Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 54

Tổng truy cập: 1363840

ĐỜI NÀY, ĐỜI SAU

ĐỜI NÀY, ĐỜI SAU- Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

Cuộc tấn công tiếp theo là do một vài người thuộc nhóm Sađôc (cc. 27-33). Đó là lần duy nhất các thành viên của “đảng” nay xuất hiện trong Luca; trong sách Công vụ họ sẽ can thiệp nhiều lần; cũng như ở đây việc họ phủ nhận sự sống lại được nhấn mạnh (trên hết là Cv 23,6-9; x. 4,1); và Luca nói về họ như về một nhóm gần gũi với vị đại tư tế (Cv 5,17). Rất bảo thủ, họ hiểu sát chữ luật Môsê mà họ quý trọng ngũ thư hơn các sách ngôn sứ và các sách khác. Nghĩ rằng niềm tin vào việc kẻ chết sống lại không có nền tảng trong Luật nên họ từ chối tin –niềm tin này xuất hiện vào khoảng những năm 165 trước Công nguyên; trong bối cảnh nổi dậy của nhà Macabê, khi những người Israel trung thành với Chúa chịu chết vì đạo.

Những người thuộc phải Sađôc biết rằng Chúa Giêsu, cùng với các người Pharisêu và đại đa số quần chúng, tin vào sự sống lại. Để làm sáng tỏ tính cách vô lý của niềm tin này, một vài kẻ trong họ đặt ra một vấn nạn thuộc kinh viện nhằm chứng tỏ những sai lạc mà niềm tin này dẫn tới. Luật nối dõi tông đường –bị khủng hoảng vào thế kỷ thứ nhất- cho phép người ta cưới chị dâu khi người này bị goá và không con, để người anh quá cố có kẻ nối dòng; đứa con đầu lòng chị ta sinh ra sẽ lấy tên người anh quá cố, và sẽ được luật pháp nhìn nhận là con của người anh (x. Đnl 25,5-10). Đây là trường hợp: một người đàn bà son sẻ lần lượt trở thành vợ của bảy anh em lần lượt chế mà không có con. Rồi chị này cũng chết.”Khi chị này sống lại –theo những người Pharisêu và cả Thầy cũng tin như vậy- chị sẽ có con, nhưng bởi người nào trong họ mà chị ta sẽ mang thai?” (c. 33).

Vấn nạn ngây thờ một cách giả tạo, cho thấy hình ảnh về sự sống lại mà những người Sađôc chế giễu: một quan niệm duy vật thường được đặt việc kẻ chết sống lại trước việc Triều Đại Mêsia đến và trước cuộc phán xét cuối cùng. Khi đó sự trở về với cuộc sống trần thế sẽ cho phép những người chết trong các thế hệ trước đây tham dự vào triều đại này, và tất cả sẽ bị xét xử. Trong chiều hướng này, một số người Pharisêu khẳng định rằng nhân loại khi sống lại sẽ sinh con đẻ cái (đó là ý tưởng tiềm ẩn trong câu hỏi của các người Sađôc ở câu 33). Kinh sư Gamaliel, vào khoảng năm 90, sẽ khẳng định:”Sẽ đến thời mà người nữ sẽ sinh con mỗi ngày một lần”, khi ông nêu bằng chứng là các con gà mái đẻ trứng mỗi ngày (Talmud, Shabat 20b). Một kinh sư khác, vào khoảng năm 150, sẽ đi tới chỗ cho rằng mỗi người Israel sẽ có nhiều con bằng số những người Israel khi ra khỏi Ai Cập, nghĩa là 600.000… Tóm lại, việc sống lại được quan niệm như sự hoàn sinh của thân xác, mà thân xác này sẽ có được khả năng sinh sản cách kỳ diệu và sẽ trở lại với các sinh hoạt trần thế. Như các người Sađôc và như Chúa Giêsu cta sẽ mỉm cười loại bỏ một cách trình bày như thế. Tuy nhiên, một số Kitô hữu ít hiểu biết vẫn nghĩ tưởng như thế; nhất là giống như các ông Sađôc thuở xưa, ngày nay nhiều người vô tín ngưỡng từ chối tin vào sự sống lại, bởi vì họ nghĩ đó là niềm tin Kitô.

