Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 14

Tổng truy cập: 1359241

ĐỜI TÔI TIẾN BƯỚC NHƯ MỘT CON LỪA

ĐỜI TÔI TIẾN BƯỚC NHƯ MỘT CON LỪA

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)

Nhà văn Bossuet đã viết: “Ai trong chúng ta không có thói tự kiêu, người đó là thượng đế”. Câu nói của nhà văn ngụ ý rằng, tự bản chất con người chúng ta ai cũng có cái tôi ích kỷ, thích được người khác nể trọng và thán phục. Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy nhan nhản những khẩu hiệu, như “ Cán bộ là đầy tớ của nhân dân” hoặc sống “Yêu thương để phục vụ”... nhưng trong thực tế, nhiều khi đó chỉ là những khẩu hiệu lý thuyết, và lắm lúc những khẩu hiệu xem ra đao to búa lớn ấy chỉ là những sáo ngữ rỗng tuếch. Tuy nhiên, nếu can đảm và thẳng thắn nhìn lại cách sống của chính chúng ta là các Kitô hữu, đặc biệt nơi các anh em linh mục, chúng ta sẽ thấy rất rõ cái tôi của mình, qua cung cách trịch thượng hoặc qua lối hành xử hách dịch mà chúng ta rất hay biểu tỏ ra bên ngoài.

Lời Chúa hôm nay nhắc lại cho chúng ta tiêu chí căn bản để trở nên môn đệ Đức Giêsu: “Ai muốn làm đầu phải làm người rốt hết, và làm kẻ phục vụ mọi người” (Mc 9,35). Khiêm tốn để phục vụ là bài học căn bản mà chúng ta phải học, học mãi, học cho tới suốt đời, để sao chép lại cách sống của chính Đức Giêsu như Ngài đã từng nói: “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29).

Khiêm nhường, khởi đầu của mọi nhân đức.

Thánh Tôma Aquinô diễn tả có vẻ hơi cường điệu. Ngài nói: “Khi chúng ta chết đi, cái tôi của chúng ta sau 15 phút mới chết hẳn”. Cái tôi ích kỷ và kiêu căng vẫn luôn đeo bám dai dẳng nơi tất cả mọi người. Tội đứng đầu trong bảy mối tội chính là tính kiêu ngạo. Đây chính là tội đầu tiên đã du nhập vào trần gian, và đó cũng là tội mà Thiên Chúa ghét bỏ nhất. Adam đã sa ngã vì kiêu ngạo muốn trở nên ngang bằng với Thiên Chúa. Tháp Babel cũng là biểu tượng của sự kiêu căng khi con người muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Luxiphe là một thiên thần biến chất cũng chỉ vì quá tự phụ. Quả thật, khuynh hướng kiêu ngạo đã ăn sâu nơi bản tính con người, và trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn phải đấu tranh liên lỉ để vượt thắng. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô đã viết: “Vì một người duy nhất đã không vâng phục Thiên Chúa mà muôn người trở nên tội nhân” (Rm 5, 19). Con người đó chính là Adam. Tội Adam hay gọi là tội nguyên tổ, khởi đầu của các giống tội, chính là kiêu ngạo và bất tuân. Tính kiêu ngạo đã ăn sâu vào bản tính nhân loại nơi chúng ta.

Có một câu ngạn ngữ tây phương đã viết: “Cái tôi thì đáng ghét” (le moi est haissable). Ai trong chúng ta cũng biết điều này, nhưng không phải giản đơn nếu chúng ta muốn khuất phục cái tôi đáng ghét đó. Thánh Phêrô cũng khuyên dạy các tín hữu: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau, vì Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho ai khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa (1P 5,5-6). Quả thật, khiêm nhường chính là cửa ngõ dẫn đưa chúng ta đi vào sự thánh thiện, bởi vì khiêm nhường chính là mẹ sản sinh các nhân đức khác (tư tưởng của Tennyson).

Khiêm nhường: linh đạo Thập giá.

Sự khiêm nhường mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong bài Tin mừng hôm nay không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng đây chính là linh đạo Thập giá. Đó là con đường trọn lành mà Đức Giêsu đã gợi mở để mời gọi chúng ta dấn bước vào: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34).

