Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 35

Tổng truy cập: 1362374

ĐỈNH CAO HÔM NAY, ĐỈNH CAO NGÀY MAI

ĐỈNH CAO HÔM NAY, ĐỈNH CAO NGÀY MAI

 

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)

Bên kia những thực tại hữu hình

Bản văn của thánh Mát-thêu trình bày một kinh nghiệm thần bí vượt trên những thực tại hữu hình, qua những con người và biểu tượng. Bản văn là một mặc khải về một mầu nhiệm: căn tính của Đức Giêsu.

Nơi chốn: "một nơi riêng", "một ngọn núi cao". Đây không phải là một địa điểm cụ thể về địa dư. Có thể lấy làm tiếc vì một truyền thống muôn thời đã muốn xác định về một nơi rõ ràng, bởi vì việc Tin Mừng không nói rõ nơi chốn có thể có nghĩa là mặc khải này sẽ xảy ra ở mọi nơi.

Đàng khác, "ngọn núi cao" luôn luôn là một nơi đặc biệt; tại đó đất dường như nối liền với trời, và cũng tại đó, con người vừa cảm nghiệm được sự bé nhỏ của mình, đổng thời vừa muốn vươn mình tới những chiều kích bao la của vũ trụ.

Thời gian: đã được xác định rõ là 6 ngày sau khi Đức Giêsu báo trước cho các Tông Đổ về cuộc Khổ Nạn. Tuy nhiên, cuộc Hiển Dung còn có ý nghĩa lớn lao hơn: nối kết giữa quá khứ (Môsê + Êlia) và tương lai (Đức Kitô phục sinh). Đây là một thời gian vượt-thời-gian.

Các nhân vật: thái độ của các môn đệ (theo Đức Giêsu, muốn ở lại, sự kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất) cho thấy một sự đảo lộn, một ý thức do một nhận biết không thể diễn tả nổi về thực tại nơi Đức Kitô. Con đường này trở thành con đường của các môn đệ sau khi Đức Kitô phục sinh, đổng thời cũng là con đường của tất cả mọi Kitô hữu.

Một bức tranh để chiêm ngắm

Việc Đức Giêsu biến đổi hình dạng không phải chỉ là một trình thuật để nghe, nhưng còn là một bức tranh để chiêm ngắm, tựa như hình ảnh ngắn ngủi về một thế giới thần thiêng và bí nhiệm, rất gần gũi mà cũng rất xa xăm. Trên dung nhan của con người đang bị bóng tối tử thần đe dọa, đã bừng lên ánh sáng chói lòa của ngày Phục Sinh.

Biến cố Hiển Dung xảy ra sau khi Đức Giêsu báo trước cuộc Khổ Nạn của Người cũng như việc dự phần của các môn đệ: biến cố này nhằm củng cố lòng tin của ba vị tông đổ sẽ có mặt vào những giờ phút cuối cùng của Đức Giêsu tại vườn cây Dầu (Mc 14,33). Thật ra, đây không phải là lần đầu tiên ba vị này được "đi riêng" với Đức Giêsu; ba vị đã từng được chứng kiến việc Đức Giêsu làm cho con gái ông trưởng hội đường sống lại (Mc 5,37).

Tuy vậy, sự kiện này còn có ý nghĩa quan trọng hơn với mỗi vị. Trước hết, với Phêrô, người sẽ được trao quyền lãnh đạo Giáo Hội: từ đây, ông sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến, với Gia-cô-bê, vị tử đạo tiên khởi: ông sẽ hân hoan đỗ máu để làm chứng vì ông đã tận mắt nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa. Cuối cùng, với Gio-an, người môn đệ được Đức Giêsu yêu dấu: ông sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.

Như vậy, ba vị cột trụ trong sinh hoạt của Giáo Hội thời đầu, nhờ kinh nghiệm sâu xa về vinh quang Thiên Chúa, sẽ làm chứng một cách sống động về Đức Giêsu, Đấng đã đi qua con đường đau khổ để bày tỏ lòng yêu mến và đem lại ơn cứu độ.

Thình lình, các ông đã được chứng kiến Đức Giêsu biến đổi hình dạng. Tác giả đã dùng thuật ngữ khải huyền để mô tả vinh quang Thiên Chúa xuất hiện trên dung nhan Đức Giêsu. Điều đáng nói ở đây là ánh sáng vinh quang mà các môn đệ nhìn thấy nơi Đức Kitô, không phải là điều gì đến từ bên ngoài, nhưng là sự biểu lộ bình thường của vẻ đẹp vẫn gắn liền với "Đấng từ trời xuống". Do đó, điều gây ngạc nhiên không phải là ánh sáng rạng ngời đó đã bao phủ Đức Giêsu trong chốc lát, nhưng là sự che giấu ánh sáng đó trong những lúc khác. Như vậy, Đức Giêsu đã che giấu vinh quang của Người, và giờ đây, trong một khoảng thời gian ngắn, Người rời bỏ nhân tính để con người có thể chiêm ngắm vinh quang của Người; và nhờ đó, họ nhận ra căn tính đích thực của Đức Giêsu: Con Thiên Chúa.

Đang khi Đức Giêsu bày tỏ Thiên tính của Người, thì Môsê, vị anh hùng của Lề Luật, và Êlia, thủ lãnh các ngôn sứ, đã đến đàm đạo với Người. Sự hiện diện của hai chứng nhân thời Cựu Ước cho thấy tính siêu việt của thời đại cuối cùng, đổng thời loan báo Vị Ngôn Sứ thiên hạ vẫn mong chờ, nay đã xuất hiện.

Ngoài ra, nội dung cuộc đàm đạo giữa Đức Giêsu với Môsê và Êlia không phải là những điều Người đã giảng dạy, nhưng là cuộc Khổ Nạn của Người. Đó chính là nhiệm vụ của Người, Đấng hoàn tất Lề Luật và lời loan báo của các Ngôn sứ. Việc loan báo đã kết thúc, và Đấng phải đến đã đến để thực hiện công cuộc cứu độ.

