Hình thành - Phát triển
Sinh hoạt giáo xứ
Tìm hiểu giáo lý
Xã hội
Đang online: 76
Tổng truy cập: 1359545
DỌN ĐƯỜNG ĐÓN CHÚA ĐẾN
DỌN ĐƯỜNG ĐÓN CHÚA ĐẾN
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’– Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Theo lời Chúa hôm nay, chúng ta đang sống giữa hai thời đại của Chúa: thời đại Con Thiên Chúa giáng sinh và thời đại Con Thiên Chúa giáng lâm.
Thời đại Giáng sinh được tiên tri Isaia loan báo là thời đại an ủi và khuyên bảo ngọt ngào.
Con Thiên Chúa đến an ủi và khuyên bảo dân Người vì họ đang phải sống phục dịch cho thành dã man. Thành dã man này là thành Babylon, dân đang phải sống kiếp lưu đầy, là đế quốc La mã đang đặt ách nô lệ trên Giêrusalem, là vương quốc satan đang thống trị nhân loại. Dân đang phải phục dịch bọn chúng giữa chốn sa mạc, giữa cánh đồng hoang, giữa núi đồi lổm chổm, dưới thung lũng hố sâu.
Thiên Chúa đã an ủi dân, khuyên họ đừng sợ: “Thiên Chúa các ngươi đến đây rồi”. Người sẽ giải thoát khỏi nô lệ Babylon. Họ được trở về quê cha đất tổ của Abraham, của Isaac. “Chúa chăn dắt họ như mục tử, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Chiên con, Người ấp ủ vào lòng, chiên mẹ, Người tận tình săn sóc” (Is. 40, 1-5. 9-11).
Gioan cũng xuất hiện bên bờ sông Gióc-đan kêu gọi dân chịu phép rửa sám hối và chỉ cho họ biết “có Đấng quyền thế cao trọng hơn tôi, đang đến sau tôi, Người sẽ làm phép rửa cho anh em bằng Thánh Thần” (Mc. 1, 7-8). “Người sẵn sàng ban ơn cứu độ cho kẻ kính sợ Người. Người cho thành tín mọc lên từ đất thấp. Và cho công lý mưa từ trời cao. Chúa sẽ tặng ban nguồn ân huệ dồi dào, đất đai này trổ sinh nhiều hoa trái” (Tv. 84, 10.13.14).
Thời đại Giáng lâm cũng được Isaia và thánh tông đồ Phêrô loan báo. Đó là thời đại vinh quang của Chúa hiện đến. “Kìa Đức Chúa quang lâm hùng dũng, tay nắm trọn chủ quyền” (Is. 40, 10). “Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành sẽ bốc cháy tiêu tan, mặt đất và công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy nhường chỗ cho trời mới đất mới, đúng như lời Chúa hứa” (2P. 3, 4.10.13). “Người sẽ muôn đời ngự trị, cho dân Người được hưởng thái bình, thịnh vượng. Ân nghĩa tín thành nay hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên” (Tv. 85, 9.11). “Thiên Chúa ban diễm lệ vinh quang hạnh phúc cho tất cả những ai bước đi trọn lành” (Tv. 84, 12).
Chúng ta đang sống giữa hai thời đại huy hoàng đó. Nhờ vậy, chúng ta được hưởng nguồn ân huệ Giáng sinh, để biết chuẩn bị đón chờ Chúa Giáng lâm. Thánh Phêrô đã ngọt ngào khuyên nhủ chúng ta: “Có điều này, xin anh em đừng quên: Đối với Chúa, một ngày như thể ngàn năm, ngàn năm tựa như một ngày”. Thời gian trước mặt Chúa đều là hiện tại, quá khứ hay tương lai ngàn năm đều ở trước mặt Chúa. Cho nên, một ngày hay ngàn năm cũng như nhau. Thiên Chúa hằng hữu đời đời, không có thời gian ngày tháng thay đổi, không có thơ ấu lớn lên, trưởng thành, già cỗi tiêu tan. Người hoàn hảo trọn vẹn vô cùng. Lâu hay chóng, nhỏ hay lớn, xấu hay tốt, lành hay dữ là tự ta. Vì thế “Người tỏ lòng kiên nhẫn thương chờ đợi hết thảy ăn năn trở lại. Người không muốn cho bất cứ ai phải diệt vong. Người sẽ đến bất ngờ như kẻ trộm không phải để đánh bẫy, nhưng để anh em luôn luôn phải ăn ở thế nào, phải sống thánh thiện biết bao, phải tôn kính Thiên Chúa chừng nào! Khi ngày Thiên Chúa đến, anh em sẽ được hưởng trời mới đất mới” (2Pr. 3, 8-14).
Phúc cho chúng ta luôn biết chuẩn bị đón Chúa đến trong ngày quang lâm. Ai ra công ra sức dọn đường Chúa đến, biết làm cho sa mạc khô cằn thành xa lộ quang minh chính đại; trong chân lý của Chúa, biết san phẳng đồi núi thành cánh đồng sinh nhiều hoa trái thánh thiện, biết làm cho những thung lũng tối tăm đầy ánh sáng huy hoàng của Tin Mừng.
Như vậy, có dọn mình một ngàn năm, vẫn thấy mình bất xứng, vẫn chưa đủ để ra trước Thiên Nhan vinh quang Thiên Chúa. Vì thế, một ngàn năm thấy chóng như một ngày. Nhưng ta đang sống trong cảnh tù đầy trần gian, nóng lòng mong mỏi khao khát Chúa đến, như sa mạc mong trời mưa xuống, như tù nhân mong ngày tự do, vì thế chúng ta cảm thấy một ngày lâu như ngàn năm: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”.
Lạy Chúa, xin tỏ lòng Ngài nhân ái. Ơn cứu độ Ngài, xin ban tặng cho chúng con.
----------------------------------------
CHÚ Ý: Chúa đến bất ngờ có hai lý do:
1. Để biết lòng trung thành ta đối với Chúa: đầy tớ bất trung nghĩ chủ còn lâu, sẽ ăn chơi, đánh đập, hành hạ tớ trai tớ gái.
2. Để cho ta luôn luôn biết tỉnh thức, luôn luôn chuẩn bị bằng lo làm nhiệm vụ, lo đón Chúa.
38.Sứ điệp Gioan Tiền Hô
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Sứ điệp của Gioan có giá trị nào đối với Kitô hữu chúng ta?