Hai ngàn năm trước, Đức Giêsu đã đến trần gian để thực hiện sứ mạng cứu thế. Ngài đã khởi đầu cuộc hành trình tại máng cỏ Bêlem và kết thúc sứ mạng nơi đỉnh cao Thập giá. Bêlem và Golgôtha là hai thông số của một thực tại duy nhất: Tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Để diễn bày tình yêu, Thiên Chúa cao cả đã tự nguyện mang lấy kiếp người hèn hạ. Một Thiên Chúa đầy uy quyền và dũng lực lại ẩn dấu trong dáng dấp của một bé thơ mỏng manh và yếu ớt. Một đứa trẻ mới sinh ra chưa có thể làm được điều gì. Nó cần đến vòng tay che chở của cha, cần những giọt sữa yêu thương của mẹ để được lớn lên. Trẻ Giêsu còn cần đến cả những hơi thở của những con bò con lừa giữa đêm khuya lạnh giá. Vì thế, trong bài Tin mừng hôm nay, để nói về sự khiêm tốn, Chúa mượn lại hình ảnh của một đứa bé như một chuẩn mẫu: “Ai tiếp đón một em bé như em này vì danh thầy, là tiếp đón chính thầy” (c.37). Một đứa trẻ trong xã hội Do thái khi xưa hoàn toàn không có một giá trị gì về mặt xã hội. Nhưng Đức Giêsu luôn yêu quý trẻ thơ. Ngài còn đề cao các em nhỏ và mời gọi các môn đệ phải nên giống trẻ thơ.” Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở nên như trẻ thơ, thì sẽ chẳng được vào nước trời. Vậy ai tự hạ và nên như trẻ nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất trong nước trời” (Mt 18,2-4). Đứa bé còn là hình mẫu về sự nghèo khó mà Chúa nói đến. Một đứa con nít không có vị thế gì trong xã hội. Chúng chẳng bao giờ dám mơ tưởng sẽ làm ông này hay bà nọ. Chúng cũng nghèo xác nghèo xơ, không có tài sản hay tiền bạc trong túi. Tinh thần nghèo khó chính là mối phúc đầu tiên trong tám mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài giảng trên núi, và đây cũng chính là linh đạo thập giá, đi đôi với sự khiêm tốn nội tâm mà Chúa nói tới trong Tin mừng hôm nay.

Viễn ảnh thập giá xem ra rất mù tối đối với các học trò của Chúa Giêsu. “Con người sẽ bị nộp vào tay người đời. Họ sẽ giết chết Người, và sau ba ngày Người sẽ sống lại”. Thánh Marcô xác nhận: “Các ông không hiểu lời nói đó (Mc 9,32), bởi vì con đường theo Đức Giêsu còn rất nhiều trầy truột và gian nan. Đối diện trước cái chết, Đức Giêsu đã bị người đời chửi rủa, mạt sát, và coi khinh. Ngài vẫn không cự cãi một tiếng, không chống trả một câu. Sự thinh lặng của Ngài không phải là một sự câm nín thụ động, nhưng đó là ngôn ngữ phong phú nhất để dạy chúng ta bài học khiêm tốn. Trong bài đọc thứ nhất, tác giả sách Khôn ngoan cũng phác vẽ trước viễn ảnh Thập giá này: “Ta sẽ hạ nhục nó và tra tấn nó để biết nó hiền hòa làm sao, và để xem nó nhẫn nhục tới mức nào. Nào ta sẽ kết án cho nó chết một cách nhục nhã” (Kn 2, 19-20). Mầu nhiệm Thập giá hàm ngậm sự tự hủy luôn luôn là một thách đố đối với các học trò của Chúa Giêsu năm xưa cũng như đối với mọi người chúng ta hôm nay. Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Philip cũng vạch dẫn con đường này, và Ngài mời gọi chúng ta nhìn vào linh đạo Thập giá như là khung căn bản định hình sự khiêm tốn nội tâm: “Đức Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên Thập tự (Phil 2, 6-8).