Cuối cùng, sự hiện diện của Chúa Cha qua đám mây và tiếng nói là một xác nhận rõ ràng và dứt khoát về sứ mệnh của Đức Giêsu.

Ở đây, cũng như trong biến cố phép Rửa, vẫn là sự giới thiệu sâu sắc về Đấng phải đến để thực hiện lời hứa của Thiên Chúa dành cho dân Người. Lời giới thiệu này cho thấy mối hiệp thông sâu xa và bất khả phân ly giữa Chúa Cha và Chúa Con. Tuy thế, lời giới thiệu trong biến cố Hiển Dung còn thêm lệnh truyền "hãy vâng nghe lời Người". Hãy nghe lời Đức Kitô, hãy đón nhận tất cả những gì Người sẽ thực hiện, cả vinh quang và đau khổ, cả sức mạnh lẫn yếu đuối, cả sự chết lẫn sự phục sinh. Đó là ơn cứu độ.

Hãy rời ngọn núi, tiếp tục con đường

Một tuần lễ trước khi xảy ra biến cố này, Phêrô đã thử tìm một con đường dẫn đến vinh quang mà không có Thập giá. Giờ đây, ông nghĩ rằng việc Hiển Dung có thể là con đường tắt để thực hiện ơn cứu độ. Ông hiểu đôi chút về điều đang xảy ra, có một cái gì đó rất lớn lao, và một lần nữa, ông cố gắng thuyết phục Đức Giêsu đừng đi Giêrusalem, bằng cách xin dựng lều ở trên núi này. Với Đức Giêsu, vinh quang hôm nay chỉ là chốc lát, chỉ là khởi đầu, chỉ là lời báo trước cho vinh quang vĩnh cửu sau cuộc Khổ Nạn. Còn với Phêrô, đây là vinh quang của ơn cứu độ, và ông phải dấn mình vào: ông tưởng rằng không cần có thập giá vẫn có vinh quang. Mãi đến sau này, sau biến cố Phục Sinh, ông mới hiểu rõ và thuật lại toàn bộ sự kiện (xem 2 Pr 1,16-20).

Bởi vậy, trước khi đạt đến vinh quang đích thực, Đức Giêsu phải rời ngọn núi để tiếp tục con đường lên Giêrusalem. Ngài còn phải đến vườn cây Dầu, còn phải lên đồi Gôn-gô-tha. Mặc dù bóng tối của đổi Gôn-gô-tha có che khuất khuôn mặt vinh quang, như là chẳng còn nhìn thấy gì, chẳng còn chi hi vọng; nhưng điều đó chỉ xảy ra trong giây lát, trong một thời gian ngắn. Ánh sáng đã một lần bừng lên thì không phải là điều ảo tưởng, điều đã xảy ra trên núi không phải là giấc mơ. Biến cố Phục Sinh sẽ cho thấy rằng sự sống có thể nảy sinh từ sự chết.

Biến cố Hiển Dung của Đức Giêsu thực là một kinh nghiệm cho tất cả những ai muốn cùng được tham dự vào vinh quang của Người: Chính kinh nghiệm này là chìa khóa, là sức mạnh giúp chúng ta dám chấp nhận những hi sinh, những từ bỏ để càng lúc càng gắn bó hơn với Đức Kitô. Biến cố này thực là một cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa, xuyên qua những thử thách. Ai không chấp nhận xuất hành, không cùng đi với Đức Giêsu trên con đường lên Giêrusalem, người ấy sẽ không được tham dự vào vinh quang vĩnh cửu. Mỗi người sẽ có thể có một kinh nghiệm nào đó về Đức Giêsu, nhưng đó chưa phải là tất cả. Đỉnh cao này còn chờ một đỉnh cao nữa.

 

16.Nội tâm – Lm. Vũ Đình Tường

Việc các tông đồ được nhìn thị kiến trên núi thánh không phải do công sức, tài lực của cá nhân mà chính là ơn Chúa ban.

ĐẶC ÂN

Kinh Thánh ghi rõ Chúa đặc biệt đưa các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo người tới một ngọn núi cao. Chúa chọn các ông lên núi thánh. Đây là một đặc ân Chúa ban không phải do tài sức riêng.

Như thế chúng ta cần nhận biết không phải những gì đang có, những gì đang sở hữu là do tài năng, trí thông minh, sức riêng ta đạt được mà chính là đặc ân Chúa trao cho ta coi sóc. Nói cách khác chúng ta không phải làm chủ những gì chúng ta có, tiền tài, vật chất, trí khôn, sự thông minh, sáng suốt, sắc đẹp, sự sống, thành công, thất bại trên đời và ngay cả con cái, hay người phối ngẫu. Tất cả đều là đặc ân Chúa kí thác, trao ban cho ta quản lí, coi sóc.

Vì là quản lí các ân huệ Chúa ban nên chúng ta cần sống khiêm nhường, mang tâm tình tạ ơn và có trách nhiệm chia sẻ những đặc ân đó với các người kém may mắn hơn và dùng chúng chung dựng xây một thế giới tốt đẹp hơn.

Hiểu như thế chúng ta luôn sống trong tâm tình tạ ơn, những đặc ân Chúa tin tưởng trao vào tay ta coi sóc, bảo vệ và làm cho chúng sinh sôi nảy nở thêm nhiều.

QUẢN LÝ

Người quản lí khôn ngoan luôn nhớ vai trò mình là người quản lí, không phải chủ nhân. Hiểu biết điều này sẽ tránh được rất nhiều đau khổ, âu sầu không cần thiết. Khi Chúa quyết định trao món quà đang có trong tay mình cho người khác coi sóc không nên than trách hoặc phê phán. Kitô hữu luôn nhớ và xác định đúng đắn vai trò quản lí của mình.

