Flag Counter

Tìm hiểu giáo lý

Thống kê truy cập

Đang online: 75

Tổng truy cập: 1356303

ĐÓN TIẾP CHÚA TRONG SỰ TẦM THƯỜNG

ĐÓN TIẾP CHÚA TRONG SỰ TẦM THƯỜNG

Hôm nay, thánh sử Marcô thuật lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu trở về quê quán của Ngài là làng Nazareth nhưng lại bị dân làng từ chối đón tiếp. Lý do của họ rất đơn giản. Chỉ vì họ quá quen Ngài.

Có lẽ nhiều người trong họ đã cùng lớn lên với Ngài, cùng chung tuổi trẻ với Ngài, và làm việc thờ phượng chung với Ngài nơi hội đường. Họ quen biết từ lời Ngài nói, việc Ngài làm, và tất cả hoàn cảnh gia đình của Ngài. Họ biết Ngài như một người thường, là con của Ông Giuse và Bà Maria cũng là những người thường.

Hôm nay bỗng dưng Chúa trở về quê, giảng dạy và làm những phép lạ mà từ xưa tới nay chưa có ai làm được. Họ sửng sốt và kinh ngạc về những lời nói việc làm của Chúa, nhưng vì quá quen hoàn cảnh gia đình của Chúa, vì nghĩ Chúa là người cùng làng, chẳng có gì hay, chẳng có gì khác hơn họ, nên họ đã không nhận ra được bàn tay Thiên Chúa ở giữa họ, không chấp nhận được Thiên Chúa ở trong Ngài, và không tin Ngài có thể đem Tin Mừng nước Chúa đến cho họ. Đã không thể nhận ra Ngài là Thiên Chúa, họ còn coi thường và khinh thị Ngài nữa.

Thái độ của dân làng Nagiarét đôi khi cũng là thái độ của mỗi người chúng ta. Nhiều khi quen việc gì hay người nào lâu, chúng ta dễ nhàm chán coi thường. Lẽ ra càng ở gần người nào lâu, chúng ta càng thêm lòng quí mến, kính trọng, mới đúng, nhưng oái ăm thay chúng ta lại dễ coi thường.

Cái nhược điểm lớn của chúng ta là vì quá quen thuộc nên nhiều khi chúng ta chỉ nhìn thấy khuyết điểm của nhau, những lỗi của nhau, thay vì nhìn thấy những sự tốt lành, những ơn cao cả mà mỗi người chúng ta có. "Gần chùa gọi bụt bằng anh" là vậy.

Tệ hơn nữa là nếu chúng ta lại có óc thành kiến. Sự thành kiến làm cho con người ra mù tối không nhận ra sự thật. Khi chúng ta đã yên trí người này người kia là thế này thế nọ rồi, chúng ta khó thoát khỏi sự coi thường hay khinh thị họ. Chúng ta đánh giá con người của họ thấp tháp và tầm thường. Cho dù họ làm gì, nói gì, chúng ta cũng không muốn nghe, không muốn chấp nhận. Dù họ có những ý kiến hay, việc làm tốt, chúng ta cũng có thể gạt qua và cắt nghĩa xấu cho họ.

Chuyện kể rằng, có một anh chàng bị mất búa, anh hồ nghi là anh hàng xóm lấy mất. Vì hồ nghi và yên trí nên từ đó anh nhìn tất cả những ngôn ngữ hành động của người hàng xóm là những ngôn ngữ hành động của kẻ trộm. Cũng may là anh tìm lại được búa sớm, nên người hàng xóm mới thoát khỏi tiếng mang tội ăn trộm. Quả thật, câu nói đeo kính đen thì nhìn cái gì cũng đen thật là như thế.

Sự thành kiến làm cho chúng ta mù, chỉ nhìn những gì chúng ta muốn nhìn, do đó khó nhận ra sự thật. Người thành kiến kéo mành cửa sổ tâm trí xuống không cho ánh sáng chân lý chiếu vào. Vì thế, họ không thể lớn lên trong trí thức cũng như tinh thần.