Câu trả lời của Chúa Giêsu (cc. 34-38) gồm hai đợt. Phản bác lại các trình bày bình dân và theo các kinh sư, quá thô kệch, về tình trạng của các kẻ sống lại, Ngài bắt đầu giới thiệu quan niệm của riêng Ngài về sự sống lại (cc. 34-36). Theo Ngài, có một khác biệt tận căn giữa cuộc sống trần gian và cuộc sống mới mà người ta được hưởng khi sống lại. Ở đời này con người sinh ra rồi chết; tính dục bảo đảm việc duy trì nòi giống. Còn những kẻ, vào ngày phán xét, mà Chúa xét là đáng hưởng phúc đời sau, và khi họ sống lại, họ sẽ không chết nữa; như vậy sự bất tử sẽ loại bỏ sự sinh sản.

Kiểu nói”ngang hàng với các thiên thần” rất có ý nghĩa. Người ta gặp thấy kiểu nói này trong nhiều bản văn khải huyền của Do Thái để khẳng định rằng việc kẻ chết sống lại không phải là trở lại đời sống trần thế, nhưng là một sự tái tạo dựng không thể tưởng tượng được, một biến đổi tận căn của hữu thể nhân linh, khi đó sẽ có được mọi hình dáng theo ý mình, đi từ vẻ đẹp đến sự rực rỡ, từ ánh sáng đến chiếu rang vinh quang chói ngời (Baruch syriaque 51). Giáo huấn rất phong phú này về tình trạng của những kẻ sống lại kết thúc bằng khẳng định”họ là con cái Thiên Chúa, vì con cái sự sống lại”: điều này làm cho họ sinh ra trong tình trạng thiên quốc, là tình trạng của các thiên thần (x. St 6,2), và đặt họ trước nhan Thiên Chúa hằng sống. Trong quan niệm mà Chúa Giêsu trình bày ở đây –sẽ quan niệm của Phaolô ở 1Cr 15,35-44, sự sống lại đến liền theo cuộc thẩm phán, nó liên hệ tới các người công chính và là sự sống lại phúc lộc. Không hề thấy nói gì tới số phận của các kẻ”vô đạo”; tất cả xảy ra dường như là Chúa xét họ không xứng đáng để được kéo ra khỏi cái hư vô của sự chết, để được tái tạo.

Trong đợt thứ hai, Chúa Giêsu xác nhận chính sự kêịn các kẻ chết sống lại (cc. 37-38), khi đặt cơ sở, như các ông Pharisêu trên một bản văn của Luật:”Về việc kẻ chết sống lại thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy…”, dường như y hệt, trong giới kinh sư: lời hứa phải được thực hiện cho chính những kẻ đã được hứa, -điều đó đòi hỏi là họ phải sống lại. Quan hệ mà Thiên Chúa thiết lập với các thành viên của dân Ngài không thể bị gián đoạn mãi mãi. Chúa Giêsu trích dẫn Xh 3,6, trong đó Đức Chúa được gọi là”Thiên Chúa của tổ phụ Abraham, Thiên Chúa của tổ phụ Isaac và Thiên Chúa của tổ phụ Giacop” –trong một thời điểm mà Kinh Thánh chưa được chia ra thành chương (điều đó sẽ được làm vào thế kỷ XIII), câu này như thuộc về đoạn nói về Bụi gai. Công thức đó quy chiếu về một sự kiện quyết định của Giao Ước mà qua đó Thiên Chúa đã cam kết làm việc không ngừng để ban ơn cứu độ cho Israel. Ý tưởng nền tảng là ý tưởng về lòng trung thành của Thiên Chúa đối với các kẻ được Ngài tuyển chọn; và ngay cả thần chết, địch thủ của Thiên Chúa, cũng không thể làm gì được để chống lại lòng trung thành này. Như vậy niềm tin vào việc kẻ chết sống lại được khơi dậy bởi lòng trung thành của Thiên Chúa đối với Giao Ước. Câu cuối cùng”Tất cả các tổ phụ và các người công chính đều sống cho Ngài” ám chỉ về niềm tin sống động của các vị tử đạo Do Thái:”Họ xác tín rằng khi chết vì Chúa, là người ta sống cho Chúa, như Abraham, Isaac, Giacop và các tổ phụ sống” (Mcb 16,25).

CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN – NĂM C

KẺ CHẾT SỐNG LẠI (*)-  Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm C thắp sáng một trong những vấn đề căn bản nhất của đức tin chúng ta: “Kẻ chết sống lại”.

2Mcb 7: 1-2, 9-14

Sách Ma-ca-bê quyển hai thuật lại cuộc tử đạo anh dũng của bà mẹ và bảy người con. Họ chấp nhận hy sinh sự sống đời này, vì họ tin chắc rằng Chúa sẽ cho họ được sống lại muôn đời.

2Tx 2: 16-3: 5

Thánh Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca để họ gặp thấy ở nơi Chúa Giê-su niềm an ủi bất diệt và niềm tin vững mạnh trong những thử thách.

Lc 20: 27-38

Tin Mừng của thánh Lu-ca thuật lại cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với nhóm Xa-đốc về vấn đề kẻ chết sống lại.

BÀI ĐỌC I (2Mcb 7: 1-2, 9-14)

Sách Ma-ca-bê quyển hai được viết bằng Hy-ngữ quãng năm 124 tCn. Sách này không kể những biến cố lịch sử tiếp theo sau sách Ma-ca-bê quyển một, nhưng đúng hơn trong lời tựa của mình, tác giả cho biết ông chỉ “thu gom lại” thành một cuốn duy nhất từ một tập sách gồm năm cuốn sách do công trình biên soạn của ông Gia-xon người Ky-rê-nê nào đó (x. 2: 23). Nhân vật này chúng ta không biết chút gì về ông ngoài việc ông là một kiều Do thái mộ đạo chịu ảnh hưởng Hy-lạp và có thể ông viết ở A-lê-xan-ri-a Ai-cập.

Sách Ma-ca-bê quyển hai đưa ra những cái nhìn rất sâu sắc về lòng tin của dân Ít-ra-en vào thời kỳ vua Hy-lạp là An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê chủ trương hy lạp hóa toàn thể đế quốc của ông bằng cách tiêu diệt niềm tin của dân Do thái. Đoạn trích hôm nay thuật lại một phần cuộc tử đạo anh dũng của người mẹ và bảy người con. Cuộc bách hại khủng khiếp này nêu bật niềm tin vào cuộc phục sinh thân xác của người công chính và cuộc tạo dựng từ hư không.

*1.Cuộc phục sinh thân xác của người công chính:

Sách Đa-ni-en đã khai mở rồi: “Trong số những kẻ an nghỉ trong bụi đất, nhiều người sẽ chỗi dậy: người thì để hưởng phúc trường sinh, kẻ thì để chịu ô nhục và bị ghê tởm muôn đời” (Đn 12: 2). Sách Ma-ca-bê quyển hai tái khẳng định cách mạnh mẽ cuộc sống sau khi chết liên quan đến những người bị bách hại và “phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong cuộc đời đạo hạnh” (2Mcb 12: 45). Câu chuyện về cuộc tử đạo của bảy anh em và bà mẹ của họ tỏa ánh hào quang rực rỡ của niềm hy vọng này (2Mcb 7: 9, 11, 14, 23, 29, 36). Đối với những kẻ bách hại và quân vô đạo, họ “sẽ không thoát khỏi án phạt của Thiên Chúa toàn năng, là Đấng thấu suốt mọi sự” (2Mcb 7: 35).

*2.Cuộc tạo dựng từ hư không (ex nihilo):

Lời của bà mẹ khuyên đứa con út của mình trong cảnh bị tra tấn vì đạo: “Mẹ xin con hãy nhìn xem trời đất và muôn loài trong đó, mà nhận biết rằng Thiên Chúa đã làm nên tất cả từ hư vô, và loài người cũng được tạo thành như vậy” (2Mcb 7: 28). Đây là lời khẳng định mạnh mẽ nhất và dứt khoát nhất về cuộc tạo dựng từ hư không.