Tình cảm tự nhiên con người mất những gì đang có thì đau buồn, nhớ thương. Điều này rất tốt vì tình cảm đó diễn tả tâm tình nối kết, gắn bó, nhớ thương. Không thổ lộ được những tình cảm đó chính là bạc tình, bạc nghĩa, thờ ơ, lãnh đạm. Tuy nhiên cũng không thể mượn cớ buồn sầu, đau khổ để kết án, phê phán vì hành động đó không thuộc phạm vi của người quản lí. Của Chúa, Chúa muốn cho ai tùy í, sao lại ghen tị. Chính Đức Kitô nói điều này trong dụ ngôn thuê làm vườn nho (Mt 20,16).

TẠ ƠN

Tâm tình tạ ơn chân thành đúng đắn phải là Chúa trao ban món quà con mong ước, mơ thích, con xin tạ ơn và hết lòng giữ gìn, bảo vệ. Chúa lấy đi món quà con hết lòng quí mến con xin dâng hiến trong tâm tình tạ ơn vì đã hoàn tất trách nhiệm Chúa trao. Chúa trao ban món quà con không xin, không thích, con cũng xin vâng đón nhận, dù đón nhận trong run sợ, lo âu, ngại ngùng cũng xin nhận với tâm tình phó thác để suy gẫm, tìm học cho biết ý Chúa qua biến cố trong cuộc sống.

Mọi kèn cựa, chèn ép hay tìm cách lung lạc tìm cách chiếm đoạt, hay chối bỏ món quà Chúa trao, dù là điạ vị, danh vọng hay của cải vật chất đều sai. Làm như thế chính là đem đời vào đạo, không phải đem đạo vào đời.

Quà tặng không phản ảnh tình cảm trong tim. Quà tặng là cách diễn tả tình cảm một cách cụ thể con người dành cho nhau. Dùng giá trị quà tặng để đo lòng người dẫn đến sai lầm vì vật biếu tặng không dò được lòng người. Cách cho quan trọng hơn quà tặng và cho vì bác ái, yêu thương quan trọng hơn cách cho.

PHÓ THÁC

Người quản lí khôn ngoan là người luôn sống trong tinh thần phó thác, xác tín, tin tưởng mọi sự đều do Chúa ban nên vui lòng nhận, dù là điều ta ưa thích hay điều ta lo sợ tất cả đều là những món quà Chúa trao cho coi sóc. Có thể giúp ta tốt hơn, có thể Chúa dùng món quà để thánh hoá ta cũng có thể để ta làm vinh danh Chúa. Không nên chê bất cứ món quà nào Chúa trao, dù lớn dù nhỏ bởi vì người trung tín trong việc nhỏ sẽ được trao công việc quan trọng hơn. Việc quan trọng hơn, trách nhiệm nhiều hơn và đau khổ cũng lớn hơn. Xem dụ ngôn nén bạc (Mt 25).

ĐAU KHỔ

Tâm được vui thì lòng được sáng. Tâm vui vì được trong sạch hoá, được thanh tẩy khỏi bụi trần. Nhờ thanh tẩy nên lòng được sáng. Thanh tẩy gắn liền với khổ đau. Không phải đau khổ nào cũng xấu, có những đau khổ tốt lành, cần thiết trong cuộc sống. Đau khổ cần thiết này giúp thanh tẩy tâm hồn, làm cho con người trong sáng hơn, dịu hiền hơn, dễ mến và thương người nhiều hơn. Trên đường xuống núi Đức Kitô dặn các tông đồ hãy giữ im lặng 'đừng nói cho ai hay thị kiến cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy'. Còn gì đau khổ hơn khi trong lòng rộn rã niềm vui, tràn đầy hoan lạc mà không được chia sẻ, nói ra. Từ bỏ ý riêng để ý Chúa được thực hiện là đau khổ tốt. Từ bỏ những thói quen thực hành từ nhỏ, chấp nhận thay đổi theo đường lối Chúa là đau khổ tốt. Từ bỏ con người cũ sống tinh thần Phúc Âm là đau khổ tốt.

HẠNH PHÚC THẬT

Thông thường người ta thích nhận những món quà ưa thích. Món quà không ưa nếu được trao, coi đó là hình phạt, là sự dữ. Chúa gởi sự khó đến cho thì tôi nhăn nhó trong khi tôi gởi sự khó tới cho anh em tôi lại vui cười. Chúa để sự khó xảy đến cho bạn thì tôi khuyên anh Chúa thử thách anh. Chúa để sự khó xảy đến cho người tôi không ưa tôi nói Chúa phạt nó.

Hạnh phúc triền miên, bình an thực sự với lòng mong ước xảy đến sau khi đã trải qua đau khổ. Theo tinh thần bài Phúc âm hôm nay thì niềm hoan lạc thực sự đến 'cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại'.

 

17.Chúa Nhật 2 Mùa Chay

Trong cuộc sống, người ta đã kinh nghiệm được rằng: có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Chẳng hạn như tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Người ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: quà tặng, sự âu yếm, sự hy sinh quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Vì cái chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim. Bên cạnh đó, có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Hẳn thật, Đức Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm, được mấy người nhận ra đó là Con Thiên Chúa đâu. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra Thiên tính của Người, ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay thánh sử Matthêô cho chúng ta thấy, khi Chúa tỏ mình ra, ba Tông Đồ thân tín quá ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu. Thần tính vinh quang biểu lộ rọi sáng vào nhân tính được tôn vinh. "Diện mạo Đức Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng".

Thần tính Đức Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra con của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Người nghèo hèn này lại là Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang. Nhờ ánh sáng vinh quang trên núi Tabore của Đức Giêsu giúp ta nghiệm ra:

Ánh sáng Thần tính chiếu soi nơi nhân tính đem lại cho ta niềm hy vọng. Vì nhân tính của Đức Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng chiếu soi cả vào con người chúng ta, ánh sáng ấy chiếu vào cái thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, của chúng ta. Mặt khác, Ánh sáng ấy cho chúng ta hiểu rằng, Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống. Hơn nữa, Ánh sáng ấy nói với chúng ta rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc chúng ta trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Trong con người của mình, chúng ta càng vứt bỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, chúng ta càng tới gần Chúa. Bên cạnh đó, nhận thức ấy còn giúp chúng ta sẵn sàng kính trọng tha nhân vì tah nhân là những đền thờ cho Thiên Chúa ngự trị, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý. Như thế, sống Mùa Chay chính là hành trình nội tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa.