Vì vậy, sự khiêm tốn không chỉ đơn thuần là một đức tính nhân bản, nhưng chính là linh đạo Thập giá. Chúng ta học sống khiêm nhường không phải theo gương của vị vĩ nhân này hay lối sống của nhà hiền triết nọ, nhưng chúng ta được mời gọi nhìn vào chính Đức Giêsu chịu đóng đinh để sao chép lại lối sống và tiếp bước dấu chân của Ngài. “Anh em hãy học nơi tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.

Đời tôi tiến bước như một con lừa.

Đây là tựa đề một quyển sách Đức Hồng y Etchegarey đã viết khi suy tư về hành trình ơn gọi của mình. Ngài vay mượn hình tượng một con lừa để mô tả. Người đời vẫn thường nói: “Ngu như bò và dốt như lừa”. Nhưng bò và lừa lại là hai vị thượng khách được ưu tuyển để đến cung chiêm Vua Trời đất khi Ngài mới hạ sinh. Đức Hồng y cũng mượn lại hình ảnh con lừa chở Chúa tiến vào Giêrusalem để nói về hành trình ơn gọi của Ngài. Người dân hai bên đường vỗ tay reo hò, trải áo và cầm cành lá trên tay để nghinh đón. Con lừa vẫn không vênh mặt lên để tự mãn, vì những lời tung hô đó dành cho Chúa chứ không phải cho nó. Nó mãi mãi cũng chỉ là một con lừa mà thôi. Đường vào Giêrusalem đầy sỏi đá làm chân nó đau nhức, nó vẫn không một lời kêu than. Con lừa vẫn cứ âm thầm lặng lẽ mang Chúa trên vai, và tiến bước một cách ngoan thuần. Nó khiêm tốn bước đi để Chúa hướng dẫn, và suốt đời nó mãi mãi vẫn chỉ là một con lừa mà thôi. Cuộc hành trình ơn gọi của mỗi người chúng ta cũng phải giống như vậy. “Đời tôi tiến bước như một con lừa” chính là như thế. Thái độ căn bản chúng ta cần phải có là khiêm tốn để Đức Giêsu hướng dẫn đời mình. Chính Đức Giêsu đã nêu gương cho chúng ta, như Ngài đã thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, này con xin đến để thi hành thánh ý Cha”. Khi đi vào trần gian, Ngài đã đến “ không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến ban mạng sống làm giá chuộc cho nhiều người” (Mt 20,28).

Chủ nghĩa ‘cha chú’ (paternalism)

Thánh Phanxicô Assisi là gương mẫu cho chúng ta về tinh thần khiêm tốn và nếp sống khó nghèo. Ông Stalin, một lãnh tụ vô thần, cho dù không tin vào Thiên Chúa, nhưng khi đọc tiểu sử của thánh nhân đã thốt lên: “Nếu tôi có trong tay 10 người như Phanxicô, tôi sẽ làm thay đổi cả bộ mặt thế giới”. Con người chúng ta ít nhiều ai cũng có bệnh sỹ diện, thích phô trương cái tôi của mình. Căn bệnh trầm kha này không phải chỉ có nơi giáo dân, nơi các ông trương ông trùm, nhưng có ngay cả nơi các anh em linh mục. Một Cha già đã chia sẻ rằng, khi các linh mục được mọi người kính trọng và gọi bằng cha, rất dễ quên đi ơn gọi làm con nơi mình. Ngài nói tiếp “Nhiều cha lại cứ thích ‘chơi cha’ thiên hạ, qua lối hành xử trịch thượng và hống hách, thậm chí còn dùng tòa giảng để chửi bới giáo dân. Đó là lối sống theo chủ nghĩa cha chú (paternalism) mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã kết án rất mạnh mẽ khi Ngài nói với giáo triều Rôma dịp Noel năm ngoái (ngày 22/12/2014). Điều nhận xét trên không phải mang tính cách vơ đũa cả nắm, nhưng rất cần thiết cho mọi người, nhất là các anh em linh mục, để chúng ta biết can đảm và thẳng thắn nhìn lại chính mình khi thi hành tính năng mục tử.