BÀI ĐỌC II (2Tx 2: 16-3: 5)

Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca. Trong đoạn trích hôm nay, thánh Phao-lô cầu nguyện cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca để họ được gặp thấy ở nơi Chúa Giê-su niềm an ủi bất diệt và niềm tin vững mạnh trong mọi thử thách.

*1.Niềm an ủi bất diệt (2: 16-17)

Thánh Phao-lô đã cố làm yên lòng các tín hữu Thê-xa-lô-nica bằng giáo huấn rõ ràng của mình. Tuy nhiên, thánh nhân nhận ra rằng giáo huấn vẫn chưa đủ. Thánh nhân cầu nguyện để họ gặp thấy niềm an ủi ở nơi Chúa Giê-su Ki-tô mà họ đã tín thác cuộc đời của họ vào Ngài, và ở nơi Thiên Chúa là Cha của họ. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho họ niềm an ủi “bất diệt”, nghĩa là niềm an ủi không thuộc vào thế giới này nhưng vào vương quốc Thiên Chúa, vì thế, niềm an ủi này được chính Thiên Chúa bảo đảm.

*2.Niềm tin vững mạnh trong mọi thử thách (3: 1-5):

Ở đây chúng ta thoáng thấy tấm lòng của một nhà truyền giáo không biết mệt mõi, mong ước phổ biến Tin Mừng để mọi người thấy được tình yêu của Thiên Chúa tuyệt diệu đến mức độ nào. Buồn thay, không phải mọi người đều tin, nhưng Thiên Chúa vẫn trung tín. Thánh Phao-lô tin tưởng rằng Ngài sẽ làm cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca thêm vững mạnh trong những thử thách mà họ đang phải gánh chịu.

Khi “truyền lệnh” cho họ (3: 4), thánh Phao-lô nhấn mạnh giáo huấn của thánh nhân xuất phát từ Chúa Ki-tô Phục Sinh, Đấng đã ủy quyền cho thánh nhân giảng dạy cho họ (x. 1Tx 2: 13; 4: 2, 11; cũng 2Tx 3: 6, 10, 12).

Kiểu nói: “biết yêu mến Thiên Chúa” (3: 5) bao gồm cả tình yêu Thiên Chúa dành cho họ, lẫn tình yêu họ dành cho Thiên Chúa, tương tự với kiểu nói: “biết chịu đựng như Đức Ki-tô”. Thánh nhân đang quy chiếu đến cả sự chịu đựng của Đức Giê-su giữa những đau khổ và thử thách, lẫn đến sự dự phần vào đức hạnh mà Đức Giê-su đã ban cho các môn đệ Ngài.

TIN MỪNG (Lc 20: 27-38)

Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với nhóm Xa-đốc về kẻ chết sống lại (20: 27-38). Cuộc tranh luận này được đặt vào trong bối cảnh Chúa Giê-su thi hành sứ vụ sau cùng của Ngài tại Giê-ru-sa-lem theo đó những nhóm có thế lực trong dân Ít-ra-en, lần lượt đến gặp Đức Giê-su và luân phiên đặt ra cho Người những câu hỏi thâm hiểm để mong hãm hại Người (19: 47-21: 38).

*1.Vấn nạn của nhóm Xa-đốc (20: 27-33)

Đối thủ của Đức Giê-su lần này là nhóm Xa-đốc. Nhóm Xa-đốc tuy không đông bằng nhóm Pha-ri-sêu nhưng rất giàu có và có thế lực. Về phương diện trần thế, họ là giai cấp thống trị cộng tác chặt chẽ với chính quyền Rô-ma chiếm đóng, vì muốn bảo vệ của cải và duy trì địa vị của mình

Về phương diện tôn giáo, nhóm Xa-đốc chỉ chấp nhận thẩm quyền của bộ Ngũ Thư mà thôi. Dựa trên lối giải thích Ngũ Thư của họ, họ không tin kẻ chết sống lại. Nhóm Xa-đốc này cũng như bao người Do thái chính thống đều tin chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, nhưng việc Thiên Chúa có cho con người được sống lại hay không thì thuộc về thẩm quyền của Ngài. Vì thế, nhóm này không tin vào sự sống lại mai sau, bởi vì không có bằng chứng nào về một niềm tin như thế được tìm thấy trong bộ Ngũ Thư. Hơn nữa, không có kinh sư nào, những ngươi thông luật, giải đáp cho vấn nạn mà họ nêu lên.