Mùa chay giúp chúng ta trở về nội tâm mình. Mùa chay giúp chúng ta có nhiều cơ hội làm hoà với Thiên Chúa và Tha nhân, nhưng chính trước đó chính mình giải hoà bản thân mình. Mùa Chay có nhiều cơ hội giúp ta thi hành điều Chúa muốn như ăn chay, bố thí và cầu nguyện. Chúng ta hãy xem kỹ lại việc ăn chay của mình, nếu ăn chay chính là đến với anh em bằng thái độ kính trọng và yêu thương thì đó là điều mà Chúa mong muốn. Ngoài ra, ta đến với tha nhân bằng cách hết sức có thể, có thể ta đến với những mảnh đời kém may mắn, vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Chúng ta hãy làm sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh. Như thế ta là chúng ta đang cộng tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Đức Kitô, đưa nhân loại vào hành trình vượt qua sự chết và dần đang đi vào phục sinh.

Lạy Đức Kitô, xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con có khả năng nhìn thấy Chúa trong tha nhân. Xin ban cho chúng con trái tim bén nhạy để chúng con biết yêu mến những thực tại vô hình. Amen.

 

18.Ơn gọi làm đẹp – Lm. Phạm Quốc Hưng, CSsR

"Ngài đã biến hình trước mặt họ, mặt Ngài sáng láng như mặt trời, áo Ngài nên trắng phau như ánh sáng".

Tự bản chất con người ai cũng muốn trở nên xinh đẹp; thích tìm kiếm và nhìn ngắm những cảnh đẹp; thích những vật hay những người thuộc về mình cũng đẹp; thích được người ta chiêm ngưỡng vì mình đẹp; và vì thế tìm mọi cách để làm đẹp cho mình và những vật hay những người thuộc về mình.

Người ta đã đầu tư biết bao tiền của, công sức, tài năng và thời giờ để phục vụ nhu cầu làm đẹp và khiếu thẩm mỹ của con người. Sự hiện diện của các ngành thẩm mỹ, du lịch, hội họa, điêu khắc, phim ảnh và kiến trúc đã nói lên lòng khát khao vẻ đẹp nơi con người.

Phải chăng lòng khát khao vẻ đẹp ấy nơi con người cùng với những cố gắng làm đẹp của họ chính là một ơn gọi căn bản gắn liền với bản chất con người?

Tin Mừng hôm nay thuật về việc Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt ba môn đệ thân tín nhất của Người, và vẻ đẹp của Người đã khiến họ đã ngẩn ngơ chiêm ngắm. Qua cuộc biến hình này, Chúa Giêsu không những tỏ cho chúng ta thấy vẻ đẹp tuyệt vời của Người nhưng còn khơi dậy nơi chúng ta hy vọng sẽ được trở nên xinh đẹp như chính Người.

Nói cách khác, qua biến cố biến hình nầy Chúa Giêsu đã khơi dậy "ơn gọi làm đẹp" trong tâm hồn mỗi người chúng ta.

Điều đáng tiếc là chúng ta bị ảnh hưởng của quan niệm thế gian nên thường dừng lại ở việc tìm kiếm và ngưỡng mộ cái đẹp tự nhiên, cái đẹp bị giới hạn trong phương diện vật chất thể lý chóng qua, mà không thiết tha tìm kiếm và chiêm ngưỡng cái đẹp siêu nhiên, cái đẹp của tâm hồn, cái đẹp của nhân đức, cái đẹp thần thiêng của ơn thánh, cái đẹp sẽ tồn tại mãi mãi. Chính cái đẹp thần thiêng sung mãn ấy là cái đẹp mà Chúa Giêsu muốn mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng và kiếm tìm qua cuộc biến hình trên núi của Người.

Vì được dựng nên giống hình ảnh Chúa, con nguời được chia sẻ cái đẹp của chính Chúa, Cái Đẹp Tuyệt Đối. Tội lỗi-tội tổ tông và tội riêng ta-đã làm lệch lạc và lu mờ hình ảnh Thiên Chúa nơi mỗi người chúng ta. Lòng khát khao những nét đẹp trong thế giới tự nhiên nơi chúng ta phải là dấu chỉ của lòng khát khao tìm kiếm và chiêm ngưỡng Thiên Chúa và được chia sẻ Cái Đẹp Tuyệt Đối của chính Người.

Chúa Giêsu xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta, nghĩa là để giúp chúng ta khôi phục lại hình ảnh tuyệt mỹ của Thiên Chúa nơi linh hồn chúng ta. Khi biến hình trên núi, Chúa Giêsu đã cho các môn đệ nhận biết Người chính là "phản ảnh của vinh quang, là ẩn tượng" của Thiên Chúa (Heb 1:3).

Cũng theo thánh Phaolô, mỗi người chúng ta cũng được Thiên Chúa kêu gọi để "nên đồng hình đồng dạng với hình ảnh Con của Người, để Ngài nên trưởng tử giữa một đoàn em đông đúc" (Rom 8:29); nghĩa là ta được mời gọi để trở nên xinh đẹp tuyệt vời như chính Chúa Giêsu.

Cuộc biến hình của Chúa Giêsu là sự chuẩn bị của Người dành cho các môn đệ. Nhờ đó, họ có thể chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người trên thập tự mà không vấp phạm. Điều này cũng giống như việc các bác sĩ thẩm mỹ chỉnh hình cho các bệnh nhân xem hình vẽ dung mạo xinh đẹp mà họ sẽ có sau khi chữa trị, để họ dễ chấp nhận những tốn kém hay đớn đau phiền toái của quá trình điều trị.