Kết luận: Tôi tớ của các tôi tớ

Sau hết, chúng ta hãy nhìn lên Đức Maria như là khuôn mẫu nội tâm để chúng ta học nơi Ngài bài học khiêm nhu. Mẹ vẫn luôn coi mình chỉ là “tôi tớ” của Thiên Chúa. Bí quyết duy nhất của Đức Maria khi thực hành sự khiêm tốn và vâng phục là luôn thưa lời “xin vâng”, tuyệt đối để Thiên Chúa hướng dẫn đời mình. Mẹ đã cảm nghiệm rất sâu lắngsự khiêm tốn ấy khi cất lên bài ca Magnificat: “Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng, Người nâng dậy những ai khiêm nhu”. Bắt chước Đức Maria, người nữ tỳ (serva) của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Gioan 23 và Đức Phaolô đệ lục khi chuẩn nhận các văn kiện công đồng Vatican II luôn luôn đặt bút ký tên của mình với hàng chữ “ servus servorum” (tôi tớ của các tôi tớ). Còn các Kitô hữu, cách riêng các anh em linh mục, chúng ta đã hành xử và thực thi quyền bính được trao phó cho chúng ta, “những tôi tớ của các tôi tớ” như thế nào?

 

37.Chúa Nhật 25 Thường Niên

(Suy niệm của Lm. Anfonso)

Tin mừng Mc 9: 30-37:  Chúa Giêsu còn minh họa rõ nét và ý nghĩa hơn cho lời dạy của Người bằng cử chỉ đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy đứa bé và nói: "Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”...

Suy niệm:

Đối với thế giới loài vật cũng như xã hội loài người, tính tự nhiên của quy luật sinh tồn khiến phần tử nào cũng muốn chiếm được vị trí hàng đầu để có được sự kính nể, uy tín, danh dự và quyền lợi. Vị trí ấy nhiều lúc được chiếm bằng luật rừng, nơi quyền lực thuộc về tay kẻ mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé.

Thêm nữa, cũng chính vì thấy mình thua thiệt kẻ khác, hay thấy người khác hơn mình về một số phương diện mà sinh ra đố kỵ, mưu toan tìm cách hạ bệ, tranh giành quyền lực với nhau. Đó cũng là điều mà thánh Giacôbê Tông đồ trong bài đọc II đã cảnh báo: “Ở đâu có ganh tị và cãi vã, ở đó có hỗn độn và đủ thứ tệ đoan”.

Sự tham vọng và tánh ganh tỵ cũng không tránh khỏi nơi người môn đệ Chúa Giêsu. Trong trang Tin mừng hôm nay, thánh sử Marcô cho biết là đang khi đi đường, các môn đệ đã tranh cãi với nhau xem ai là người lớn nhất. Chúng ta có thể tưởng tượng ra khung cảnh cuộc tranh luận ấy: Phêrô thì nghĩ mình chiếm vị trí nhất vì được Chúa đặt là tông đồ trưởng; Gioan tự hào mình là người được Chúa yêu mến nhất; Anrê thì cho rằng mình mới đúng vì là người môn đệ mà Gioan Tiền Hô giới thiệu cho Chúa; còn Giacôbê cho rằng mình có lợi thế vì là bà con thân thiết; Philipphê thì bảo ông quan trọng vì khi thấy nhóm người đông đảo kéo đến nghe Chúa giảng đến quên ăn uống, Chúa đã nhờ ông tư vấn để xem mua đâu ra bánh cho họ ăn; Bartôlômêô lại cho rằng Chúa quan tâm tới ông khi ông còn ngồi ở dưới gốc cây vả nữa là; Matthêu thì nghĩ mình mới đúng vì mình bỏ hết sự nghiệp để theo Chúa ngay, còn Giuđa Iscariot lại vỗ ngực rằng mình quan trọng vì được Chúa tin tưởng giao cho giữ túi tiền; và các môn đệ khác nữa cũng không ngoại lệ...