Thành kiến làm hại chúng ta, làm cho tâm hồn và tâm trí chúng ta ra nhỏ mọn, vậy chúng ta hãy cố gắng đừng để nó len lỏi vào tâm trí chúng ta, hãy tống nó ra khỏi đời sống chúng ta kẻo nó ngăn cản chúng ta lớn lên trong sự liên đới với Chúa và với anh chị em chúng ta.

Nếu tiêu diệt được óc thành kiến chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự hiện của Chúa trong cuộc đời, trong những biến cố nhỏ mọn quen thuộc của cuộc sống. Thật sự chúng ta không phải tìm Chúa ở đâu xa. Ngài hiện diện trong mọi người, mọi nơi, và mọi biến cố xảy đến với chúng ta. Ngài hiện diện qua sự tốt lành của những người thân, những người hàng xóm, những người chúng ta tiếp xúc hằng ngày.

Vậy, Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta đừng coi thường, đừng từ chối sự hiện diện của Chúa được bày tỏ qua sự tốt lành của gia đình, hay bạn bè thân thuộc của chúng ta. Chúng ta hãy cố gắng biết ơn và khen ngợi sự tốt lành chúng ta đang được hưởng. Thí dụ hãy cho người bạn đời của chúng ta một cử chỉ quí mến, những người đã nấu ăn cho chúng ta một lời khen tặng, những người hàng xóm đã thăm hỏi nói chuyện với chúng ta, hoặc những bạn bè thân thiết đã quan tâm, nâng đỡ, và dành cho chúng ta thời giờ quí báu một lời cám ơn chân thành.

Nếu chúng ta thực hiện những điều vừa nói trên là chúng ta đón tiếp Chúa Giêsu, đón tiếp sự hiện diện của Ngài trong những người quen, trong những biến cố rất quen thuộc của cuộc đời, để nhờ đó Ngài có thể thực hiện những sự lạ lùng nơi tâm hồn chúng ta.

 

29.Chúa Nhật 14 Thường Niên

(Suy niệm của Charles E. Miller - Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng”)

CÓ PHẢI CHÚA GIÊSU TRONG GIÁO HỘI

THÌ QUÁ NHIỀU CHO CHÚNG TA KHÔNG?

Hầu hết dân chúng hay hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình nhất là những người trẻ, chúng rất ngưỡng mộ những ngôi sao thể thao, những tài tử hoặc những chính trị gia. Chúng rất kiêu hãnh khi từ nơi chúng đã sản xuất ra những nhân vật quan trọng như thế. Vì sao dân chúng của chính thành phố nơi sinh trưởng của Chúa Giêsu lại từ bỏ Người? Phúc Âm nói rằng họ thấy Người có quá nhiều tài năng đối với họ. Quá nhiều đó là gì? Điều đó có ý nghĩa là Ngài làm quá nhiều theo ý kiến của họ, theo cái nhìn của họ, Ngài là một người bình thường, một người thợ mộc, là con của bà Maria. Ai đã làm cho Người trở nên một tiên tri?

Rao giảng như một tiên tri đã làm phát sinh ra sự thù nghịch nơi dân thành phố quê hương của Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu là một nhân vật thể thao, một tài tử, một chính trị gia, có lẽ Ngài không bị đe doạ bởi dân chúng. Họ đã kiêu hãnh về Người. Nhưng còn một tiên tri thì sao? Một tiên tri thì có thể sẽ bị mọi người từ bỏ. Tiên tri có thể giới thiệu thách đố hoặc là lời khiển trách. Tiên tri thì tuyên bố chân lý. Những láng giềng của Chúa Giêsu thì sợ Ngài. Từ sự sợ hãi dẫn đến sự từ bỏ. Dân chúng ở Nazareth trở nên giống như tổ tiên của họ, khi Thiên Chúa đã gởi tiên tri Ezekien đến. Họ đã cau mặt và có trái tim chai đá. Điều đó thật xấu hổ biết bao. Khi mà Chúa Giêsu thật sự còn hơn là một tiên tri nữa, chính Con Thiên Chúa đang ở giữa họ. Chúng ta cũng sẽ quay trở lại chống Chúa Giêsu không?