Tác giả Mác-cô mở đầu sách Tin Mừng bằng việc giới thiệu Gioan, vị sứ giả tiền hô của đấng Messia: “Khởi đầu Tin Mừng... Ta sai sứ giả của ta đi trước mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con…” Công việc tiền hô của vị sứ giả đã được xác định rõ, ông phải hô hào mọi người: “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi!” Thế nhưng tôi vẫn thường tự hỏi: Gioan Tiền Hô có thật sự hiểu rõ Đấng mà ông đang nỗ lực kêu mời mọi người chào đón hay không? Điều này xem ra không được rõ cho lắm; có vẻ như ông vừa hiểu lại vừa không, chính vì vậy mà lời ông kêu gọi chỉ là chung chung, rất dễ gây ngộ nhận về Con Người sẽ đến và sứ điệp Tin Mừng của Ngài.
Điều Gioan tỏ ra biết về đấng Messia, người mà ông có nhiệm vụ tiền hô dọn đường, hoàn toàn bó gọn trong nội dung Cựu Ước, vốn đã rất phổ thông đối với người Do Thái đương thời. Messia - vị Thiên Sai - Đấng Được Sức Dầu phải là một vị đầy quyền uy thống trị, “Có Đấng quyền thế hơn tôi… Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”. Đối với một đấng như thế, Gioan kêu gọi dân chúng phải đón tiếp trong sợ hãi và kính phục. Các tác giả Mát-thêu và Lu-ca ghi rõ lời ông đe loi, “Ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?... Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3:7.10). Như vậy lời kêu gọi sám hối của Gioan quả có sức mạnh, nhưng hoàn toàn trong nội dung Cựu Ước, “Hãy dọn sẵn con đường của Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi!” (Is 40:3) Ngay cả khi tuyên bố, “Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần” Gioan vẫn hiểu đó là phép rửa trong sức mạnh của Đức Chúa, vì theo hiểu biết chung của người Do Thái, Thần Khí đơn giản chỉ là biểu hiện sức mạnh của Gia-vê.
Gioan còn phải tìm hiểu nhiều về dung mạo đích thực của đấng Messia mà ông được gởi tới dọn đường. Điều này đã được Phúc Âm minh chứng, nhiều lần trong suốt cuộc sống ông không ngừng nỗ lực tìm hiểu. Ngày cả tới lúc bị giam cầm trong ngục thất, ông vẫn còn loay hoay trong nghi vấn này và muốn tìm lời giải đáp cho chính mình cũng như cho các môn đệ của ông: “Ngài có thật là đấng phải đến, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” Đáp lại Đức Giêsu đã phác lên một dung mạo khác hẳn với hình ảnh ông vốn có về đấng Messia: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người mù thấy được, kẻ què đi được, người chết chỗi dậy, kẻ nghèo được nghe tin mừng” (Lc 7:20.22). Đó là dung mạo của một đấng Thiên Sai đầy từ tâm và cứu vớt, ngược hẳn với Messia uy nghiêm xét xử mà ông từng rao giảng dọn đường. Đức Giêsu hiểu việc thay đối quan niệm như thế là không dễ chút nào, kể cả đối với vị tiền hô đáng kính nể của mình, Người nói thêm: “Và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi!”
Nếu quả như thế thì một Kitô hữu như tôi khi tiến vào Mùa Vọng phải biết xác định rõ: Đấng mà tôi chuẩn bị đón rước trong thời gian này là ai? Giáo Hội giới thiệu cho tôi sứ điệp và diện mạo của Gioan Tiền hô, “mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng”. Thế nhưng tôi đâu phải là người Do Thái của Cựu Ước! Là Kitô hữu của Tin Mừng, tôi biết Đấng mà tôi được kêu gọi đón tiếp lại rất giầu từ tâm và hay thương xót; Người không đến để luận phạt, nhưng đến để cứu vớt và thứ tha. Vì thế việc sám hối và ‘dọn đường… sửa lối cho ngay thẳng…” của tôi sẽ không chỉ vì muốn xứng đáng đón tiếp một đấng cao cả quyền uy, lại càng không phải để ‘tránh cơn thịnh nộ’ vì ‘rìu đã đặt sát gốc’. Tôi nhìn nhận tội lỗi mình vì nhờ đó tôi càng ý thức mình ‘phận nghèo được nghe Tin Mừng’. Đúng hơn chính khi nhìn nhận mình tội lỗi, tôi lại càng tới gần hài nhi Giêsu nhân hậu và cứu độ hơn, đồng thời biến việc dọn đường trở thành niềm vui và hy vọng tràn trề. Phải chăng đó mới chính là điều Phụng vụ đang hướng chúng ta tới?
Tuy nhiên, đối với tôi cũng như đối với mọi người, vẫn luôn tồn tại nguy cơ ngộ nhận sứ điệp của Gioan, ngộ nhận ngay cả Tin Mừng Đức Kitô rao giảng, ngộ nhận cả huấn quyền cứu độ của Hội Thánh. Mùa Vọng là thời gian dành cho tôi, trong khi vẫn thành khẩn tiếp nhận sứ điệp sám hối, gia tăng nhận biết diện mạo nhân ái giầu xót thương của một Thiên Chúa đang đến để cứu vớt chứ không phải để luận phạt. Tôi không chỉ vọng về lễ Giáng Sinh, mà phải biến trọn đời sống Kitô hữu tôi thành một Mùa Vọng bất tận; vọng về tình yêu nhân ái của Thiên Chúa, đấng yêu thương tôi. Công việc này thật khẩn trương và vô cùng quan trọng, cho Gioan cũng như cho chính tôi, vì “phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi!”.
Lạy Đấng đang đến và con được mời gọi dọn đường đón tiếp. Xin cho con nhận biết dung nhan hiền dịu Chúa để, cho dầu con người con có bất toàn và tội lỗi đến đâu, với lòng chân thành sám hối, con càng vui mừng tiến ra đón Chúa với cánh tay và trái tim mở rộng; vì biết rằng Hài Nhi giáng sinh là đấng cứu độ chứ không phải là người luận phạt. Xin cho toàn nhân loại cùng con chia sẻ niềm vui Giáng Sinh, trong tâm tình ca khen cảm tạ tình yêu của Thiên Chúa giáng trần. Amen.
39.Từ mình sang Chúa
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
“Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”.
Kính thưa Anh Chị em,
Trước một Thiên Chúa khiêm tốn, chúng ta được mời gọi khiêm nhu, đó cũng là chủ đề của phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay. Chúng ta cùng quan chiêm sự khiêm nhượng vĩ đại của Gioan Tiền Hô, người đã chuyển ‘từ mình sang Chúa’ mọi ảnh hưởng, mọi tiếng tăm để Chúa được nhận biết, cũng là người đã nói, “Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người”.