Trong Chúa Giêsu và nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Người, tất cả nhân loại chúng ta đã tìm được phương thức lột xác và chỉnh hình để xóa bỏ dung mạo xấu xa ghê tởm vì tội loi và khôi phục lại vẻ đẹp siêu việt tuyệt vời của hình ảnh Thiên Chúa nơi linh hồn chúng ta.

Đó là Tin mừng mà Giáo hội muốn công bố cho mọi người qua mọi thời đại.

Bài trích sách Sáng Thế trong phụng vụ hôm nay nói đến việc Abraham được Chúa kêu gọi để từ bỏ quê hương để đi đến miền đất mới Chúa hứa ban với bao phúc lộc, và ông đã ra đi. Qua việc đón nhận niềm tin Công giáo và bí tích Rửa tội, chúng ta đã chấp nhận đi ra khỏi giới hạn của sự khao khát và kiếm tìm những cái đẹp thuần túy vật thể và tự nhiên, để bắt đầu theo chân Chúa Giêsu kiếm tìm, chiêm ngưỡng và thông dự vào vẻ đẹp siêu nhiên thần thiêng của chính Thiên Chúa.

Thánh Phaolô trong thư gửi Timôtê trong bài đọc 2 của Phụng vụ hôm nay cũng đã kêu gọi Timôtê "hãy chung phần cam khổ vì Tin mừng dựa vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng cứu thoát ta, và đã ra thánh triệu kêu gọi ta, không chiếu theo các việc ta làm, nhưng là chiếu theo chính dự định và ân sủng Người đã ban cho ta trong Đức Kitô Giêsu, từ trước đời đời hằng có, và nay đã cho hiển hiện nhờ cuộc Hiển linh của Cứu Chúa chúng ta, Đức Kitô Giêsu, Đấng đã hủy diệt sự chết và chiếu sáng ra sự sống, và sự bất hoại, nhờ Tin Mừng" (1 Tim 1: 8b-10).

Giáo Hội muốn dùng chính những lời này trong Mùa Chay để kêu gọi chúng ta chấp nhận và nỗ lực thực thi những đòi hỏi của Tin mừng để được lột xác biến hình hầu có được vẻ đẹp siêu việt vĩnh hằng của chính Chúa Giêsu.

Trong xã hội hôm nay rất nhiều người chấp nhận tốn kém, kỷ luật và phiền toái như kiêng ăn, uống thuốc, tập thể dục thể thao hay giải phẫu để có được vẻ đẹp mau qua chóng tàn của thân xác. Chẳng lẽ người tín hữu chúng ta lại không dám quyết tâm sống trọn vẹn ơn gọi Kitô hữu của mình, "ơn gọi làm đẹp" tâm linh sao?

Lạy Mẹ Maria là Mẹ Tuyệt Mỹ, xin Mẹ giúp chúng con luôn khao khát say mê chiêm ngưỡng vẻ đẹp thần linh của Chúa Giêsu Con Mẹ. Xin Mẹ dạy chúng con biết chấp nhận và thánh hoá mọi đau khổ trong cuộc sống để Chúa biến đổi chúng con nên "đồng hình đồng dạng" như hình ảnh tuyệt vời của chính Người. Amen.

 

19.Đây là con yêu dấu của Ta

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Các tông đồ không ngừng ngạc nhiên về Thầy của họ. Hằng ngày họ vẫn sống với Thầy, nghe Thầy giảng dạy, thân tình và bình thường, nhưng hôm nay, họ khám phá ra nơi Thầy của họ một chiều kích bất ngờ và thật thú vị.

Ngài dẫn ba người Ngài chọn lên núi với Thầy. Ba người này sẽ có mặt trong vườn cây dầu, và sẽ chứng kiến một chiều kích khác nữa của Ngài, là con người thống khổ tột độ, van xin họ thức với Thầy một giờ.

Thầy trò lên núi cao, vắng lặng, xa tất cả mọi người, xa những ồn ào của những ngày bị đám đông bao vây. Và trong nơi thanh vắng đó, họ khám phá ra Thầy trong khuôn mặt tuyệt vời: dung nhan Người chói lọi như mặt trời… Họ được đưa vào trong một thế giới khác, thế giới của riêng Thầy, của vinh quang khôn tả của Người Con Một, đầy ân sủng và chân lý.

Chúng ta tin Chúa, nhưng chưa bao giờ chúng ta khám phá được khuôn mặt thật của Ngài. Chúng ta chỉ nhìn thấy những dấu hiệu, và chỉ biết Ngài sơ sài, nông cạn. Làm sao khám phá ra khuôn mặt thật của Thầy?

Chúng ta hãy lên núi cao, nơi vắng lặng, nơi mà chỉ có riêng một mình Thầy với ta. Núi cao hôm nay của chúng ta không phải là ngọn núi nào, mà trong một nơi không còn tiếng ồn ào náo nhiệt của tivi, điện thoại, con người, công việc… Một góc nhà thờ, một bờ sông, một căn phòng im lặng… Chúng ta sẽ thấy được dung nhan Ngài. Ngài sẽ tỏ cho chúng ta thấy khuôn mặt đáng yêu của Ngài. Ngài sẽ nói với chúng ta như đã nói với tiên tri Hôsê: “Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình… Ta sẽ lập với ngươi một hôn ước vĩnh cửu… Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh chính trực, trong ân tình và xót thương; Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong tín thành, và ngươi sẽ được biết Đức Chúa”. (Biết ở đây có nghĩa là yêu).

Có những lời nào ngọt ngào hơn nữa không? Có những lời nào đầy ắp tình yêu như thế không?