Chân lý này là Chúa Giêsu vẫn ở lại giữa chúng ta. Ngài nói với chúng ta khi Thánh Kinh được đọc lên trong nghi thức phụng vụ và Ngài đã dạy dỗ chúng ta qua những giáo huấn của Giáo Hội. Những lúc đó chúng ta có sợ lắng nghe không? Chúng ta có sợ phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ và hành động của chúng ta không? Chúng ta có khuynh hướng tự phơi bày chính mình qua những điểm giáo huấn khó khăn bởi vì chúng ta chứng minh vật chất thì có thể gây ra tranh luận và quá phức tạp? Chúng ta có tìm thấy rằng chúng ta có cái nhìn thiển cận đối với giáo huấn của Giáo Hoàng, các Giám mục không?

Công đồng Vatican II cảnh cáo về sự phá thai là một tội không lời nào tả được, mà nhiều xứ sở trong chúng ta lại nói rằng quyền chọn lựa thì quan trọng hơn quyền được sống. Đức Giáo Hoàng đã cảnh cáo chúng ta chống lại văn hoá sự chết, bằng cách làm rõ ràng trong việc trợ giúp tự tử và làm cho chết êm dịu. Cùng với các Giám mục, Đức Thánh Cha đã nài xin hình phạt tử hình chỉ sử dụng trong những trường hợp bất đắc dĩ, khi xã hội không thể ngăn ngừa được phạm nhân có thể phạm tội trở lại, và một số những chính trị gia đã bỏ phiếu ủng hộ việc lên án tử hình. Nhiều người trong số những chính trị gia này thì muốn đổ lỗi cho những dân nhập cư, có tài liệu chứng minh hoặc không có giấy tờ, hoặc đổ lỗi cho kinh tế toàn cầu của chúng ta, nhưng quan điểm của người Công Giáo là tất cả mọi người đều phải được kính trọng như con cái Thiên Chúa, và tất cả những người thuộc về xứ sở này đều đang trên con đường hành hương về nhà Cha.

Một số người tự cho mình là đúng khi họ tỏ ý coi thường bất cứ ai nhận trợ cấp của xã hội, họ khinh bỉ những ai lây nhiễm bịnh HIV, họ kết án những người mắc vào bệnh say sưa chè chén, họ nhìn cách khinh bỉ những người dân tộc thiểu số, những người mà chỉ là một nhóm nhỏ trên đất nước của họ. Ngay cả một số những người Công Giáo cũng đã minh chứng rằng Giáo Hội không được dính líu đến chính trị và chỉ lưu tâm đến những công việc cứu rỗi các linh hồn. Họ đã có một suy nghĩ sai lầm, bởi suy nghĩ chúng ta đang sống trong hai thế giới, một thế giới tôn giáo và thế giới thế tục. Họ kết luận rằng tôn giáo thì không được xâm chiếm vào thế tục. Sự thật là chúng ta chỉ sống trong một thế giới, thế giới của Thiên Chúa. Có phải Giáo Hội thì quá lớn đối với chúng ta không? Điều đó không phải như thế nếu chúng ta nhớ rằng Chúa Giêsu thì không chết. Người vẫn đang sống, Người vẫn tiếp tục nói với chúng ta qua những lời Thánh Kinh, qua những giáo huấn khác của Giáo Hội.

 

30.Sự cứng lòng tin

(Suy niệm của Anmai, CSsR)

Nhìn lại lịch sử cứu độ, Thiên Chúa luôn ở bên con người và Thiên Chúa dùng đủ mọi cách để tiếp cận với con người. Khi thì nói gián tiếp, khi thì nói trực tiếp, khi thì dùng người này, khi thì dùng người kia. Những người nói Lời Thiên Chúa cho dân là các ngôn sứ của Chúa. Các ngôn sứ chuyển tải thông điệp của Thiên Chúa cho dân.