Gioan được Chúa Giêsu coi là người vĩ đại nhất trong tất cả con cái người nữ sinh ra trên trần gian; vậy mà, Tin Mừng cho thấy, Gioan coi mình thậm chí không xứng đáng khom lưng nới lỏng quai dép cho một Đấng cũng được sinh ra từ lòng một người mẹ; thì ra, Gioan đã khiêm tốn nhưng Đấng Gioan tiền hô lại khiêm tốn hơn. Và đây là sự khiêm tốn ở mức độ cực đại!
Vậy thì điều gì đã khiến Gioan Tẩy Giả trở nên vĩ đại? Có phải vì lời rao giảng đầy thuyết phục hay vì tính cách năng động và hấp dẫn của một con người vốn có thể có một ngoại hình hoàn hảo như Gioan? Chắc chắn không một lý do nào trong các lý do trên khiến Gioan được coi là vĩ đại. Điều khiến Gioan thực sự vĩ đại chính là sự khiêm nhường mà với sự khiêm nhường đó, Gioan chỉ cho mọi người biết Chúa Giêsu, Gioan đã hướng cái nhìn của mọi người ‘từ mình sang Chúa’.
Gioan biết Chúa Giêsu là ai, là Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian, Đấng sẽ rửa trong Thánh Thần; mọi người nghe Gioan, nhưng Gioan lại hướng ánh mắt của những ai theo Gioan ‘từ mình sang Chúa’. Và chính hành động hướng người khác đến với Chúa có ‘tác dụng kép’ là nâng Gioan lên tầm vĩ đại mà sự tự cao tự đại không bao giờ có thể đạt được.
Điều gì có thể tuyệt vời hơn hành động chỉ cho người khác Đấng Cứu Độ của thế giới? Điều gì có thể tuyệt vời hơn việc giúp người khác khám phá mục đích cuộc sống của họ bằng cách nhận biết Chúa Giêsu Kitô là Chúa và là Đấng Cứu Độ? Điều gì có thể tuyệt vời hơn việc khuyến khích người khác sống một cuộc sống quên mình để tòng phục duy nhất một Thiên Chúa thương xót? Điều gì có thể tuyệt vời hơn việc nâng cao Đấng là Chân Lý vốn vượt trên những dối trá ích kỷ của bản chất hay sa ngã của con người?
Thiên Chúa đó cũng là một Thiên Chúa quyền phép vô song, khi với Người, “một ngày như thể ngàn năm, ngàn năm cũng tựa một ngày” như thư Phêrô hôm nay nói; nhưng cũng là một Thiên Chúa đầy khiêm tốn, hạ mình xót thương dân Người, “Hãy an tâm, hãy an tâm”, vì “Người chăn dắt đoàn chiên như mục tử chăm sóc chiên mình; ẵm chiên con trên tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ” như ngôn sứ Isaia mô tả.
Một nhà tu đức nói, “Sự kiêu ngạo rất tinh tế đến nỗi, nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ tự hào về sự khiêm tốn của mình, kết quả, chúng ta dành hết vinh quang của Chúa; thay vì Chúa lớn lên, Ngài phải nhỏ lại; thay vì bản thân nhỏ lại, chúng ta làm cho nó lớn lên; thay vì chuyển tất cả ‘từ mình sang Chúa’, chúng ta chuyển hết ‘từ Chúa sang mình’. Khi điều này xảy ra, điều tốt hoá thành xấu; những đức tính trở thành tệ nạn. Vậy mỗi khi làm được một điều gì, hãy làm như con sư tử dũng mãnh trong một đêm săn mồi thành công, nó biết nhìn lên để cám ơn ánh trăng”.
Anh Chị em,
Để cuộc sống có giá trị và ý nghĩa thực sự, hãy làm cho Chúa lớn lên đến mức cao nhất có thể, hãy chuyển tất cả ‘từ mình sang Chúa’; hãy hướng những người khác đến với Chúa, và làm cho Chúa Giêsu trở thành trọng tâm của cuộc đời mình cũng như cuộc đời những ai chúng ta gặp gỡ bằng cách hạ mình trước mặt Ngài. Chính trong hành động khiêm tốn này, sự vĩ đại thực sự của chúng ta sẽ được khám phá và chúng ta sẽ tìm thấy mục đích chính yếu của cuộc sống mình.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, khiêm nhượng sẽ giúp con bớt chất người, thêm chất Chúa; xin đừng để con giữ lại cho mình một điều gì, một hãy chuyển ‘từ mình sang Chúa’ tất cả những gì thế gian ban tặng; bởi lẽ, tất cả những gì con có, đều đến từ Chúa và nhất là, đều thuộc về Chúa”, Amen.
40.Chúa Nhật 2 Mùa Vọng
(Suy niệm và Chú giải của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Cả ba bài đọc của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Vọng đều được định vị trong viễn cảnh của việc Thiên Chúa can thiệp vào trong Lịch Sử loài người.
Is 40: 1-5, 9-11
Thiên Chúa truyền cho ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hãy an ủi dân Ngài trong cảnh cùng khốn và loan báo cuộc giải thoát gần kề.
2Pr 3: 8-14
Thánh Phê-rô nhắc nhở rằng không phải Thiên Chúa lỗi hẹn, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài trì hoãn để chúng ta có đủ thời giờ lập công tích đức trong khi chờ đợi trời mới và đất mới mà Chúa đã hứa cho chúng ta.
Mc 1: 1-8
Gioan Tẩy Giả, vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để dọn đường cho Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.
BÀI ĐỌC I (Is 40: 1-5, 9-11)
Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã đọc bản văn của ngôn sứ I-sai-a thời hậu lưu đày, được gọi là I-sai-a đệ tam: dân Do thái đã được cứu thoát khỏi cảnh lưu đày, trở về quê cha đất tổ và đang nổ lực tái thiết đất nước. Trong Chúa Nhật nầy, Bài Đọc I được trích từ tác phẩm của vị ngôn sứ thời lưu đày. Bản văn này đưa chúng ta đi ngược về quá khứ: thời kỳ dân Do thái vẫn còn bị lưu đày ở Ba-by-lon vào những năm 550-539, cuộc giải thoát chưa xảy đến.
Vị ngôn sứ thời lưu đày nầy không ngừng đem đến những lời an ủi lớn lao cho đồng bào của mình. Thế nên, tác phẩm của ông được gọi “sách An Ủi” (Is 40-55). Chúng ta không biết gì về vị ngôn sứ thời lưu đày nầy. Ông thường hằng ẩn mình sau sứ điệp của mình, như bản văn hôm nay cho thấy. Ngay từ đầu, vị ngôn sứ ẩn mình trong “lời Thiên Chúa phán”; đoạn, trong “một tiếng kêu” mà không xác định; và sau cùng, trong “một sứ giả báo tin mừng”. Vị ngôn sứ nầy thường được gọi I-sai-a đệ nhị, vì ông thuộc vào hàng những môn đệ đầu tiên của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất, và tác phẩm của ông đã được tập hợp chung với tác phẩm của thầy mình.