Vì thế, khi Chúa Giêsu hỏi tới cuộc tranh luận của họ thì họ làm thinh vì cảm thấy xấu hổ. Họ không dám thú nhận là đang lo tranh giành địa vị trong lúc Thầy mình đang tiến về Giêrusalem để chịu khổ giá trong khiêm hạ. Chúa Giêsu biết điều họ đang bận tâm chứ, nhưng “có gì trong nhà từ từ dạy nhau”. Người đợi khi về tới nhà rồi mới chỉ dạy cách riêng. Vì các môn đệ chính là nhân tố, nền móng cho cộng đoàn Kitô hữu sơ khai, nên Người huấn dụ cho họ luật lệ giúp sống cộng đoàn với nhau.

Tính phân biệt sang-hèn, bà con-người ngoài, giáo sĩ-giáo dân, công chính-tội lỗi... đều không xứng hợp với những người lãnh đạo. Cho nên, Chúa Giêsu đã đảo ngược khuynh hướng tự nhiên của con người. Trình thuật cho thấy Chúa Giêsu muốn các môn đệ khắt cốt ghi tâm với lời dạy của Người, qua cử chỉ Người ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người". Chúa Giêsu không ngăn cản người ta làm lớn. Cần có những người nắm giữ địa để điều hành trong cơ cấu Giáo hội và xã hội. Nhưng Người đã đề nghị với họ giải pháp mới cho người muốn làm môn đệ Chúa: đó là người lãnh đạo tự nguyện làm đầy tớ phục vụ mọi người.

Nhà chú giải J. Hervieux giải thích: Chúa lấy 'người rốt hết' đối chọi với 'người đứng đầu', lấy 'người đầy tớ mọi người' đối chọi với 'người cai quản'. Điều nghịch lý này có nghĩa rõ nhất khi nhìn vào cuộc đời Chúa Giêsu, Đấng Thánh thiện cao cả đã tự đặt mình vào chỗ rốt hết để phục vụ mọi người, Người sẵn sàng làm một tôi tớ, cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Vâng, nếu người bị trị làm cuộc cách mạng trở thành kẻ thống trị chỉ để đổi chủ mà thôi và chẳng giúp cho xã hội văn minh phát triển, thì nhiều khi lại trở thành nỗi ám ảnh cho những người sống trong xã hội, cộng đoàn ấy. Kinh nghiệm lịch sử nhân loại nơi này nơi kia trên thế giới đã minh chứng điều đó.

Vì thế, Chúa Giêsu còn minh họa rõ nét và ý nghĩa hơn cho lời dạy của Người bằng cử chỉ đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy đứa bé và nói: "Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy. Và ai tiếp đón Thầy thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”. Trẻ em thường bị xem là người bé mọn, yếu ớt cả về thân xác lẫn địa vị, tiếng nói chẳng có giá trị, lại không có khả năng tự vệ, có khi còn bị người ta loại bỏ bất kể phạm pháp như sát hại ngay khi còn trong bào thai. Vì thế thật phúc cho người làm lãnh đạo, đứng đầu mà lại sống khiêm nhường, phục vụ, sống đơn sơ hiền hòa như thiếu nhi, sẵn sàng đón nhận lời góp ý. Khiêm nhường không phải là yếu đuối hay mặc cảm tự ti. Người khiêm nhường biết mình là ai, trách nhiệm mình ở đâu, và khi được nhờ đứng ra lãnh đạo thì cũng sẵn sàng với tinh thần phục vụ. Nhờ tập sống khiêm nhường, chúng ta sẽ tránh được mối tội đầu là kiêu ngạo, tự xem mình hơn kẻ khác, ganh ghét gièm pha khi thấy người khác hơn mình, vì ý thức tất cả những gì mình có đều đến từ Thiên Chúa.

Lạy Chúa, con chỉ tìm được sự bình an và hạnh phúc thực sự khi biết sống khiêm tốn, phục vụ tha nhân cách vô vị lợi. Nhưng nhân đức Kitô giáo này lại là một nghịch lý trong xã hội, nơi mà người ta luôn muốn thể hiện bằng quyền lực. Xin Chúa giúp con can đảm để dấn thân không mệt mỏi trong việc phục vụ anh chị em, vì người mạnh chính là người đỡ người khác trên vai mình chứ không phải là người giẫm đạp trên vai kẻ khác để đứng lên. Amen.