Vì lẽ con người thường đi ngược với Thiên Chúa, con người không muốn sống trong vòng tay che chở của Thiên Chúa nên đã đi nghịch lại với thánh ý của Thiên Chúa và con đường mà Thiên Chúa vạch ra nên biết bao nhiêu lần tương quan giữa con người và Thiên Chúa đổ vỡ. Thiên Chúa là đấng chậm bất bình và giàu lòng thương xót đã không nỡ bỏ con người, Thiên Chúa dùng các ngôn sứ để tiếp tục răn đe có, an ủi có, khích lệ có. Đáng tiếc thay bản tính con người ngỗ nghịch nên những lời mà các ngôn sứ nói ra thì có người được đón nhận, có người bị khước từ và thậm chí có người còn bị giết.

Một trong những ngôn sứ thời Cựu Ước đã nói Lời Thiên Chúa đó là ngôn sứ Êdêkien, Êdêkien ý thức rõ rệt mình đã được sai đến trong một thời khủng hoảng: lúc mà Israel phải suy nghĩ lại về số mạng mình. Israel đang bị xâu xé phân chia theo nhiều hướng: hãnh diện trong hiện tại, tủi hổ nghĩ đến thời xưa, tin cậy, và ngã lòng hối hận; hèn nhát mà cũng gan dạ, Êdêkien cũng như các ngôn sứ trong thời lưu đày đã đặt nền móng cho một nền tảng mới đó là lòng tin vào Thiên Chúa.

Đoạn sách mà chúng ta vừa nghe cho chúng ta biết sứ mạng mà Thiên Chúa gửi Ngài đến với dân: "Hỡi con người, chính Ta sai ngươi đến với con cái Israel, đến với dân phản nghịch đang nổi loạn chống lại với Ta; chúng cũng như cha ông đã nổi lên chống lại Ta mãi cho đến ngày nay. Những đứa con mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, chính Ta sai ngươi đến với chúng: 'Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này'. Còn chúng, vốn là nòi phản loạn, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng". (Ed 2, 2-5). Rõ ràng chúng ta thấy sứ mạng của Êdêkien. Không chỉ mình Êdêkien nhưng nhiều và ngôn sứ cùng chung chịu số phận như Êdêkien.

Trang tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Máccô thuật lại không còn là xa lạ với chúng ta. Trang Tin mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta về hình ảnh Con Một Thiên Chúa. Các ngôn sứ nói, con người không chịu nghe, Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Ngài xuống để nói cho dân nhưng hình như dân cũng đâu có nghe. Hôm nay, Chúa Giêsu trở về quê hương, mang theo sứ điệp cứu độ nhưng đáng tiếc thay Ngài đã đụng đầu với sự cứng lòng tin của những người đồng hương quen thân.

Trình thuật này có thể qui chiếu tới bối cảnh nơi Mc 3, 20-35 ở đó Chúa Giêsu bị hiểu lầm và nghi ngờ, song cũng ở đó sứ điệp thần học về Đấng Thiên sai cứu độ được phác họa một cách hùng hồn. Cũng thế, thảm trạng cứng tin của dân làng Nadaret là một thứ mặt phản tương của mầu nhiệm đức tin.

Để thấy rõ hơn ý nhắm thần học của Máccô, chúng ta thử lưu ý đến lược đồ câu chuyện của thánh ký:

+ Trước hết đó là thái độ kinh ngạc thán phục của những kẻ nghe lời giảng dạy và nghe biết các phép lạ (c. 2)

+ Vấn nạn về lý lịch của Chúa Giêsu (c. 3a)

+ Phản ứng cứng tin (c. 3b)

Đó là một thứ lược đồ về mầu nhiệm cứng tin, mặt phản tương của mầu nhiệm đức tin (x. Lc 4,16-30; Ga 7,14-29). Nếu so sánh với bản văn Gioan chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy ý nghĩa:

Mc 6,1-6a và Gioan 7,14t

Câu 2: Người lên tiếng giảng dạy trong Hội đường. Nhiều người ngạc nhiên mà rằng: BỞi đâu ông ấy được như thế? Và là gì vậy sự khôn ngoan ban xuống cho ông?