1. “Hãy an ủi dân Ta”:
“Hãy an ủi, an ủi dân Ta!”, đó là lệnh truyền mà Thiên Chúa gởi đến cho vị ngôn sứ của Ngài trong khi dân Do thái đang sống kiếp lưu đày vô vọng. “Dân Ta”, lời khẳng định nầy chắc chắn đã làm ấm lòng những người lưu đày, vì họ đã nghĩ rằng Thiên Chúa đã quên họ, không còn đoái hoài đến số phận bi thương của họ. Không, họ luôn luôn là “dân của Ngài”, dân Chúa chọn mà xưa kia được Thiên Chúa nâng niu chiều chuộng. Cung giọng đầy trìu mến được cất lên ở cuối bài thơ trong hình ảnh người mục tử tận tình săn sóc đàn chiên của mình, nhất là những con chiên bé bỏng.
“Hãy ngọt ngào khuyên bảo Giê-ru-sa-lem”. Dân thành đã bị trừng phạt vì tội bất trung lâu dài của mình, đây là lần đầu tiên được Thiên Chúa loan báo là Ngài thứ tha tội vạ của dân và cho họ được hồi hương trở về quê cha đất tổ. Sứ điệp tràn đầy hy vọng.
2. Thời kỳ Thiên Chúa tha thứ:
“Thời phục dịch của thành đã mãn”. Chúng ta gặp lại hình ảnh nầy trong các đoạn văn Cựu Ước khác như G 7: 1: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?”. Hình ảnh này được dùng ở đây để diễn tả thời kỳ gian khổ cùng cực.
“Thành đã bị tay Chúa giáng phạt gấp hai so với tội phạm”. Chúng ta có thể hiểu diễn ngữ “gấp hai” nếu chúng ta khảo sát hai thử thách lớn lao mà dân phải gánh chịu: một mặt, cuộc lưu đày ở Ba-by-lon và mặt khác, cuộc tàn phá Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Nhưng diễn ngữ nầy đơn giản muốn nói đến muôn vàn khổ đau mà dân phải chịu.
Ghi nhận quan trọng nầy sẽ xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị và gợi lên nguồn cảm hứng cho các bài thơ về “Người Tôi Tớ đau khổ”. Dân Chúa chọn, người tôi tớ Thiên Chúa, đã kinh qua một sự thử thách thanh tẩy. Quả thật, ơn tha thứ của Thiên Chúa thì nhưng không. Tuy nhiên, qua những đau khổ dài lâu mà dân phải chịu, cũng như qua việc Thiên Chúa biểu lộ vinh quang của Ngài bằng việc cứu thoát dân, những người lưu đày sẽ bày tỏ cho muôn dân thấy “Thiên Chúa phán như thế nào, Ngài sẽ thực hiện đúng như vậy”.
Đó là ơn gọi của dân Ít-ra-en, với tư cách là người tôi tớ Đức Chúa: chuẩn bị những nẻo đường cứu độ cho muôn dân. Chúng ta thoáng thấy ươm mầm ý tưởng về giá trị của những đau khổ mà những người công chính, nhóm kiên trung còn sót lại, phải chịu để công chính hóa mọi người. Nhóm còn sót lại này, một ngày kia sẽ là “Người Tôi Tớ hoàn hảo”, chính là Đức Ki tô.
3. “Hãy mở một con đường cho Chúa”:
Để trở về quê cha đất tổ, đoàn người lưu đày sẽ phải băng qua hoang địa. Họ phải đặt trọn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng sẽ ở bên cạnh dân Ngài và đích thân dẫn dắt dân Ngài. Sứ giả hô lớn: “Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Chúa; giữa đồng hoang, hãy vạch một con lộ thẳng băng cho Chúa chúng ta”.
Cuộc hành trình băng qua hoang địa dưới sự che chỡ và hướng dẫn của Thiên Chúa, viễn cảnh nầy gợi lên rằng Thiên Chúa sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ cho những tù nhân Ba-by-lon, như xưa kia Ngài đã thực hiện cho cha ông họ: giải thoát họ ra khỏi cảnh đời nô dịch ở bên Ai-cập và dẫn đưa họ về miền Đất Hứa. Cuộc Tân Xuất Hành này sẽ bày tỏ vinh quang Thiên Chúa, qua đó muôn dân sẽ hiểu rằng “chính miệng Thiên Chúa đã phán như vậy”, nghĩa là Thiên Chúa trung thành với những gì Ngài đã hứa, Ngài sẽ thực hiện những dự định của Ngài. Dân Ít-ra-en sẽ là chứng nhân về ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa: “Mọi người phàm sẽ cùng được thấy”.
4. “Loan tin mừng”:
“Hỡi kẻ loan tin mừng cho Xi-on, hãy trèo lên núi cao…”. Chính ở nơi bản văn nầy mà những Ki-tô hữu tiên khởi đã mượn thuật ngữ “Tin Mừng” để chỉ Mặc Khải Đức Giê-su Ki-tô mang đến. Vì thế, chúng ta ở tận nguồn của thần học về “Tin Mừng”.
Ấy vậy, “Tin Mừng” nầy phải được lớn tiếng công bố từ trên đỉnh non cao để khắp các thành xứ Giu-đa có thể nghe được là gì? Đó là Thiên Chúa đích thân đến cứu dân Ngài, giải thoát những kẻ bị giam cầm, dẫn đưa họ về quê hương đích thật của mình. Ngài không còn dung thứ những điều gian ác mà dân Ngài phải chịu.
Vị ngôn sứ tưởng tượng cuộc hồi hương về Giê-ru-sa-lem như một đám rước khải hoàn. Nhưng ông tô đậm chân dung vị lãnh đạo toàn thắng qua hình ảnh người mục tử ân cần trìu mến đối với đàn chiên của mình. Thiên Chúa tha thứ và dẫn đưa dân Ngài trở về miền Đất Hứa trước hết là vị Thiên Chúa Tình Yêu.
Đó là hình thức đầu tiên của Tin Mừng, tiên báo một cuộc giải thoát khác, một sự tha thứ có tính quyết định hơn và phổ quát hơn, và cũng tiên báo một đám rước khải hoàn khác: đám rước của những người được tuyển chọn về thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
BÀI ĐỌC II (2Pr 3: 8-14)
Ngay đầu thư, thánh Phê-rô tự giới thiệu mình: “Tôi là Si-mê-ôn Phê-rô, tôi tớ và Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô…”. Bức thư chắc chắn chứa đựng những lời căn dặn sau cùng của thánh nhân (ngài gợi lên cái chết gần kề của mình). Tuy nhiên, xem ra đây là một di cảo, được một trong số các môn đệ của thánh nhân biên soạn lại và bổ sung để đương đầu với những hoàn cảnh mới.