Căn cứ theo luật Lê-vi (x. Đnl 25: 5tt.), nếu một người qua đời mà không có người nối dõi tông đường, thì người em phải cưới chị dâu ấy để cho anh mình có người con nối dõi tông đường. Dựa trên luật này, họ hư cấu một câu chuyện bảy anh em lần lượt lấy một người vợ để có người con nối dõi tông đường, nhưng đều chết mà không có con; vậy nếu có sự sống lại thì ai sẽ là chồng của người phụ nữ này. Như vậy, niềm tin vào sự sống lại thật là lố bịch.

*2.Câu trả lời của Chúa Giê-su (20: 34-38)

Chúa Giê-su quả quyết có sự sống lại, đồng thời cũng giải thích những đặc tính của sự sống lại: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng”. Như thế, theo Chúa Giê-su, lập luận của nhóm Xa-đốc về sự sống lại như vậy thì thật là quá duy vật. Theo lập luận này, cuộc sống lại chỉ là tiếp tục cuộc sống trần thế, dù được nâng cao lên đến mức độ nào. Nếu hiểu cuộc sống lại như vậy là giới hạn quyền năng của Thiên Chúa và coi thường tình yêu của Ngài: “Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”.

Để bác bỏ lập luận của nhóm Xa-đốc dựa trên bộ Ngũ Thư để phủ nhận niềm tin vào sự sống lại, Chúa Giê-su viện dẫn sách Xuất Hành (Xh 3: 2, 6), một trong năm quyển sách được gọi là Ngũ Thư, để cho thấy cách hiểu của nhóm Xa-đốc thật sự sai lầm trầm trọng. Dựa trên Xh 3: 2, 6 trong đó Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của cha ông ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp”, Chúa Giê-su kết luận: “Thiên Chúa không là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”, có nghĩa rằng Thiên Chúa vẫn thường hằng có mối liên hệ với ông Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, dù các vị tổ phụ này đã chết từ lâu rồi. Vì thế, dù những người công chính này đã chết trên bình diện thể lý, họ vẫn đang sống, thật sự sống trong Thiên Chúa và mong chờ sự sống lại.

Barclay đã đưa ra một lời nhận xét rất xác đáng như sau: “Có thể chúng ta cảm thấy đoạn Kinh Thánh này thật khô khan. Nó đề cập đến những vấn đề có vẻ sôi bỏng trong thời Chúa Giê-su với những lý luận mà một kinh sư cho là rất mạnh, nhưng người thời nay lại không thấy thế. Nhưng từ chỗ khô khan đó, ta rút được một chân lý lớn lao cho những ai giảng dạy hoặc muốn làm chứng về Ki-tô giáo. Chúa Giê-su đã dùng những lý luận mà dân chúng đang nghe Người có thể hiểu được, Người nói với dân chúng theo ngôn ngữ riêng của họ, Người gặp gỡ họ trên chính mảnh đất của họ và chính đó là lý do tại sao giới bình dân đã nghe Người cách thích thú. Đôi lần, chúng ta đọc những sách đạo hoặc về thần học, ta thừa nhận rằng những gì được viết quả là đúng, nhưng không thể đem trình bày cho những đầu óc mới hiểu biết ít, và họ lại là đa số trên thế giới cũng như trong Hội Thánh. Chúa Giê-su đã dùng ngôn ngữ và lý luận mà dân chúng có thể và đã hiểu được, Người gặp gỡ họ trong ngữ vựng của họ. Chúng ta sẽ giảng đạo, làm chứng cho họ Chúa tốt hơn nhiều, khi học tập đường lối phổ biến Tin Mừng của chính Chúa Giê-su” (“Tin Mừng theo Thánh Lu-ca”, 238-239).

home Mục lục Lưu trữ