 

38.Người lớn hơn cả là ai?

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)

Thời gian gần đây tôi thường hay phải đi bệnh viện. Những ngày sống trong đó, như bao bệnh nhân khác, tôi đúng là yếu đuối và hoàn toàn lệ thuộc vào sự giúp đỡ của các điều dưỡng, y tá, bác sĩ và những người thân phục vụ… Dưới con mắt của xã hội bệnh viện, tôi đột nhiên biến thành một người rốt hết và yếu hèn nhất. Chính trong bối cảnh đó, cuộc cãi vã giữa các môn đệ khi đi đường ‘xem ai là người lớn hơn cả’, cùng với các ý tưởng Đức Giêsu đã dùng để giải trình vấn nạn đó, đã chiếu một luồng sáng rất mới và rất Tin Mừng vào suy nghĩ của tôi về, thế nào là giá trị đích thực của kiếp sống con người, không những của con người nhân loại mà còn cả của chính Thiên Chúa nữa.

Khi Đức Giêsu cố gắng giải thích cho các môn đệ hiểu rằng, sự vĩ đại đích thực của Thiên Chúa chính là lúc ‘Con Người bị nộp vào tay người đời…’, các ông đã không tài nào nắm bắt được. Cái lô-gích này là hoàn toàn vô lý; làm sao sự khôn ngoan của một Đức Chúa vĩ đại và cao cả lại có thể biểu lộ qua sự thấp hèn và yếu đuối được? Nghịch lý lớn tới độ các môn đệ đâm ra hoảng sợ ‘không dám hỏi lại Người’, và cũng không dám, không muốn tin rằng điều đó thực sự có thể xảy ra (xem Mt 16:21-23). Kitô hữu chúng ta ngày nay cũng thế! Ngay cả khi đã biết tường tận về biến cố Thập Giá và Phục Sinh, chúng ta vẫn luôn có khuynh hướng tách hai biến cố này rời khỏi nhau. Thập giá thường được coi chỉ là giai đoạn tạm bợ để Đức Kitô có thể đạt tới vinh quang đích thực; và vinh quang này chỉ có khi Người sống lại và lên trời vinh hiển. Ngược hẳn với quan niệm đó, khi đề cập tới giờ tử nạn sắp xảy ra, Đức Giêsu đã có suy nghĩ hoàn toàn khác; Người gọi đó chính là thời điểm (Kairos) mà Con Người được tôn vinh; “Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người” (Ga 13:31-32). Như vậy, theo Đức Giêsu, chính trong cái chết thập giá nhuốc khổ mà Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang vĩ đại nhất của mình, vinh quang của một thứ tình yêu tự hiến và xót thương; Phục Sinh chỉ là dấu ấn của vinh quang đó, chứ không phải là cùng đích của nó. Có lẽ chính vì thế mà, khi tường thuật về các biến cố phục sinh, cả bốn sách Tin Mừng đã không hề có một lời mô tả nào về Đức Kitô sống lại (kể cả việc Người lên trời vinh hiển, như chúng ta quen nói) như một nhân vật vinh quang khải hoàn đầy uy quyền thống trị.

Vì không vào được tư tưởng của Đức Giêsu nên mà ít ai trong chúng ta có thể hiểu ra rằng, người ‘đứng đầu’ hay ‘làm lớn nhất’ lại phải chính là người ‘rốt hết’, là người cúi mình xuống ‘phục vụ’. Để dễ chập nhận cách lô-gích hơn, chúng ta thường lập luận như sau: để được làm lớn, trước hết ta phải cam lòng phục vụ mọi người, đó là lối sử thế khôn ngoan phổ biến mà dân gian gọi là ‘chịu đấm ăn sôi’, hay ‘luồn cúi cầu vinh’. Chắc hẳn Đức Giêsu đã không suy nghĩ theo thói khôn ngoan người đời như thế (‘cam lòng chịu chết’ ‘Per Crucem ad Lucem’ như chúng ta vẫn quen nói). Tông đồ Phao-lô, một khi đã hiểu biết được phần nào Đức Kitô, đã phải lên tiếng giải thích điều nghịch lý này như sau: “Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1:25). Ông khảng định, khi Đức Giêsu tuyên bố: ‘người đứng đầu phải là kẻ rốt hết, người lớn nhất phải là kẻ phục vụ’, Người đang đưa ra một định luật tuyệt đối cách mạng. Đây không thể là một lý luận tầm thường, mà chính là mạc khải về giá trị đích thực của Thiên Chúa trước hết, rồi sau đó của mỗi môn đệ Kitô chúng ta theo chuẩn mực Tin Mừng.