Quả thật, những đề tài được đề cập đến trong đoạn trích hôm nay sẽ được hiểu tốt hơn, nếu như chúng được đặt vào trong bối cảnh muộn thời hơn. Thế hệ của các Tông Đồ và của những môn đệ truyền chân đã qua. Ấy vậy, Đức Ki-tô đã hứa là Ngài sẽ trở lại, nhưng thế hệ Ki-tô hữu hậu Tông Đồ chờ mãi vẫn không thấy ngày Chúa trở lại. Vì thế, họ ngạc nhiên, phản kháng và ngờ vực. Để trả lời cho vấn nạn nầy, một cộng tác viên của thánh Phê-rô đưa ra ba luận chứng:
1. Khái niệm thời gian:
Thời gian là của Chúa chứ không của chúng ta. Tác giả trích dẫn thích đáng ý của Tv 90:
“Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi!” (Tv 90: 4).
2. Thiên Chúa trì hoãn vì lòng xót thương:
Đức Ki-tô đến chậm vì để cho mọi người có thời gian ăn năn hối cải. Chúng ta cũng gặp lại suy tư nầy của thánh Phao-lô trong thư gởi các tín hữu Rô-ma: “Thưa anh em, tôi không muốn anh em chẳng hay biết mầu nhiệm này, để anh em đừng tự cho mình là khôn, đó là: một phần dân Ít-ra-en đã ra cứng lòng, cho đến khi các dân ngoại gia nhập đông đủ” (11: 25).
3. Thiên Chúa trung tín với những lời Ngài đã hứa:
Việc Ngài trở lại là điều chắc chắn. Nhưng lúc đó là ngày cùng tận của thế giới (vậy tại sao phải hối thúc chứ?). Tác giả bức thư gợi lên ngày ấy bằng những hình ảnh quen thuộc của truyền thống khải huyền.
Đoạn ông khéo léo kết luận: bởi vì Thiên Chúa sẽ canh tân mọi sự cho những ai được Ngài tuyển chọn, thế nên, “trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải nên tinh tuyền, không gì đáng trách, để được bình an trước mặt Chúa”.
TIN MỪNG (Mc 1: 1-8)
Đoạn Tin Mừng hôm nay là phần mở đầu của sách Tin Mừng theo thánh Mác-cô được cấu trúc như sau:
1. Nhan đề (1: 1)
2. Sứ mạng của Gioan Tẩy Giả (1: 2-8)
A. Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2-3)
B. Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 4-6)
C. Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8).
1. Nhan đề (1: 1).
Sách Tin Mừng Mác-cô không mở đầu với Tựa Ngôn như sách Tin Mừng Gioan, cũng không cuộc đời Thơ Ấu của Đức Giê-su như sách Tin Mừng Mát-thêu và sách Tin Mừng Lu-ca, nhưng với một nhan đề: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su, Đấng Ki tô, Con Thiên Chúa”. Với nhan đề nầy, ngay từ đầu, thánh Mác-cô loan báo sách được chia thành hai phần:
- Phần thứ nhất (1: 2-8: 30): Đức Giê-su dần dần vén mở sứ mạng của mình: Ngài là “Đấng Ki-tô”. “Đấng Ki-tô” được phiên âm từ từ Hy lạp “Christos”, xuất xứ từ nguyên ngữ Do thái “Đấng Mê-si-a”, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa xức dầu và đặc phái đến để thiết lập Vương Quốc của Ngài vào thời cánh chung. Như vậy, trong phần thứ nhất, thánh Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình cùng với thánh Phê-rô và các môn đệ đến chỗ nhận biết và tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô” (8: 29). Nhưng vào thời Đức Giê-su, tước hiệu “Đấng Ki-tô” rất dể ngộ nhận. Dân Do thái sau một thời gian dài bị đế quốc nầy đến đế quốc khác thống trị và áp bức, nên mong chờ một vị vua trần thế được Thiên Chúa ban quyền năng để đánh đông dẹp tây, mở rộng vương quyền và đem lại cảnh thái bình thịnh trị cho dân tộc mình.
- Phần hai (8: 31-16: 20): Đấng Ki-tô bày tỏ cho các môn đệ chân tính của Ngài là “Con Thiên Chúa”. Danh xưng nầy cũng là một trong những tước hiệu của Đấng Ki-tô. Các vua Phương Đông thời xưa cũng thường tự xưng mình là “thiên tử”. Nhưng Đức Giê-su dần dần bộc lộ cho thấy mối quan hệ đặc biệt mật thiết và độc nhất của Ngài với Thiên Chúa, mà Ngài gọi là Cha của mình. Chính Ngài công bố long trọng tước hiệu này trước vị thượng tế (14: 61-62). Các môn đệ phải qua một thời gian dài mới khám phá ra nơi bản thân Chúa Giê-su chính là Thiên Chúa đến sống giữa con người, và nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của mình, Ngài giải thoát loài người khỏi quyền lực Sự Dữ và Cái Chết. Trong phần thứ hai nầy, thánh Mác-cô muốn dẫn đưa độc giả của mình tới lời tuyên xưng đức tin sâu sắc hơn, được thốt ra từ miệng viên sĩ quan Rô-ma, dưới chân thập giá: “Quả thật, người nầy là Con Thiên Chúa” (15: 39).
Như vậy, với nhan đề nầy cho toàn bộ sách Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô xác định rất rõ rằng sách không kể cho chúng ta “tiểu sử cuộc đời” của Đức Giê-su, nhưng là một “Tin Mừng” về ơn cứu độ loài người được thể hiện cách độc đáo nơi bản thân Đức Giê-su quê Na-da-rét, Ngài là “Đấng Ki-tô” và là “Con Thiên Chúa” qua cái mâu thuẫn của thập giá. Chính Đức Giê-su là “Chúa” đến viếng thăm dân Ngài, không phải trong quyền uy xét xử, nhưng trong cái yếu hèn của một tình yêu trao tặng.
2. Sứ vụ của Gioan Tẩy giả (1: 2-8):
Câu 1 không chỉ là nhan đề của toàn bộ Tin Mừng Mác-cô nhưng cũng là nhan đề của của phần dẫn nhập (1: 1-15), phần dẫn nhập này được phân định bởi kiểu hành văn đóng khung rất quen thuộc của người Do thái, bắt đầu với chữ “Tin Mừng” ở câu 1 và kết thúc với chữ “Tin Mừng” ở câu 15. Thuật ngữ “Tin Mừng” xuất xứ từ sách I-sai-a (Is 40: 9; 52: 7; 61: 1..) được dùng ở đây để loan báo một biến cố vui mừng có một tầm mức quan trọng bậc nhất, đó là Đức Giê-su, Ngài là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa.