Câu 14: Chúa Giêsu lên đền thờ và giảng dạy. Người Do Thái bỡ ngỡ mà rằng: làm sao ông ấy đã chẳng theo học mà lại thông hay chữ nghĩa

Câu 3a: Ông ấy không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giosê, Giuđa, Simon đó sao? Các chị em của ông không ở giữa chúng ta sao?

Câu 27: Nhưng ông ấy, chúng ta đã biết tự đâu ra, còn Đức Kitô khi Người đến, thì nào ai biết được do lai của Người?

Câu 3b: Và họ vấp phạm vì Người

Câu 28: Chúa Giêsu hô lên: phải các ngươi biết Ta và rõ Ta từ đâu ra. Thế mà nào có phải tự Ta, Ta đã đến đâu. Nhưng Đấng đã sai Ta là Đấng chân thật, các ngươi lại không biết Ngài.

Như vậy, nghe lời giảng dạy, chứng kiến các phép lạ các kỳ công của Chúa Giêsu... điều đó chưa đủ. Người ta cần phải đạt đến một tầm mức cao hơn: tầm mức của đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai cứu độ.

So sánh với bản văn Luca 4,16-21, cách miêu tả của Máccô rất ngắn gọn. Chủ ý của thánh ký chỉ nhằm nêu lên sự kiện cứng tin của người dân quê nhà. Họ ngạc nhiên về những lời giảng giải kinh thánh đầy sự khôn ngoan của Người; họ nhắc đến quyền năng làm các phép lạ của Người (c. 2). Song, họ không tin Người.

Ông ấy chẳng phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Giacôbê, Giôse, Giuđa, Simon đó ư?Và các chị em của ông lại không ở giữa chúng ta đây sao? Và họ vấp phạm vì Người (c. 3)

Người quê nhà của Chúa Giêsu quả thực biết rõ lý lịch của Người. Họ quen biết anh em và chị em của Người. Những chàng dân quê như Giacôbê, Giôsê, Giuđa hay Simon, đâu có xa lạ gì với họ. Như vậy, ông Giêsu này không thể là một nhân vật khác thường. Và cũng chính vì thế mà Người trở thành một thứ viên đá vấp phạm cho họ: họ đã vấp phạm vì Người.

Thành ngữ eskandalizonto en autô được Giáo hội sơ khai sử dụng như thứ ngữ vựng chuyên môn ám chỉ tới sự sa bẫy của đức tin (x. Mc 4,17). Sự kiện này trở nên một lời cảnh giác cho Cộng đoàn tin Chúa: những ai nghĩ rằng họ biết Chúa Giêsu, họ phải coi chừng và duyệt xét lại đức tin của họ: có nhiều trở ngại và nguy cơ trong lãnh vực đức tin.

Chúa Giêsu đã vay mượn một châm ngôn quen thuộc để đáp lời lại các người đồng hương cứng tin "Ngôn sứ mà bị khinh thì chỉ có nơi quê quán".

Trước hết câu châm ngôn này có thể gợi nhắc đến một thứ tâm lý xã hội: không ai nói tiên tri được trong quê nhà mình cũng như không có lương y nào chữa trị được những kẻ quen biết mình. Lời châm ngôn nói lên một kinh nghiệm sống khá chua chát. Các ngôn sứ của Thiên Chúa đã từng gặp phải sự phản kháng bi đát nhất nơi quê hương họ: "Ấy anh em ngươi và gia đình cha ngươi, ngay chúng nó cũng đã phản ngươi... Đừng tin chúng khi chúng nói ngon ngọt với người. Phần tôi như con chiên dễ bảo ngưòi ta dẫn tới lò sát sinh, tôi vần không biết rằng chúng âm mưu hãm hại tôi". (Gr 11,18t).