Rồi khi Đức Giêsu ‘đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó…’ người không chỉ đơn thuần có ý khuyên các môn đệ hãy phục vụ trẻ nhỏ, hạng người được coi là rốt hết trong xã hội Do Thái. Tác giả Mát-thêu trong đoạn song hành đã cho thấy, hàm ý của Người còn thâm sâu hơn nhiều; “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời? Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông, và bảo: Thầy bảo thật anh em, nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Tròi… Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất Nước Trời” (Mt 18:1-4). Vậy thì ai phục vụ một trẻ nhỏ hay một kẻ nghèo hèn thì không chỉ phục vụ một Đức Kitô uy quyền tạm ẩn dấu dưới hình hài hèn hạ, mà là phục vụ một Đức Kitô thực sự vinh quang trong sự bé nhỏ, nghèo hèn và tự hủy. Qua việc phục vụ đó, họ đang tham dự vào sự vĩ đại cao sang nhất của Thiên Chúa xót thương và tự hiến; vì đối với một Thiên Chúa cứu độ và tự hiến thì vinh quang lớn nhất chính là lúc Người trở nên rốt hết và cúi xuống phục vụ mọi người.

Trong bài ca Ngợi Khen (Magnificat), đức Ma-ri-a một khi nhìn nhận phận hèn của mình thì đồng thời cũng khám phá ra sự cao cả vĩ đại vô song của kiếp sống mình. Mẹ là người đầu tiên đã nhận thức được, sự cao cả của Thiên Chúa luôn đối nghịch với những gì là ‘biểu dương sức mạnh, quyền thế, giầu có…’, và gần gũi hơn với những gì là ‘khiêm nhu, nghèo đói, thấp kém…’ Lý do duy nhất được đưa ra là, chỉ vì Người là đấng giầu lòng xót thương (Lc 1:46-55). Phao-lô cũng nhìn nhận sức mạnh của mình nằm trong chính sự yếu đuối mình cảm nghiệm, “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”, tới độ ông còn vui mừng khi phát hiện ra rằng mình yếu đuối, “tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi” (2 Cr 12:9-10). Khi các ngài khảng định như vậy chắc hẳn phải dựa trên một nguyên lý hiện sinh vững chắc lắm, chứ không chỉ trên một thái độ khiêm cung nhất thời.

Là linh mục của Chúa Kitô Thập Giá, mỗi lần cử hành Thánh Lễ, tôi luôn được nhắc nhở rằng, Thiên Chúa là Đấng cao sang và vĩ đại nhất chính vì Người đã cúi xuống, tự hủy và trở nên rốt hết! Tư tưởng này phải là định hướng cho toàn bộ đời sống thiêng liêng và họat động mục vụ của tôi.

Lạy Thiên Chúa bé nhỏ và mọn hèn! Chỉ khi nào nghiệm thấy được lòng nhân ái và dịu hiền của Chúa, con mới thấu hiểu được thế nào là vĩ đại và vinh quang đích thực, và cũng chỉ khi đó con mới có thể khảng định rằng, mình đã thực sự hiểu biết về Thiên Chúa. Xin cảm tạ Chúa đã ban cho con ơn gọi Kitô hữu để con có thể khám phá ra sự khôn ngoan này. Xin cho con tiếp tục tiến bước trên con đường Tin Mừng phong phú dường bao, khác xa với lối sống tự nhiên của loài người, kể cả những người tốt lành thánh thiện nhất. Amen.

home Mục lục Lưu trữ