiếc. Nhưng nếu nói “hiến dâng” như Thánh Phaolô (bài đọc II) thì ta thấy hăng hái hơn. Vì thế, xem ra câu của Thánh Phaolô “Anh em hãy hiến thân anh em làm của lễ sống động cho Thiên Chúa” tuy cũng cùng ý nghĩa với câu Đức Giêsu nói “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ chính mình”, nhưng tích cực hơn.

– “Hiến thân” hàm chứa tình yêu : yêu là cho, yêu trọn vẹn thì không chỉ cho món này món nọ, mà cho cả con người của mình. Hiến thân.

– “Hiến thân” là một hành vi tự do : không ai ép buộc, chỉ vì yêu nên tự nguyện hiến thân.

– “Hiến thân” còn có giá trị tôn thờ : dùng thân mình như một của lễ dâng lên Thiên Chúa để thờ phượng Ngài. Cuộc sống trở thành phụng tự. Cuộc đời trở thành Thánh lễ.

*3. Ai đành mất mạng sống mình thì sẽ được sống

Nếu ta chăm chú nghe Lời Đức Giêsu, ta sẽ thấy rằng Người không nói chống đối sự sống. Người không đòi hỏi các môn đệ phải bỏ sự sống. Trái lại Người kêu mời họ sống phong phú hơn. Người chỉ cho thấy con đường sống thôi thúc người ta sống tốt tối đa, tức là sống để trao ban chính bản thân. Ai khép kín trong vỏ ốc của mình, ai chỉ lo cho bản thân mình, sẽ héo tàn, bởi vì con người không thể thành tựu nếu chỉ đóng kín lo cho mình. Nếu bạn khép kín, bạn sẽ chết trong khi nghĩ rằng mình giữ được sự sống. Thu tích của cải để phòng thân sẽ không ích gì nếu bạn đánh mất chính mình. Con người ta không thể được cứu rỗi nhờ những của cải mình có, nhờ của “sở hữu”, nhưng nhờ đức tính của đời sống. Tính “người” được lớn lên khi ta quên mình và trao ban thân mình. “Nếu người ta được cả thế giới mà thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì ? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình ?” Đức Giêsu nhắc cho ta vẻ cao trọng của con người. Trái tim con người được tạo nên để mở ra, để thương, và bạn không thể yêu thương nếu bạn không cho đi và trao ban chính mình. “Yêu là cho tất cả và trao ban chính bản thân mình“, thánh Têrêxa Hài Đồng đã nói. Nếu bạn muốn tự cho mình là trung tâm vũ trụ, nếu bạn muốn quy chiếu mọi sự vào bạn, bạn sẽ đánh mất bản thân : mất linh hồn, yếu tố nhờ đó mà sự sống thực sự là của con người.

Thật là một nghịch lý cho con người. Anh ta chỉ thật sự thành tựu cuộc sống trong khi anh khước từ nó để cho đi. Chúng ta có thể nhận thấy ở ngay quanh ta, mặc dầu ta không dễ chấp nhận điều đó áp dụng cho chính mình : những người thành tựu, cuộc sống tốt đẹp và hữu ích, là những người không tìm dễ dãi, là những người cho đi thời gian, sức lực, lòng tận tuỵ để phục vụ tha nhân… cho đến hy sinh sự sống của mình. Đức Giêsu đã đề cập và soi sáng vẻ cao đẹp chỉ con người mới có này. Không những Người đã sống như thế, Người còn mặc khải ý nghĩa đầy đủ : Ai muốn theo tôi… Nào chúng ta lại không muốn bước theo Người sao ? Con đường thập giá, Người đã làm cho nó trở thành cửa ngõ quãng đường dẫn vào cuộc sống sung mãn bất ngờ : đó là phục sinh. Những câu tiếp theo liên quan đến phần thưởng Người nói về kết cục của cuộc sống con người. Không phải một lời đe dọa đâu, mà là một lời hứa. “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm”. Không có gì phải sợ khi bạn liều mạng sống vì Đức Giêsu, vì đó là một bảo đảm tốt nhất cho sự thành tựu cuối cùng. “Ai liều mạng sống mình vì Thầy, sẽ tìm lại được nó“. Đức Giêsu mời ta cân nhắc tầm vóc đời đời của những lựa chọn của ta, và tương lai vô tận của tình thương đã trao ban. (Mgr Daloz, trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 275-276)

*4. Chuyện minh họa

a/ Từ bỏ

Có một thuyền trưởng ghé tàu qua đảo hoang, bắt gặp một khối lượng nam châm rất lớn. Ông đem hết lên tàu để về làm giàu. Nhưng tàu bị lạc giữa biển không sao định hướng được, kim nam châm hải bàn lúc nào cũng chỉ về phía khoan tàu chứa khối nam châm. Cuối cùng lương thục thiếu, nhiên liệu cạn dần, người thuyền trưởng phải quyết định vất bỏ khối nam châm để hải bàn có thể định hướng đúng mà cứu sống cả con tàu. (Trích “Phúc”)

b/ Dấu nhận ra Chúa

Có lần một nhà truyền giáo hỏi lớp giáo lí Thánh Kinh : nếu các bạn thấy một nhóm gồm 12 người đàn ông rất giống nhau, trong đó có đức Kitô, làm sao các bạn nhận ra Ngài ? Nhiều người bảo không biết. Nhưng một em bé nói : “Nhờ những dấu đanh trên tay Ngài”.

*V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

CT : Anh chị em thân mến

Đường lối của Thiên Chúa thường khác xa với những suy nghĩ tầm thường của loài người. Luôn xác tín Thiên Chúa là Đấng thượng trí vô song, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.

1- Hội Thánh không ngừng rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh trên Thập giá / và sống lại khải hoàn để cứu chuộc nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho việc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh / được nhiều người thành tâm đón nhận.

2- Ngày nay nhiều người thích đời sống dễ dãi / hơn là chấp nhận những hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều kitô hữu / dám vì Chúa mà hy sinh phục vụ những người bất hạnh nhất của xã hội.

3- Phải qua thập giá rồi mới bước vào vinh quang / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu hiểu rằng / nếu muốn được chia xẻ vinh quang với Chúa / họ phải đi qua con đường hẹp / đầy dẫy những thử thách gian nan / nhưng là con đường dẫn tới sự sống muôn đời.

4- “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người dám thí mạng vì bạn hữu mình” / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết yêu thương nhau như Chúa đã dạy.

CT : Lạy Chúa Giêsu, bản tính con người chúng con rất sợ phải gặp đau khổ trong cuộc sống thường ngày. Do đó, nếu Chúa không ban ơn giúp sức, chúng con không thể nào vác thập giá theo chân Chúa đến cùng được. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp cho chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

home Mục lục Lưu trữ