Phần dẫn nhập nầy bắt đầu với sứ vụ của Gioan Tẩy giả, người đi trước dọn đường cho Đức Giê-su. Theo cách thức nầy, Tin Mừng Mác-cô trung thành với lược đồ rao giảng của các Tông Đồ như được gặp thấy trong sách Công Vụ (1: 21t; 10: 37; 13: 24). Trong bộ Kinh Thánh, sách Sáng Thế cũng mở đầu với diễn ngữ: “Khởi đầu”. Gioan Tẩy Giả loan báo Tin Mừng về Đức Giê-su, là Đấng Ki-tô và là Con Thiên Chúa, Ngài đến để đánh dấu một khởi đầu tận căn, một khởi nguyên mới, kỷ nguyên cứu độ.
A. Chứng từ của các ngôn sứ (1: 2):
Ngay từ những hàng đầu tiên, thánh Mác-cô nêu bật hai điểm khác biệt với các thánh ký khác. Trước tiên, các thánh ký nầy cũng đều trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a: “Có một tiếng kêu trong hoang địa…” nhưng sau khi đã nêu lên sứ vụ của Gioan Tẩy giả (x. Mt 3: 3; Lc 3: 4; Ga 1: 23). Thứ đến, trước khi trích dẫn sấm ngôn của I-sai-a, thánh Mác-cô trích dẫn một sấm ngôn khác: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước Con, để dọn đường cho Con đến”, sấm ngôn này được đúc kết bởi hai bản văn Cựu Ước khác nhau: Xh 23:20 và Ml 3:1.
Trong Xh 23: 20, Thiên Chúa nói với ông Mô-sê: “Nầy Ta sai sứ thần đi trước con, để gìn giữ con khi đi đường…”. Ngôn sứ Ma-la-khi lập lại lời nầy nhưng với một ý nghĩa mới: “Nầy Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (3: 1). Trong sấm ngôn của Ma-la-khi, Thiên Chúa sai “sứ giả” của Ngài đến trước dọn đường để “Ngài đích thân đến với dân Ngài”. Thật ra, thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca cũng trích dẫn sấm ngôn nầy, nhưng trong một bối cảnh khác và được đặt trên môi miệng của Đức Giê-su (Mt 11: 10; Lc 7: 27).
Vị sứ giả trong sấm ngôn nầy là ai? Chúng ta gặp thấy căn tính của vị sứ giả nầy ở Ml 3: 23: “Nầy Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Đức Chúa đến, ngày trọng đại và huy hoàng”. Trong 2V 2: 11, ngôn sứ Ê-li-a không chết nhưng được rước về trời trong một cỗ xe đỏ như lửa với những con ngựa kéo cũng đỏ như lửa. Vì thế, theo truyền thống Do thái mãi cho đến thời Chúa Giê-su, vị sứ giả Ê-li-a sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa đến..
Sấm ngôn thứ hai được trích dẫn từ Is 40: 3 (bài đọc I): “Có một tiếng hô: Trong sa mạc, hãy mở một con đường cho Đức Chúa, giữa đồng hoang, hãy vạch một lộ thẳng băng cho Thiên Chúa chúng ta”. Vị ngôn sứ loan báo cho những những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng Thiên Chúa sắp can thiệp để giải thoát họ khỏi kiếp sống tù đày. Các tác giả Tin Mừng cũng đã thấy ở nơi “tiếng hô nầy” tiên báo Gioan Tẩy Giả, vị tiền hô của Đức Giê-su, ông có sứ mạng đến trước để dọn đường cho Đức Giê-su đến. Ở nơi lệnh truyền nầy: thung lũng sẽ được lấp đầy, núi đồi sẽ phải bạt xuống, chúng ta gặp thấy cũng một lời dạy như Gioan Tẩy Giả: phải thay lòng đổi dạ, biến đổi sa mạc tâm hồn thành miền đất thấm đẩm thiên ân, hủy bỏ những quanh co uốn khúc của sự gian tà.
Theo phương cách trích dẫn phổ biến vào thời đó, thánh Mác-cô gán toàn bộ lời trích dẫn nầy cho ngôn sứ I-sai-a, bởi vì chúng có chung một đề tài: “dọn đường để đón tiếp Thiên Chúa”. Như vậy, khi khai mạc sứ vụ của Gioan Tẩy giả bằng lời trích dẫn nầy, thánh Mác-cô muốn cho thấy rằng việc Đức Giê-su đến đã được Cha Ngài chuẩn bị trước đó rồi và ơn gọi của Gioan Tẩy giả, vị Tiền Hô của Con Ngài, được dự kiến lâu lắm rồi trong kế hoạch của Thiên Chúa. Chính Gioan Tẩy giả là ngôn sứ Ê-li-a, mà truyền thống Do thái mong đợi, trở lại để dọn đường cho Chúa và việc ông xuất hiện cho thấy Thiên Chúa vẫn trung thành với những lời Ngài đã hứa. Thời gian đã đến hồi viên mãn.
B. Hoạt động và lối sống của Gioan Tẩy giả (1: 3-6).
Chúng ta lưu ý rằng khi trích dẫn sấm ngôn I-sai-a, thánh Mác-cô đã tự ý ngắt câu cho phù hợp với hoàn cảnh hiện nay của Gioan Tẩy Giả. Thay vì “Có tiếng hô: Trong sa mạc…”, thánh ký đổi thành “Có tiếng người hô trong hoang địa…”. Quả thật, Gioan Tẩy giả đã ẩn cư trong hoang địa ngay từ thuở thanh xuân để chuẩn bị sứ mạng của mình trong thinh lặng và chiêm niệm cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en (Lc 1: 80), như Đức Giê-su sẽ rút vào trong sa mạc trước khi khởi đầu sứ mạng của mình.
Đây là sa mạc Giu-đa có dòng sông Gio-đan chảy băng qua và đổ vào Biển Chết. Phải chăng thánh Gioan thuộc vào cộng đoàn Kum-ran, có mặt ở trong miền nầy và sống trong sự chờ đợi Đấng Mê-si-a? Hay đơn giản ông có giao tiếp với cộng đoàn nầy? Phải nói rằng có rất nhiều điểm giống nhau giữa linh đạo của các nhà khổ hạnh Qum-ran và linh đạo của thánh nhân, nhưng cũng có rất nhiều điểm dị biệt.
Dù thế nào, sa mạc là nơi ẩn cư quen thuộc của những nhà thần bí vĩ đại thời Cựu Ước và là nơi ưu tiên cho những cuộc gặp gở với Thiên Chúa, như Mô-sê, Ê-li-a vân vân. Cũng như chính trong sa mạc mà dân Ít-ra-en đã trải qua những kinh nghiệm tôn giáo hình thành nên những mốc điểm lịch sử của dân tộc mình.