Chúa Giêsu, vị ngôn sứ sau cùng của Thiên Chúa cũng không thoát khỏi số phận đó. Và đây cũng là ý nhắm thần học của Máccô. Thái độ cứng tin của người dân làng Nadarét trở thành lời loan báo mầu nhiệm khổ nạn của Chúa Giêsu. Nó sẽ là cớ vấp phạm cho những kẻ không tin song là dấu chỉ cứu độ cho kẻ tin theo.

Từ đó số phận ngôn sứ của Chúa Giêsu cũng vén mở cho chúng ta ơn gọi của người môn đệ Chúa. Chúa Giêsu đã thành lập một cộng đoàn mới, một gia đình mới (x. Mc 3,35) vượt lên trên tầm vóc "quê quán, bà con, gia đình" (c. 4b). Bởi vậy, kẻ tin theo Chúa sẽ không để cho những liên hệ hoặc những thảm trạng ở tầm vóc tự nhiên tạo nguy cơ cho đức tin của mình.

Do sự cứng tin, Chúa Giêsu không thể làm các phép lạ... Nhưng tại sao Người không thể tỏ bày quyền lực trước một thái độ cứng tin? Thực ra sự không thể liên kết với sự kiện thiếu đức tin: Người ngạc nhiên thấy họ cứng tin (c. 6a). Vì chưng, thánh ký Máccô không hề muốn miêu tả một mối tương quan tâm lý, như thể sự tin tưởng của bệnh nhân là điều kiện của sự chữa trị thành công. Nhãn quan thần học của Máccô nhằm đến chủ đề đức tin.

Nếu thiếu vắng đức tin, một phép lạ của Đấng Thiên sai cứu độ sẽ mất hết ý nghĩa cứu độ. Nó có nguy cơ dẫn tới quan niệm lệch lạc về quyền lực của Chúa Giêsu.

Ngược lại, chỉ có đức tin mới mở mắt cho người ta nhìn thấy quyền năng cứu độ của Người ngang qua các lời nói hay việc làm của Người.

Nguyện xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho con người mỏng dòn yếu đuối của chúng ta để chúng ta nhận ra quyền năng, tình thương của Chúa ngày mỗi ngày trong cuộc đời chúng ta. Và cũng xin Chúa mở lòng chúng ta để chúng ta cao rao lòng tin, cao rao quyền năng Chúa cho mọi người mà chúng ta chung sống, chúng ta gặp gỡ.

 

31.Đức Giêsu Kitô, Người là ai?

(Suy niệm của Anmai, CSsR)

Từ thuở tạo thành, Thiên Chúa yêu con người và đã cho con người thay Ngài để cai quản vũ trụ tốt đẹp do chính tay Ngài tạo dựng. Ngài cho con người hưởng tất cả hạnh phúc của Ngài chỉ trừ một điều duy nhất là đừng sờ vào, đừng đụng vào cái cây ở giữa vườn mà Thánh Kinh ghi lại là "cây biết lành biết dữ". Cái cây ấy là dấu chỉ, là lời mà Ngài đã dặn đi dặn lại cho con người nhưng rồi con người đã vi phạm, đã giơ tay ra hái nó. Và từ đó, con người đã đánh mất đi mối tình đẹp giữa Thiên Chúa và con người. Tưởng chừng với biết bao nhiêu kinh nghiệm của cuộc đời, của con người, con người sẽ trở về với Thiên Chúa nhưng không. Con người vẫn mãi mê với cái thế sự thăng trầm này để rồi không còn nhận ra Thiên Chúa nữa, hay có nhận ra thì cũng nhận ra với một hình ảnh dị dạng, hình ảnh bóp méo hay hình ảnh một Thiên Chúa do chính người đó tạo dựng chứ không còn là một Thiên Chúa tuyệt vời, một người Cha nhân hậu nữa.

Cứ đọc lại những trang Thánh Kinh, chúng ta sẽ thấy được một Thiên Chúa tuyệt vời như thế nào. Dẫu cho rằng con người trắc trở, con người quay lưng với Thiên Chúa đi chăng nữa nhưng Thiên Chúa chẳng bỏ rơi bao giờ. Bằng cách này hay cách khác, Thiên Chúa vẫn tiếp cận với con người qua những trung gian của Ngài như các ngôn sứ.