Đó là khuôn mặt thật của Chúa chúng ta, Thiên Chúa Tình Yêu. Chúng ta cần khám phá ra khuôn mặt đáng yêu đó, chúng ta mới nếm được sự êm dịu ngọt ngào của Thiên Chúa. Đức tin của chúng ta sẽ ấm lên trong ta. Chúng ta sẽ thấy muốn ở lại với Ngài mãi, như Phêrô: “Thưa Thầy, ở đây thật tuyệt vời! Xin Thầy cho chúng con dựng ba lều…” Chúng ta muốn nếm được sự êm dịu đó không? Hãy can đảm đi vào vắng lặng, chỉ chú tâm đến một mình Chúa thôi.

Phêrô, khi khám phá khuôn mặt vinh quang của Chúa, ông đã muốn ở lại với Thầy mãi, không muốn trở về với cuộc sống hằng ngày nữa. Ông muốn kéo dài, vui hưởng hạnh phúc với Thầy mãi. Ông đã sống những giây phút tuyệt dịu với Thầy, ông không còn muốn điều gì khác. Nhưng đây chỉ là một dấu chỉ, một nếm trước mà thôi. Còn nhiều việc phải làm, còn nhiều giai đoạn phải trải qua. Thị kiến đã hết, bây giờ phải xuống núi, phải bước vào giai đoạn quyết liệt: “Con Người sẽ bị nộp, sẽ chết… và ngày thứ ba, sống lại”.

Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn đang rất gần chúng ta, nhưng chúng ta quá xa Ngài. Hãy đến, hãy ở lại với Ngài như Ngài vẫn nài nỉ chúng ta: “Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy”. Thiên Chúa phải nài nỉ chúng ta như thế sao? Có cái gì mà Ngài không làm để chứng tỏ tình thương của Ngài, nhưng chúng ta có chú ý đến Ngài đâu! Chúng ta chạy theo đủ các thứ thần tượng trần thế: minh tinh màn bạc, siêu sao bóng đá, ca sĩ ăn khách… Ngài là ai đối với chúng ta?

Các thánh đã say mê Chúa Giêsu, quỳ lâu giờ dưới chân Chúa, thâu đêm như Cha Charles de Foucauld và rất nhiều thánh khác. Sao chúng ta không thử ở lại với Chúa một vài phút sau khi ăn lấy Chúa? Sao chúng ta không mang Chúa vào cuộc sống, làm việc với Chúa, lao động với Chúa, phục vụ mọi người với Chúa. Biết bao nhiêu cách để gần gũi với Ngài.

Có lẽ chúng ta nói rằng, các tông đồ được diễm phúc hơn chúng ta, được thấy Ngài, còn chúng ta, chúng ta chỉ thấy dấu hiệu. Phải, nếu chúng ta chỉ thấy dấu hiệu, thì cũng đủ để chúng ta thấy Ngài. Nhưng chúng ta có ở lại với Ngài đâu! Chúng ta bận bịu đến nỗi không còn một giây phút nào để ở với Ngài. Chúng ta đủ lý do để từ chối Ngài. Chỉ vì chúng ta không yêu Ngài. Những người yêu nhau không bao giờ cảm thấy đủ thời giờ ở bên nhau. Đối với họ, thời giờ sao quá nhanh. Còn chúng ta, chúng ta cứ thấy thời gian quá dài khi đến với Chúa. Tình yêu của chúng ta là như thế sao? Những người yêu nhau , dù bận bịu thế nào, cũng tìm cách liên lạc với nhau. Vắng là nhớ là thương. Họ tìm mọi cách để gặp nhau, để chuyện trò, không cách này thì cách khác, phải nói với nhau cái gì đó… nhắn tin, điện thoại, thư từ... Một tiếng nói yêu thương thôi cũng đủ. Chúa Giêsu, bất cứ lúc nào cũng có thể gặp được, không cần điện thoại hay một phương tiện nào, sao chúng ta không tìm cách liên lạc với Ngài? Sao chúng ta không nói với Ngài những tiếng nói yêu thương? Ngài xa lạ lắm sao?

Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể vẫn là Chúa Giêsu trên đỉnh núi, vẫn là Chúa Giêsu sáng chói như mặt trời, vẫn là Chúa Giêsu được Chúa Cha công nhận: “Này là Con yêu dấu của Ta, các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Chúng ta tưởng hôm nay, Ngài chỉ là tấm bánh nhỏ thôi sao? Ngài vẫn là Đấng tràn đầy ân sủng, tràn đầy chân lý. Ngài vẫn là Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi trở nên một tấm bánh nhỏ vì chúng ta, để nuôi dưỡng những con người li ti nhỏ hèn là chúng ta, thế mà chúng ta đã đối xử tệ với Ngài, không chú ý đến Ngài, và vô tình lạnh nhạt một cách có thể nói là tàn nhẫn. Chúng ta có đạo không? Chúng ta có tin không? Chúng ta hà tiện một tiếng nói, một ánh nhìn sao?

Trên đỉnh núi đó, Môsê và Êlia xuất hiện, đàm đạo với Ngài. Hai tổ phụ quan trọng đó đại diện cho Lề Luật và tiên tri đã đến, điều đó chứng tỏ Chúa Giêsu gồm tóm nơi Ngài cả hai nền tảng của Cựu Ước. Ngài kiện toàn Lề Luật và thực hiện những gì các tiên tri đã báo trước. Ngài là điểm quy tụ của cả hai dòng lịch sử, Ngài là trung tâm của mọi hồng ân, của ơn cứu rỗi. Vì thế Chúa Cha đã bảo chúng ta: “Hãy lắng nghe lời Ngài”.

Chúng ta có nghe lời Người Con Yêu Dấu của Chúa không? Nghe như thế nào? Nghe với tất cả tình yêu hay lơ đảng, chán buồn?

Lời Chúa là ánh sáng. Hãy để cho ánh sáng thần linh đó rọi chiếu vào trong u tối của chúng ta, cuộc sống chúng ta sẽ trở nên rực sáng niềm vui và can đảm. Ngài đã tỏ vinh quang phục sinh trước khi Ngài bước vào cuộc tử nạn tăm tối, nhờ đó, khi nhục nhã phủ đầy, các tông đồ mới nhận ra khuôn mặt đau thương của Ngài, Đấng xóa tội trần gian, người đầy tớ của Thiên Chúa, chết cho muôn người, mà tiên tri Isaia đã báo trước. Vì thế, khi xuống núi, Ngài căn dặn các môn đệ, đừng nói cho ai biết về thị kiến kẻo gây hiểu lầm. vì giờ của Ngài chưa đến.