Lời kêu gọi sám hối là đề tài thường hằng của truyền thống ngôn sứ. Gioan Tẩy giả là vị ngôn sứ cuối cùng tiếp tục truyền thống nầy, nhưng ông thêm vào đây phép rửa. Không phải trong sa mạc mà nước mặc lấy tất cả giá trị và ý nghĩa tròn đầy của nó sao? Nước đem lại sự sống và biểu tượng ơn cứu độ.
Gioan Tẩy giả sống theo lối sống khổ hạnh: “Ông mặc áo lông lạc đà, thắt đai lưng bằng da, ăn châu chấu và mật ong rừng”. Qua việc mô tả cách ăn mặc của Gioan giống như ngôn sứ Ê-li-a (1V 1: 8), thánh Mác-cô muốn thông báo rằng Gioan Tẩy giả chính là ngôn sứ Ê-li-a tái xuất hiện mà mọi người đang mong đợi. Ngoài ra, qua việc mô tả tỉ mĩ cách sống khổ hạnh của Gioan tẩy giả trong hoang địa cô tịch, thánh Mác-cô ngầm trình bày hình ảnh tương phản với Đức Giê-su: Ngài giao tiếp gần gũi với đủ hạng người ở ngoài xã hội, cùng ăn cùng uống, cùng chia sẻ cuộc sống vui, buồn, sướng khổ với họ. Quả thật, Tin Mừng Mác-cô cống hiến cho chúng ta hình ảnh rất là người của Đức Giê-su: Ngài ngủ say giữa cơn giông tố (4: 38), Ngài ngạc nhiên về việc các người đồng hương của Ngài thiếu niềm tin (6: 6), Ngài không có thì giờ ăn uống (6: 31), Ngài không biết khi nào ngày Thế Mạc sẽ đến (13: 32), nhất là Ngài chết như một kẻ tuyệt vọng (15: 34). Nhưng chính ở nơi tính chất rất là người nầy, thánh Mác-cô có ý định dẫn đưa người đọc vào mầu nhiệm của Đức Giê-su, Đấng Ki-tô và Con Thiên Chúa.
C. Chứng từ của Gioan Tẩy giả (1: 7-8).
Chứng từ của Gioan Tẩy giả về Đức Giê-su là cao điểm của đoạn Tin Mừng hôm nay. Sứ điệp của ông làm xáo động lòng người. Uy tín của ông quá lớn đến độ dân chúng khắp nơi tuôn đến với ông. Tuy nhiên, ông ý thức sâu xa về sự cao vời khôn ví của Thiên Chúa. Ông công bố quyền năng vượt bậc của Đấng mà ông có sứ mạng chuẩn bị cho việc Ngài đến khi sử dụng hình ảnh rất tương phản để diễn tả sự bất xứng của mình như tên nô lệ trước mặt chủ, cả đến việc cúi xuống cởi dép cho Ngài ông cũng chẳng xứng đáng nữa: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cỏi dép cho Người”.
Nhất là ông nhận biết sự khác biệt căn bản giữa phép rửa của ông và phép rửa của Đức Giê-su: ông chỉ rửa trong nước, còn Đức Giê-su thì rửa trong Thánh Thần. Điều làm cho Đức Giê-su trổi vượt hẳn vị Tiền Hô của Ngài, đó là Ngài là Đấng sở hữu Thánh Thần (x. 1: 10).
Danh tiếng của Gioan Tẩy giả vào thời đó không thể nào chối cải. Sách Công Vụ nói với chúng ta rằng ngay cả sau khi ông đã qua đời rất lâu sau đó, các cộng đoàn môn đệ của ông vẫn tồn tại (Cv 18: 24-25; 19: 1-7). Họ đề cao ông là “Đấng Mê-si-a” (Ga 1: 19-34). Như thế ngay từ trang đầu tiên Tin Mừng của mình, thánh Mác-cô đã đặt Gioan Tẩy giả vào đúng vị thế của ông: sứ mạng của ông chỉ là loan báo và chuẩn bị cho việc Đức Giê-su, Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su mới là Tin Mừng mà Gioan có sứ mạng loan báo cho hết mọi người.
41.Biến đổi
Anh chị em thân mến.
Vấn đề thời sự nóng bỏng hiện nay là vấn đề giao thông. Rất nhiều công trình giao thông hiện đại đã được thực hiện trong thời gian qua, từ thành thị đến nông thôn đều có những công trình mới, những làng quê xa xôi hẻo lánh, giờ đây cũng được tiếp xúc với nền văn minh hiện đại là nhờ những công trình giao thông, nhờ những con đường thuận tiện và dể dàng. Nhưng niềm vui mừng còn đó, thì những khó khăn cũng liền theo; những con đường hiện đại nhưng lại kém phẩm chất, nhìn bên ngoài, nó tạo niềm vui cho con người một thời gian ngắn, nhưng mang lại những phiền toái và tai nạn thì rất nhiều. Những con đường tốt lành có chất lượng mang lại niềm vui và sự an toàn, còn những con đường kém phẩm chất thì thật là nguy hại.
Trong tâm tình của Mùa vọng, chúng ta vừa nghe lời kêu mời: “Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng…”. Dọn đường cho trống để không còn một cản trở hay một chướng ngại vật nào trên có thể gây nguy hiểm. Dọn đường để chuẩn bị những gì cần thiết trên đường, không có những gì bất ngờ xảy đến. Sửa đường Chúa cho ngay thẳng để người đi. Dọn cho trống mới thấy được những gì cần phải sửa, phải thay đỗi và mạnh dạng thi hành thì con đường mới nên hoàn hảo. Sửa chửa tận căn để có con đường thật sự có giá trị vững bền, cái giá trị không cần ai biết đến, nhưng khi Thiên Chúa cần dùng thì nó bảo đảm được chất lượng và giá trị cần thiết. Như thế mới là con đường thật sự cho Chúa đến, con đường mà Gioan Tẩy Giả kêu mời mọi người.
Lời kêu mời của vị Tiền hô đã vang lên hơn 2000 năm qua. Hôm nay một lần nữa lại vang lên như tiếng kêu trong sa mạc vô vọng. Ngày xưa tiếng kêu trong sa mạc, đã được mọi người đáp ứng và chạy đến tỏ lòng ăn năn sám hối. Nhưng ngày nay một lần nữa tiếng kêu mời đó vang lên rồi lại đi vào quên lãng như bao lần khác nữa sao?