Thiên Chúa luôn hiện diện, luôn đồng hành với con người trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời nhưng liệu rằng con người có nhận ra sự hiện diện, sự đồng hành đó hay không? Đặc biệt, trong những biến cố đau thương bi đát của cuộc đời.

Hôm nay, chúng ta nghe tâm sự của Isaia:

Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,

còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.

Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,

giơ má cho người ta giật râu.

Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.

Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,

vì thế, tôi đã không hổ thẹn,

vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.

Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.

Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.

Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà!

Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi!

Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,

ai còn dám kết tội? (Is 50, 5-9a)

Trong cái cảnh bi đát của cuộc đời, Isaia vẫn tin vào Chúa và bám chặt cuộc đời của mình vào Chúa. Hình ảnh người tôi tớ trong Isaia đó chính là hình ảnh Chúa Giêsu - Con Một Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chịu khổ hình, chịu chết... Dù rơi vào cái cảnh khốn cùng nhất của con người, nhục nhã, đau đớn bi đát nhất của con người nhưng Giêsu vẫn tin vào Thiên Chúa Cha, tin vào sự quan phòng của cha mình.

Thiên Chúa mãi mãi vẫn là thách thức của lòng tin của con người.

"Con ơi Thiên Chúa tốt lành,

Đất trời có Chúa định thành mới nên.

Trên trời mọi sự do Thiên,

Bên nhân bên quả gắn liền với nhau".

Cụ Kh. đã nhìn Thiên Chúa từ câu hỏi về nguồn gốc vạn vật.

Hỡi im lặng thiêng liêng, ngập tràn, ứa vựa,

Ta lia gươm rạch ứa máu ngàn không,

Để muôn đời không có nữa, Mênh Mông

Vẫn ngăn cách Hồn Yêu cùng Đạo lý.

Nhưng đau đớn! Ta vấp mồ thế kỷ

Chết nơi đây vì xét nghĩa Không Cùng

Đem trí người suy đoán nỗi Mông Lung

Của Thiên Chúa vẫn muôn đời bí mật.

Đó là một đoạn trong bài "Thể Chất" của Hồ Dzếnh, gia nhập Kitô giáo khoảng năm 1940. Nhà thơ này đã cúi đầu trước sự huyền nhiệm của Thiên Chúa.

Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của con người, Thiên Chúa vẫn chờ đợi sự đáp trả của con người về Ngài. Chúa Giêsu Kitô con Thiên Chúa làm người cũng chất vấn mỗi người chúng ta về lòng tin vào Thiên Chúa, về lòng tin vào Ngài.

Hôm nay, Chúa Giêsu thấy chất vấn các môn đệ cũng là chất vấn mỗi người chúng ta. Với mỗi người chúng ta, khi Chúa Giêsu hỏi chúng ta thì liệu rằng chúng ta có can đảm, có tin nhận và trả lời như Phêrô hay không hay là chúng ta cũng nói rằng Chúa Giêsu cũng chỉ là một ngôn sứ như Êlia, như Gioan Tẩy Giả...

Nhiều lần nhiều lúc trong đầu kitô hữu thì Giêsu Kitô như là Êlia hay Môsê thôi chứ chẳng hơn. Bi đát nhất của cuộc đời đó là người ta tự hoạ cho mình một Thiên Chúa, một Giêsu Kitô theo nét vẽ riêng của họ.

Trong tuần thường huấn nọ ở một nhà dòng kia. Vị thuyết giảng chia sẻ về hình ảnh của một Giêsu chịu đóng đinh, chịu đau khổ như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô cũng như các môn đệ trong Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Vị thuyết giảng trình bày về một Giêsu theo mô tả của Thánh Kinh và một Giêsu lịch sử.