Hôm nay, tham dự vào hiến tế này, chúng ta hãy nhìn vào Chúa Giêsu với cái nhìn của các tông đồ trên đỉnh núi, một cái nhìn say mê, và hãy ước mong sống với Ngài mãi mãi, dù cuộc sống chúng ta không dễ dàng, dù mọi sự đều trở nên thập giá. Hãy như Phêrô, xin cất ba lều để chúng ta không tách rời Ngài ra khỏi cuộc sống trần gian của chúng ta. Liên kết bền chặt với Ngài vì chính Ngài đã liên kết chúng ta trước.

 

20.Biến đổi

Cuộc sống của con người và vũ trụ vạn vật là một sự biến đổi liên lỉ. Có những biến đổi tích cực nhưng cũng có những biến đổi tiêu cực. Những biến đổi tích cực là khi con người hay sự vật chuyển từ một tình trạng xấu sang một tình trạng tốt hơn do nỗ lực của chính bản thân con người hay do trợ lực từ bên ngoài (Ơn Chúa, tha nhân, vũ trụ vạn vật, những biến cố...) Điển hình cho sự biến đổi này có thể kể đến hình ảnh của một Giakêu, của Phaolô, của các Tông đồ sau ngày lễ Ngũ tuần... Nhưng cũng có những biến đổi mang tính tiêu cực khi con người chọn lựa cho mình một thái độ sống ích kỷ, tham lam và kiêu căng. Khi đó, họ đang chuyển từ một tình trạng tốt sang một tình trạng xấu. Đó là hình ảnh của một vua Saul - vị vua đầu tiên của Israel, của một Giuđa Iscariot...Những cuộc biến đổi thật cần thiết biết bao trong cuộc sống dương thế của con người, nhưng phải là những cuộc biến đổi tích cực. Khi con người không còn biến đổi nữa thì có thể nói là họ đã chết rồi, hay có sống cũng chỉ là một sự hiện hữu vô hồn và không có ích gì cho chính mình cũng như cho người khác.

Bài đọc một hôm nay tường thuật cho chúng ta về việc Ápraham nghe theo tiếng Chúa gọi để ra đi đến một miền đất mà Ông không hề biết trước đó. Ông đang ở trong một quá trình biến đổi, nói đúng hơn là ông đang được biến đổi. Bởi lẽ tác nhân biến đổi cuộc đời của ông chính là Thiên Chúa, nên cuộc đời của ôn g và tương lai của ông thật huy hoàng và vững chắc.

Tin mừng hôm nay cũng tường thuật cho chúng ta nghe về việc Chúa Giêsu biến đổi dung mạo của Ngài trên núi trước mặt ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Cuộc biến đổi mà Ngài đang thực hiện mang một ý nghĩa tích cực, tiên báo vinh quang phục sinh huy hoàng sau khi Ngài chu toàn thánh ý của Chúa Cha trong chương trình cứu chuộc con người sự biến đổi tuyệt vời này làm cho các môn đệ ngây ngất trước vẻ đẹp của một Thiên Chúa vốn là Chân, Thiện, Mỹ.

Cuộc biến đổi tích cực nào cũng đòi buộc con người phải hy sinh, phải công tác vào phần của mình một cách chủ động vào trong đó. Như hạt lúa muốn trở thành cây lúa thì phải chấp nhận một sự biến đổi âm thầm trong đau đớn vì sự mục nát và thối đi của mình. Vinh quang phục sinh và phần thưởng trọng đại trên thiên quốc cũng dành cho những ai biết hy sinh quên mình, biến chấp nhận được biến đổi và thanh lọc bởi Lời của Chúa và giáo huấn của Hội thánh.

Biết trước sự yếu đuối và nhát đảm của các môn đệ, Đức Giêsu đã cho các ông thấy và chiêm ngấm trước vinh quang của Ngài, vinh quang mà Ngài sẽ lấy lại sau khi đi vào cuộc tử nạn nhằm cứu chuộc con người khỏi vòng nô lệ của tội lỗi. Vinh quang đó cũng sẽ dành cho các môn đệ và cho tất cả chúng ta nếu chúng ta tích cực và chủ động góp phần vào chương trình cứu chuộc mà Thiên Chúa đã và đang thực hiện vì con người và cho con người.

Chúa Giêsu biến đổi dung nhan của Ngài trước nhằm biểu lộ vinh quang vốn có của Ngài trước mặt các môn đệ và cũng là nhằm biến đổi các môn đệ để các ông trở nên can đảm hơn tin tưởng hơn và biết tín thác hơn vào Thiên Chúa.

Chúng ta đang sống trong những ngày Chay thánh. Giáo hội tha thiết mời gọi chúng ta hãy làm một cuộc biến đổi tích cực cho cuộc đời của mình. Nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng xấu hay một tình trạng tội lỗi, chúng ta hãy can đảm và mạnh dạn biến đổi và cầu xin ơn được biến đổi để cuộc đời của chúng ta được nhẹ nhàng thư thái và đảm bảo cho tương lai của chúng ta được huy hoàng như tổ phụ Abraham của chúng ta. Hay nếu chúng ta đang ở trong một tình trạng không có gì tệ hại cho lắm, thì chúng ta cũng cần làm một cuộc biến đổi tích cực để có một tình trạng tốt hơn, và tiếp nhận một sức sống tốt hơn. Hãy làm cho cuộc đời của chúng ta trở thành một dòng sông không ngừng chảy về Biển cả và tiếp nhận nguồn nước sạch tinh từ Biển cả là chính Thiên Chúa của chúng ta.