Mỗi người trong chúng nhìn lại xem: đã bao Mùa Vọng đến trong cuộc đời, đã bao lần lời kêu mời của vị tiền hô vang lên, và cũng đã bao lần như thế nó lại qua đi mà không để lại một chút ấn tượng gì trong ta, vì chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.
Nhìn lại chính mình: chúng ta vẫn ngồi yên bất động trong cuộc sống hiện tại. Bản thân không có gì thay đổi, vẫn những toan tính, những suy nghĩ, những hành động, những sự nóng vội, những câu nói bất cẩn và không bao giờ chú ý đến những người chung quanh đang cần gì. Biết bao nhiêu lý do của hoàn cảnh làm cho đời sống của mình bị cuốn đi không thể nào dừng lại được. Hiện tại chúng ta không biết mình đang đi về đâu, vì khả năng nghe và nhìn không còn nữa. Hay chúng ta cũng đang đỗi mới để cho mọi người nhìn thấy, qua những cử chỉ bên ngoài như là hưởng ứng phong trào cho vui. Hoặc là lời kêu mời vẫn vang lên, nhưng là lời để cho người khác, còn chính bản thân mình không cần thiết, vì mình tự cảm thấy đã an toàn, và bằng lòng với những gì của hiện tại.
Những người của ngày xưa, họ biết cần phải sám hối, cần thay đổi, nên họ từ khắp nơi mà đến với lời kêu mời. Còn chúng ta những người của thời hiện đại, không lẽ lại phải nghe và thực hiện những gì của ngày xưa sao? Vậy thì làm sao tiến được? Mặc dù những lời của ngày xưa, nhưng nó vẫn còn là vấn đề thời sự và rất hiện đại.
Nếu chúng ta nghe lời kêu mời và nhìn thấy được những sai lầm của mình trong cuộc sống, dám can đảm từ bỏ những gì không đúng, không phải để biết làm lại cho tốt hơn, khi đó giá trị cuộc đời đang đổi mới và được nâng cao cho bản thân chúng ta.
Nếu chúng ta biết lắng nghe, mà nhìn thấy những yếu đuối, những thiếu sót của cuộc sống, để can đảm hơn, siêng năng hơn, làm tốt những gì cần phải làm, khi đó con đường cuộc sống của bản thân đang được sửa đỗi. Như thế lời mời gọi của năm xưa vẫn còn có giá trị. Như thế Chúa có thể đến được với chúng ta mà không bị một chướng ngại nào ngăn cản. Như thế, một lần nữa Mùa Vọng đến với chúng ta mang một chất lượng có giá trị thật sự. Tiếng kêu của vị tiền hô không còn là tiếng kêu trong sa mạc vô vọng, mà là tiếng kêu đã có lời đáp.
Chúng ta cùng nhau cầu cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe Lời Chúa và can đảm thi hành theo những gì chúng ta lắng nghe.
Các tin khác
.: GIẢNG CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH (03/05/2025) .: Làm theo Lời Chúa (03/05/2025) .: Có Chúa nâng đỡ (03/05/2025) .: Thiên Chúa không bỏ con người (03/05/2025) .: Bữa ăn trên bờ biển (03/05/2025) .: Con có yêu mến Thầy không? (03/05/2025) .: Yêu mến Chúa (03/05/2025) .: Cơ hội chuộc lỗi cho Phêrô (03/05/2025) .: Vận mệnh tương lai của Giáo Hội (03/05/2025) .: in và Yêu là điều kiện nhận ra Chúa (03/05/2025) .: Mầu nhiệm Giáo Hội. (03/05/2025) .: Thủ lãnh Giáo Hội (03/05/2025) .: Sứ mạng phục vụ (03/05/2025) .: Cùng Ngư Phủ Phêrô ra khơi (03/05/2025) .: Mẻ lưới. (03/05/2025)
Mục lục Lưu trữ
- Văn Kiện Giáo Hội
- Giáo Hội Công Giáo VN
- Tin Ngắn Giáo Hội
- Tài Liệu Nghiên Cứu
- Tủ Sách Giáo Lý
- Phụng Vụ
- Mục Vụ
- Truyền Giáo
- Suy Niệm Lời Chúa
- Lời Sống
- Gợi Ý Giảng Lễ
- Hạnh Các Thánh
- Sống Đạo Giữa Đời
-
Cầu Nguyện & Suy Niệm
- Cầu Nguyện
- Suy Niệm
- Cầu Nguyện Là Gì?
- Cầu Nguyện Từ Mọi Sự Vật
- Suy Niệm Đời Chúa
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm, (Mùa Vọng -> CNTN) - Năm A
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Chay
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A - Mùa Phục Sinh
- Mỗi Ngày Năm Phút Suy Niệm - Mùa Chay, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa - Tuần Thánh - Phục Sinh, C
- Năm Phút Suy Niệm Lời Chúa Mỗi Tuần Thường Niên C
- Năm Phút Suy Niệm, Năm B (2011-12)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm C (2012-13)
- Năm Phút Suy Niệm, Năm A (2013-14)
- Cầu Nguyện Chung
- Suy Tư Và Thư Giãn
- Thánh Ca Việt Nam
- Phúc Âm Nhật Ký
- Thơ
- Electronic Books (Ebooks)
- Vatican
- Liên HĐGM Á châu
- Đài Phát thanh Chân lý Á châu - Chương trình Việt ngữ
- Giáo phận Bà Rịa
- Giáo phận Ban Mê Thuột
- Giáo phận Bắc Ninh
- Giáo phận Bùi Chu
- Giáo phận Cần Thơ
- Giáo phận Đà Lạt
- Giáo phận Đà Nẵng
- Tổng Giáo phận Hà Nội
- Giáo phận Hải Phòng
- Tổng Giáo phận Huế
- Giáo phận Hưng Hóa
- Giáo phận Kon Tum
- Giáo phận Lạng Sơn
- Giáo phận Long Xuyên
- Giáo phận Mỹ Tho
- Giáo phận Nha Trang
- Giáo phận Phan Thiết
- Giáo phận Phát Diệm
- Giáo phận Phú Cường
- Giáo phận Qui Nhơn
- Giáo phận Thái Bình
- Giáo phận Thanh Hóa
- Tổng Giáo phận TP HCM
- Giáo phận Vinh
- Giáo phận Vĩnh Long
- Giáo phận Xuân Lộc
- Ủy ban BAXH-Caritas Việt Nam
- Ủy ban Công lý và Hòa bình
- Ủy ban Giáo dục Công giáo
- Ủy ban Giáo lý Đức tin
- Ủy ban Kinh Thánh
- Ủy ban Mục vụ Di dân
- Ủy ban Mục vụ Gia đình
- Ủy ban Nghệ Thuật Thánh
- Liên hiệp Bề trên Thượng cấp Việt Nam