Sau khi trình bày thì nhiều người cứ chất vấn đi chất vấn lại về Giêsu! Chất vấn đó là quyền tự do của con người nhưng khi đã là tu sĩ, linh mục thì không dừng ở chuyện chất vấn nữa mà là tin và hiểu thêm về diện mạo Chúa Giêsu. Chất vấn là vấn đề, là chuyện dành cho những người chưa tin. Tu sĩ, linh mục mà lại chất vấn đi chất vấn lại Giêsu thì nó làm sao ấy. Nếu như vậy thì niềm tin tu sĩ, linh mục ấy tuyên xưng nó làm sao ấy.

Mỗi người bắt gặp câu hỏi về Thiên Chúa một cách khác nhau. Câu hỏi có khi gay gắt, dồn dập, có khi dịu dàng êm nhẹ, có khi như ray rứt, có khi như ủi an. Có khi, thật lạ lùng, người ta đang đối đầu với câu hỏi về Thiên Chúa bằng cách chối phắt Ngài đi. Nhưng dù dưới hình thức này hay hình thức khác thì mỗi người đều bắt gặp câu hỏi ấy; vào một lúc nào đó trong đời, người ta như chợt thấy. Ai sẵn sàng đón nhận và ra công tìm kiếm thì thế nào cũng gặp được Thiên Chúa. Thiên Chúa không tiếc với ai cả, nhưng phải sẵn sàng đón nhận thì mới gặp được Ngài, còn nếu đã phủ nhận ngay từ đầu thì còn gặp thế nào được. Mở mắt ra và sẽ thấy. Mỗi người gặp được Ngài trong một cảnh ngộ khác nhau, vì mỗi người đã lên đường từ những khởi điểm khác nhau.

Đã hơn một lần, có người hỏi tôi rằng Chúa Giêsu là người da đen, da nâu hay da vàng? Chúa Giêsu sinh ra chính xác là ngày nào? Năm nào?

Tôi trả lời ngay là không cần biết là Giêsu có da đen, da nâu, da vàng hay da đỏ miễn làm sao khi mở quyển Almanack thì bạn sẽ thấy rõ ràng rằng có một Giêsu sinh làm người tại hang đá Belem và sống cái làng Nagiaret nhỏ bé. Chúa Giêsu đã hiện diện rồi trong lịch sử nhưng ai tin vào đó là Đấng nhân danh Chúa mà đến, là Ngôi Hai con Thiên Chúa làm người?

Về diện mạo, về hình ảnh của một Giêsu lịch sử hay một Giêsu ký ức cũng cần tìm hiểu, cần đào sâu để mở rộng kiến thức để trình bày lại cho những người chưa hiểu hay những người chưa tin. Vấn đề cần ở đây là làm sao ta cũng phải tuyên xưng lòng tin vào Giêsu Kitô như Phêrô giữa nhiều và nhiều người không tin ở thời Chúa Giêsu. Vấn đề đã rõ, giữa biết bao nhiêu người không tin, giữa nhiều sự chất vất nhưng Phêrô đã vượt qua chuyện không tin và Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của mình.

Thật sự ra mà nói không đơn giản để mà tuyên xưng được như Phêrô đâu. Có những lúc ta cũng mạnh mẽ tuyên xưng như Phêrô ấy nhưng có những lúc ta chối Chúa bây bẩy thôi.

Nếu chúng ta can đảm tuyên xưng một Giêsu là Đấng Kitô của đời mình như Phêrô thì chúng ta phải sống, phải thể hiện lòng tin ấy như Phêrô cách triệt để chứ không phải là nói suông. Lối sống của người có đức tin chúng ta vừa nghe Thánh Giacôbê mời gọi: Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: "Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin (Gc 2, 14-19)

Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô, đấng đang hiện diện trong cuộc đời ta, đang có đứng trước mặt ta ban thêm lòng tin cho chúng ta để ta cũng mạnh dạn tuyên xưng lòng tin ấy vào Giêsu Kitô như Phêrô tông đồ hôm nay vậy. Và cũng xin Chúa ban thêm cho ta lòng mến để chúng ta diễn tả, chúng ta sống lòng tin ấy bằng đời sống thường nhật của chúng ta.

 

home Mục lục Lưu trữ