 

21.Nước Thiên Chúa

Trong sách giáo lý Tân Định, tôi vẫn còn nhớ như in câu hỏi: Ta sống ở đời này để làm gì? Thưa ta sống ở đời này để nhận biết, tôn thờ Chúa là Đấng Tạo Hoá đã dựng nên ta, và để sau này ta được hưởng hạnh phúc với Ngài trên thiên đàng đời đời. Đúng thế! Mục đích đời sống của người kitô hữu là để được hưởng hạnh phúc đời đời trên thiên đàng với Thiên Chúa.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, thuật lại cuộc biến hình uy nghi của Chúa Giêsu trên núi trước mặt ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu đã tỏ cho ba môn đệ thân tín thấy thiên tính của Ngài: Một Vị Ngôi Hai Thiên Chúa vinh hiển sáng ngời "Dung nhan Người chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng" và ba ông đã cảm nếm được hạnh phúc trong chốc lát. Phêrô đã thốt lên: "Chúng con ở đây thật là hay!" Cảnh Chúa Giêsu biến hình có thể hiểu được đó là hình ảnh của Nước Thiên Chúa được thể hiện ra trong chốc lát cho ba môn đệ thân tín để các ông vững tin hơn; đồng thời cũng để cho nhân loại và cho chúng ta có một vài khái niệm về Nước Thiên Chúa, mà chúng ta thường gọi là Thiên Đàng. Vậy qua đây, chúng ta cùng nhau nhận ra một vài nét đặc trưng của Nước Thiên Chúa:

1. Nét đặc trưng thứ nhất: đó là Nước Thiên Chúa vượt ra ngoài không gian - thời gian mà con người đang sống. Không có sự phân biệt tách rời quá khứ, hiện tại và tương lai. Bởi vì, qua bài tường thuật, chúng ta thấy Êlia và Môsê là những người thuộc thế hệ xa xôi trong quá khứ đã cùng hiện diện với Phêrô, Giacôbê và Gioan là những người sống trong thế hệ hiện tại lúc bấy giờ. Và hình ảnh Chúa Giêsu sáng láng rực rỡ, biểu hiện cho cảnh tượng hiển vinh trong tương lai. Ở trần gian, con người thường đau khổ vì chịu sự chi phối của thời gian và không gian, phải ly cách với quá khứ, ly cách với ông bà tổ tiên, với nơi này chốn nọ. Còn ở trong Nước Thiên Chúa, không có sự ly cách đó nữa; cũng không còn phải sống trong không gian đầy dẫy những tai ương, bệnh tật và âu lo.

2. Nét đặc trưng thứ hai: đó là con người trong Nước Thiên Chúa rất là xinh đẹp. Mátthêu tả rằng: "Mặt Ngài sáng chói như mặt trời, áo Ngài trắng tinh như ánh sáng", thánh Máccô thì nói: "Áo Ngài nên rạng ngời, trắng tinh đến nỗi thợ giặt trần gian không tài nào giặt được trắng như thế". Còn dáng vẻ của Êlia và Môsê thì thánh Luca nói: "Êlia và Môsê hiện ra sáng láng hiển vinh". Rõ ràng con người trần gian không thể nào đẹp sánh bằng con người trong Nước Thiên Chúa.

3. Nét đặc trưng thứ ba: đó là được hạnh phúc tròn đầy. Mặc dù, hiện tượng Chúa biến hình chỉ xãy ra trong chốc lát nhưng đã khiến Phêrô thích thú ngây ngất và đã thốt lên: "Lạy Ngài, chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho Môsê và một cho Êlia".

Nước Thiên Chúa được hé mở cách thoáng qua cho ba môn đệ trong cuộc biến hình của Chúa Giêsu trên núi Tabor, hẳn cũng xứng đáng cho con người mong mỏi, ước ao và kiếm tìm, và thật là xứng đáng để chúng ta hy sinh vứt bỏ những bám víu ở trần gian như tiền tài, danh vọng, địa vị để đổi lấy Nước Thiên Chúa, như lời dạy của Chúa Giêsu "Trước hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33).

Trong bài đọc một, ông Abraham đã vứt bỏ đằng sau lưng những gì là thân thiết như quê hương xứ sở, bà con láng giềng, bỏ lại ruộng đất, nhà cửa để đi theo tiếng mời gọi của Thiên Chúa. Ông đã tin vào lời Thiên Chúa hứa và ông đã lên đường đến xứ sở mà Thiên Chúa sẽ chỉ cho, để rồi ông chỉ còn tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê mà thôi. Và ông đã trở thành tổ phụ của những ai tin vào Thiên Chúa, ông đã chiếm được một phần gia nghiệp trong Nước Thiên Chúa.

Vậy chúng ta cũng hãy mạnh dạn tiến bước như tổ phụ Abraham, và đáp lại lời mời gọi của Chúa trong mùa chay thánh này, là hãy sám hối, thay đổi đời sống quay trở về với Thiên Chúa, hãy chọn Chúa là gia nghiệp, và Chúa là sự chọn lựa số một trong đời sống của chúng. Khi chọn Chúa là số một, đôi lúc sẽ làm chúng ta phải chùn bước, thậm chí ngã lòng nữa, lúc đó, chúng ta hãy nhớ rằng: 1/ Đức Kitô sáng láng của núi Tabor cũng chính là Đức Kitô thấm đẫm mồ hôi máu trong vườn cây dầu. 2/ Đức Kitô rực rỡ của núi Tabor cũng là Đức Kitô vác thập giá ngã lên ngã xuống nhiều lần trên đường đến núi sọ. 3/ Đức Kitô vinh quang của núi Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá ở đỉnh núi sọ.

Với vinh quang của Chúa biến hình, ước gì trong mùa chay thánh này, chúng ta có một sự chọn lựa dứt khoát: Chúa là gia nghiệp của chúng ta. Và như thế, chắc chắn phần thưởng Chúa dành cho chúng ta ở trên Thiên Đàng là điều hiển nhiên. Amen.

 

home Mục lục Lưu trữ